Khóa luận Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Đồng Nai

Theo ngân hàng nhà nước (NHNN), tính thanh khoản ởcác ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong thời gian vừa qua đang có nhiều điều đáng quan tâm và lo ngại, đặc biệt là đối với các NHTM cổphần nhỏvừa mới được thành lập hoặc vừa được chuyển đổi mô hình hoạt động từnông thôn lên thành thị. Đối với những ngân hàng này, khi thịtrường tiền tệgặp khó khăn thì những yếu kém trong tính thanh khoản được bộc lộkhá rõ và các ngân hàng này đối mặt với không ít khó khăn và thách thức. Bên cạnh đó, vào năm 2008 một sốngân hàng đã rơi vào tình trạng thiếu thanh khoản và biểu hiện của nó là trào lưu “siêu lãi suất” hồi đầu năm. Lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam liên ngân hàng tăng lên một cách chóng mặt đã đẩy các NHTM vào cuộc chạy đua lãi suất làm mặt bằng lãi suất huy động tăng dần lên từ12% lên tới 18,6%/năm. Sựtăng trưởng tín dụng nhưtrên cùng với khảnăng quản lý thanh khoản hạn chếlàm cho hoạt động kinh doanh của hầu hết các NHTM bị ảnh hưởng nghiêm trọng, thậm chí một vài ngân hàng nhỏbịtê liệt. Việc cho vay đối với khách hàng tại các ngân hàng hầu nhưbị đình chỉ, hầu hết các ngân hàng chỉ ưu đãi cấp tín dụng theo hạn mức đối với những khách hàng truyền thống, trong khi đó lãi suất cho vay cũng bị đẩy lên rất cao, ởmức 18%/năm, rồi 21%/năm. Kết quảkinh doanh của các ngân hàng giảm sút một cách nghiêm trọng, nhiều ngân hàng bịlỗhàng trăm tỷvà hầu hết các ngân hàng đều phải điều chỉnh giảm kếhoạch lợi nhuận năm 2008 khoảng 30- 40%. Đánh giá ởgóc độvĩmô của toàn bộnền kinh tếthì những diễn biến nhưtrên đã gây ảnh hưởng tiêu cực lớn đến mục tiêu giảm lạm phát, tăng trưởng kinh tếvà ổn định đời sống xã hội. [11] Từcuối năm 2008 đến nửa đầu năm 2009, tình hình thếgiới rơi vào tình trạng khủng hoảng, hàng loạt các ngân hàng ởcác nước trên thếgiới tuyên bốphá sản. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến các NHTM Việt Nam và RRTK được đánh giá là rủi ro nguy hiểm nhất. Vì trong hệthống ngân hàng, nếu một hay hai ngân hàng rủi ro có thểlây sang ngay các ngân hàng khác.

pdf80 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3300 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Theo ngân hàng nhà nước (NHNN), tính thanh khoản ở các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong thời gian vừa qua đang có nhiều điều đáng quan tâm và lo ngại, đặc biệt là đối với các NHTM cổ phần nhỏ vừa mới được thành lập hoặc vừa được chuyển đổi mô hình hoạt động từ nông thôn lên thành thị. Đối với những ngân hàng này, khi thị trường tiền tệ gặp khó khăn thì những yếu kém trong tính thanh khoản được bộc lộ khá rõ và các ngân hàng này đối mặt với không ít khó khăn và thách thức. Bên cạnh đó, vào năm 2008 một số ngân hàng đã rơi vào tình trạng thiếu thanh khoản và biểu hiện của nó là trào lưu “siêu lãi suất” hồi đầu năm. Lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam liên ngân hàng tăng lên một cách chóng mặt đã đẩy các NHTM vào cuộc chạy đua lãi suất làm mặt bằng lãi suất huy động tăng dần lên từ 12% lên tới 18,6%/năm. Sự tăng trưởng tín dụng như trên cùng với khả năng quản lý thanh khoản hạn chế làm cho hoạt động kinh doanh của hầu hết các NHTM bị ảnh hưởng nghiêm trọng, thậm chí một vài ngân hàng nhỏ bị tê liệt. Việc cho vay đối với khách hàng tại các ngân hàng hầu như bị đình chỉ, hầu hết các ngân hàng chỉ ưu đãi cấp tín dụng theo hạn mức đối với những khách hàng truyền thống, trong khi đó lãi suất cho vay cũng bị đẩy lên rất cao, ở mức 18%/năm, rồi 21%/năm. Kết quả kinh doanh của các ngân hàng giảm sút một cách nghiêm trọng, nhiều ngân hàng bị lỗ hàng trăm tỷ và hầu hết các ngân hàng đều phải điều chỉnh giảm kế hoạch lợi nhuận năm 2008 khoảng 30- 40%. Đánh giá ở góc độ vĩ mô của toàn bộ nền kinh tế thì những diễn biến như trên đã gây ảnh hưởng tiêu cực lớn đến mục tiêu giảm lạm phát, tăng trưởng kinh tế và ổn định đời sống xã hội. [11] Từ cuối năm 2008 đến nửa đầu năm 2009, tình hình thế giới rơi vào tình trạng khủng hoảng, hàng loạt các ngân hàng ở các nước trên thế giới tuyên bố phá sản. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến các NHTM Việt Nam và RRTK được đánh giá là rủi ro nguy hiểm nhất. Vì trong hệ thống ngân hàng, nếu một hay hai ngân hàng rủi ro có thể lây sang ngay các ngân hàng khác. 2 Hiệu quả quản trị RRTK không chỉ dừng ở thanh khoản mà có quan hệ mật thiết với tất cả hoạt động của từng NHTM, của hệ thống NHTM, của hệ thống định chế tài chính và liên quan đến cả cơ chế vĩ mô…nhưng trước hết, bản thân mỗi NHTM phải làm tốt. [13] Qua đó, ta có thể thấy được việc nâng cao hiệu quả quản trị RRTK cho NHTM là một vấn đề cấp thiết được đặt ra. Nhận thức được vấn đề này, tác giả đã chọn đề tài “NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH ĐỒNG NAI” làm nội dung báo cáo nghiên cứu khoa học của mình. 2. Tổng quan lịch sử nghiên cứu của đề tài Quản trị rủi ro thanh khoản là một đề tài không còn mới đối với quốc tế, tuy nhiên đối với Việt Nam thì đây là một đề tài còn khá mới và còn nhiều điều cần phải nghiên cứu. Hiện các đề tài về quản trị rủi ro thanh khoản của nước ngoài rất đa dạng và phong phú như “Liquidity Risk and Competition in Banking” của Yoram Landskroner và Jacob Paroush, “Banking Liquidity Risk Management Issues” của Rifki Ismal, “Liquidity risk management” của Richard Barfield và Shyam Venkat... Tại Việt Nam, hiện nay các đề tài về RRTK còn khá hiếm, chỉ có một vài đề tài nhưng tính ứng dụng vào thực tiễn chưa cao. Các đề tài về quản trị rủi ro thanh khoản tại Việt Nam đa số đều nói chung về quản trị rủi ro thanh khoản của các NHTM mà chưa thể đi sâu nghiên cứu đến từng ngân hàng, nhất là các NHTM nhà nước. Ta có thể thấy sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và thực trạng kém thanh khoản tại các NHTM Việt Nam vào đầu năm 2008 thì vấn đề thanh khoản là một đề tài nóng bỏng được đặt ra cho các NHTM Việt Nam nhưng vẫn chưa được xem xét, nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết. Trong phạm vi trường Đại Học Lạc Hồng, các năm vừa qua chưa có sinh viên nào thực hiện đề tài về quản trị rủi ro thanh khoản tại NHTM, do đó báo cáo nghiên cứu này sẽ đi sâu nghiên cứu vấn đề cụ thể về quản trị rủi ro thanh khoản tại một NHTM nhà nước tại địa bàn Tỉnh Đồng Nai. 3 3. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp tại bàn: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích số liệu thống kê..., phương pháp mô tả, phương pháp so sánh. 4. Mục tiêu nghiên cứu - Hoàn thiện, củng cố những kiến thức về quản trị RRTK từ việc áp dụng vào thực tiễn tại ngân hàng. - Đi sâu nghiên cứu, phân tích thực trạng quản trị RRTK tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Đồng Nai. Trên cơ sở nghiên cứu, tác giả đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị RRTK tại ngân hàng. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu • Đối tượng nghiên cứu: - Thực trạng quản trị RRTK tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Đồng Nai. • Phạm vi nghiên cứu: - Thời gian nghiên cứu: cuối năm 2009 đến nửa đầu năm 2010. - Không gian nghiên cứu: NHTM nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Đồng Nai. 6. Những đóng góp mới của đề tài Đề tài quản trị rủi ro thanh khoản là một đề tài khá mới đối với các nhà nghiên cứu về kinh tế tại Việt Nam, đồng thời Việt Nam đang bước trên con đường hội nhập với nền kinh tế thế giới. Báo cáo nghiên cứu về quản trị rủi ro thanh khoản tại một NHTM nhà nước cụ thể giúp ta có thể hiểu thêm về cơ cấu quản trị rủi ro thanh khoản tại NHTM nhà nước và tình hình thanh khoản tại ngân hàng, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm giúp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản. 4 7. Kết cấu của đề tài Báo cáo nghiên cứu khoa học ngoài lời mở đầu và kết luận, bao gồm các nội dung chính như sau: CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO THANH KHOẢN VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TẠI NHTM CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG AGRIBANK (CHI NHÁNH ĐỒNG NAI) CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TẠI NH AGRIBANK CHI NHÁNH ĐỒNG NAI 5 Chương 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO THANH KHOẢN VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TẠI NHTM 1.1. QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG 1.1.1, Tổng quan về rủi ro 1.1.1.1, Khái niệm rủi ro Rủi ro theo một số tài liệu nghiên cứu là một khái niệm trừu tượng. Nhưng nhìn chung rủi ro được định nghĩa theo hai trường phái chính: Theo trường phái truyền thống, rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không chắc chắn.[10] Theo trường phái trung hòa, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Rủi ro vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang tới những tổn thất, mất mát, nguy hiểm,… cho con người nhưng cũng có thể mang đến những cơ hội. [10] Như vậy, rủi ro là một yếu tố khách quan cho nên người ta không thể nào loại trừ được hẳn mà chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện của chúng cũng như những tác hại mà chúng gây nên.[6] Nếu có những biện pháp thích hợp để khắc phục những mặt tiêu cực và tận dụng những cơ hội thì không những có thể hạn chế được tổn thất mà còn mang lại lợi ích cho doanh nghiệp. 1.1.1.2, Phân loại rủi ro Có nhiều cách khác nhau để tiếp cận rủi, trong phạm vi đề tài căn cứ vào phạm vi phát sinh rủi ro và tác động của rủi ro đến đối tượng quan tâm. Tác giả chia rủi ro thành rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống. Rủi ro hệ thống (hay còn gọi là rủi ro không phân tán được) là những rủi ro do các yếu tố nằm ngoài công ty, không kiểm soát được và có ảnh hưởng rộng rãi đến cả thị trường. Rủi ro hệ thống là những rủi ro từ bên ngoài của một ngành công nghiệp 6 hay của một doanh nghiệp, chẳng hạn như chiến tranh, lạm phát, sự kiện kinh tế và chính trị... [11] Rủi ro phi hệ thống (hay còn gọi là rủi ro phân tán được) loại rủi ro này là kết quả của những biến cố ngẫu nhiên hoặc không kiểm soát được chỉ ảnh hưởng đến một công ty hoặc một ngành công nghiệp nào đó. Các yếu tố này có thể là những biến động về lực lượng lao động, năng lực quản trị, kiện tụng hay chính sách điều tiết của chính phủ. Vì hầu hết các nhà đầu tư có hiểu biết tối thiểu đều có thể loại bỏ rủi ro có thể phân tán được bằng cách nắm giữ một danh mục đầu tư đủ lớn từ vài chục đến vài trăm. [11] 1.1.2, Rủi ro và quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng 1.1.2.1, Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng a. Khái niệm Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, rủi ro là những biến cố không mong đợi mà khi xảy ra sẽ dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoảng chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định. [1] b. Phân loại Phân loại các rủi ro trong kinh doanh ngân hàng thể hiện tại sơ đồ 1.1 Sơ đồ 1.1: Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng[5] *RR: rủi ro RR* QUỐC GIA VÀ RR KHÁC RR CÔNG NGHỆ VÀ HOẠT ĐỘNG RR HOẠT ĐỘNG NGOẠI BẢNG RỦI RO THANH KHOẢN RỦI RO TÍN DỤNG RỦI RO NGOẠI HỐI RỦI RO LÃI SUẤT RR TRONG KD NGÂN HÀNG 7 Rủi ro lãi suất là rủi ro xuất hiện khi có sự thay đổi của lãi suất trên thị trường hoặc của những yếu tố có liên quan đến lãi suất, dẫn đến tổn thất về mặt tài sản hoặc làm giảm thu nhập của ngân hàng. [1] Rủi ro tỷ giá (hay rủi ro ngoại hối) là rủi ro phát sinh trong quá trình cho vay ngoại tệ hoặc quá trình kinh doanh ngoại tệ khi tỷ giá biến động theo chiều hướng bất lợi gây tổn thất cho ngân hàng. [1] Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng. Tất cả các hình thức cấp tín dụng của ngân hàng bao gồm cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, cho thuê tài chính, chiết khấu các chứng từ có giá, tài trợ xuất nhập khẩu, tài trợ dự án, bao thanh toán và bảo lãnh đều chứa rủi ro tín dụng.[1] RRTK (mất khả năng thanh toán) là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu khả năng chi trả, không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền, hoặc không có khả năng vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán.[1] Rủi ro hoạt động ngoại bảng là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng phát triển các hoạt động ngoại bảng. Chẳng hạn trong trường hợp bảo lãnh công ty phát hành trái phiếu, nếu công ty này phá sản thì ngân hàng phải đứng ra thanh toán toàn bộ gốc và lãi chứng khoán do công ty phát hành.[5] Rủi ro công nghệ và hoạt động [5] Rủi ro công nghệ là loại rủi ro phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công nghệ không tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính khi mở rộng qui mô hoạt động. Rủi ro hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể phát sinh bất cứ khi nào nếu hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc là khi hệ thống hỗ trợ bên trong ngừng hoạt động. Rủi ro quốc gia và rủi ro khác [5] 8 Rủi ro quốc gia là rủi ro xảy ra trong trường hợp ngân hàng đầu tư bằng bản tệ cho các công ty nước ngoài có trụ sở ở nước ngoài. Nếu công ty này không có khả năng hoặc không sẵn lòng hoàn trả vốn vay thì rất khó có thể thu hồi lại vốn. Rủi ro khác bao gồm thay đổi thuế đột ngột, chiến tranh, trộm cắp, lừa đảo... 1.1.2.2, Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng [1] Quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro. Quản trị rủi ro bao gồm các bước thể hiện trên sơ đồ 1.2 Sơ đồ 1.2: Các bước quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng[1] Nhận dạng rủi ro Để quản trị rủi ro trước hết phải nhận dạng rủi ro. Nhận dạng rủi ro bao gồm các công việc theo dõi, xem xét, nghiên cứu môi trường hoạt động và toàn bộ mọi hoạt động của ngân hàng, nhằm thống kê được tất cả các rủi ro, không chỉ những loại rủi ro đã xảy ra, mà còn dự báo được những dạng rủi ro mới có thể xuất hiện đối với ngân hàng, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp kiểm soát và tài trợ rủi ro thích hợp. Để nhận dạng rủi ro, nhà quản trị phải lập được bảng liệt kê các dạng rủi ro đã, đang và có thể xuất hiện đối với ngân hàng bằng phương pháp sau: lập bảng câu hỏi nghiên cứu về rủi ro và tiến hành điều tra, phân tích các báo cáo tài chính, phương pháp lưu đồ, thanh tra hiện trường, phân tích các hợp đồng, làm việc với các cơ quan Nhà nước, các ban, ngành có liên quan. Phân tích rủi ro Phân tích rủi ro là phải xác định được những nguyên nhân gây ra rủi ro. Đây là một công việc phức tạp, bởi mỗi rủi ro không chỉ do một nguyên nhân duy nhất gây ra mà do nhiều nguyên nhân gây ra. NHẬN DẠNG RỦI RO ĐO LƯỜNG RỦI RO KIỂM SOÁT VÀ PHÒNG NGỪA RỦI RO TÀI TRỢ RỦI RO PHÂN TÍCH RỦI RO 9 Phân tích rủi ro là nhằm tìm ra biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro. Trên cơ sở tìm ra các nguyên nhân, tác động đến các nguyên nhân thay đổi chúng. Từ đó sẽ phòng ngừa rủi ro một cách hữu hiệu hơn. Đo lường rủi ro Để đo lường rủi ro, cần thu thập số liệu và phân tích, đánh giá. Trên cơ sở kết quả thu thập được, lập ma trận đo lường rủi ro. Để đánh giá mức độ quan trọng rủi ro đối với ngân hàng, người ta sử dụng cả hai tiêu chí: tần suất xuất hiện của rủi ro và biên độ của rủi ro – mức độ nghiêm trọng của tổn thất, Trong đó tiêu chí thứ hai đóng vai trò quyết định. Kiểm soát và phòng ngừa rủi ro Công việc trọng tâm của công tác quản trị là kiểm soát rủi ro. Kiểm soát rủi ro là việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, các công cụ, chiến lược, các chương trình hoạt động để ngăn ngừa, né tránh hoặc giảm thiểu những tổn thất, những ảnh hưởng không mong đợi có thể xảy ra với ngân hàng. Có các biện pháp kiểm soát rủi ro như: Các biện pháp né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu tổn thất, chuyển giao rủi ro, đa dạng hóa rủi ro, quản trị thông tin... Tài trợ rủi ro Khi rủi ro xảy ra, trước hết cần theo dõi, xác định chính xác những tổn thất về tài sản, nguồn nhân lực, giá trị pháp lý. Sau đó cần có những biện pháp tài trợ rủi ro thích hợp. 1.1.3, Nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong kinh doanh ngân hàng [1] 1.1.3.1, Nhóm nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng Có nhiều nguyên nhân thuộc về năng lực quản lý dẫn đến rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Nhưng việc không quản lý chặt chẽ thanh khoản dẫn đến thiếu khả năng chi trả là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Bênh cạnh đó, việc cho vay và đầu tư quá liều lĩnh cũng dẫn đến rủi ro, cụ thể trong cho vay ngân hàng tập trung nguồn vốn quá nhiều vào một doanh nghiệp hoặc một ngành kinh tế nào đó, trong đầu tư ngân hàng chỉ chú trong đầu tư vào một loại chứng khoán có rủi ro cao. Và do thiếu am hiểu thị trường, thiếu thông tin hoặc phân tích thông tin không đầy đủ dẫn đến việc ngân hàng cho vay hoặc đầu tư không hợp lý. Ngoài ra còn có 10 nguyên nhân là do hoạt động kinh doanh trái pháp luật, tham ô, do cán bộ ngân hàng thiếu đạo đức nghề nghiệp, yếu kém về trình độ nghiệp vụ,... tất cả đều là nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. 1.1.3.2, Nhóm nguyên nhân thuộc về phía khách hàng Những nguyên nhân thuộc về phía khách hàng như do khách hàng vay vốn thiếu năng lực pháp lý, sử dụng vốn vay sai mục đích, kém hiệu quả, kênh thu nhập lỗ liên tục, hàng hóa không tiêu thụ được... Mặt khác việc khách hàng quản lý vốn không hợp lý dẫn đến thiếu thanh khoản hay do chủ doanh nghiệp vay vốn thiếu năng lực điều hành, tham ô, lừa đảo cũng là nguyên nhân gây rủi ro cho ngân hàng. 1.1.3.3, Nhóm nguyên nhân khách quan có liên quan đến môi trường hoạt động kinh doanh Những nguyên nhân khách quan có khá nhiều như do thiên tai, hỏa hoạn, tình hình an ninh, chính trị trong nước, khu vực không ổn định. Hay do khủng hoảng, suy thoái kinh tế, lạm phát, mất cân bằng cán cân thanh toán quốc tế dẫn đến tỷ giá hối đoái biến động thất thường, môi trường pháp lý không thuận lợi... cũng dẫn đến những rủi ro trong hoạt động ngân hàng. 1.1.4, Ảnh hưởng của rủi ro đến hoạt động kinh doanh ngân hàng và kinh tế xã hội [1] Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, rủi ro đầu tiên ảnh hưởng là có thể gây tổn thất về tài sản cho ngân hàng. Những tổn thất thường gặp là mất vốn khi cho vay, gia tăng chi phí hoạt động, giảm sút lợi nhuận, giảm sút giá trị của tài sản... Bên cạnh đó rủi ro làm giảm uy tính của ngân hàng, sự tín nhiệm của khách hàng và có thể đánh mất thương hiệu của ngân hàng. Một ngân hàng làm ăn thua lỗ liên tục, một ngân hàng thường xuyên không đủ khả năng thanh toán có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng rút tiền hàng loạt của khách hàng, và phá sản là con đường tất yếu. Từ đó, ảnh hưởng đến hàng ngàn người gửi tiền vào ngân hàng, hàng ngàn doanh nghiệp không được đáp ứng nhu cầu vốn... làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, gây rối loạn trật tự xã hội và hơn nữa sẽ kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt ngân hàng trong nước. 11 Ngoài ra, rủi ro của các ngân hàng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới, vì trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế thế giới hiện nay, nền kinh tế của mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát tiển rất nhanh, nên rủi ro ngân hàng tại một nước luôn ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước có liên quan. Thực tế đã chứng minh qua cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997), cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) và gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ (2008). 1.2.TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN NGÂN HÀNG 1.2.1, Bản chất của RRTK (RRTK) 1.2.1.1, Các khái niệm về thanh khoản a. Thanh khoản (Liquidity) là khả năng tiếp cận các khoản tài sản hoặc nguồn vốn có thể dùng để chi trả với chi phí hợp lý ngay khi nhu cầu vốn phát sinh. [3] b. RRTK (Liquidity risk) RRTK là rủi ro khi ngân hàng thiếu ngân quỹ hoặc tài sản ngắn hạn mang tính khả thi để đáp ứng nhu cầu của người gửi tiền và người đi vay (Thomas.P. Fitch) [4] RRTK là sự biến động về thu nhập ròng và thị giá của vốn sở hữu, xuất phát từ khó khăn của ngân hàng trong việc huy động ngay lập tức các khoản ngân quỹ sẵn bằng hình thức vay mượn hoặc bán tài sản (Timothy W.Koch) [4] Như vậy, RRTK là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu khả năng chi trả, không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền hoặc không có khả năng vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán. [3] c. Quản trị thanh khoản Là việc quản lý có hiệu quả cấu trúc tính thanh khoản (tính lỏng) của tài sản và quản lý tốt cấu trúc danh mục của nguồn vốn. [3] d. Cung thanh khoản là các khoản vốn làm tăng qũy của ngân hàng, là nguồn cung cấp thanh khoản cho ngân hàng. [3] e. Cầu thanh khoản là nhu cầu vốn cho các mục đích của ngân hàng làm giảm qũy của ngân hàng đó. [3] 12 Bảng 1.1: Các yếu tố của cung cầu thanh khoản [3] CUNG THANH KHOẢN St CẦU THANH KHOẢN Dt 1. Các khoản tiền gửi đang đến (S1) 2. Thu nhập bán các khoản dịch vụ (S2) 3. Thu hồi tín dụng đã cấp(S3) 4. Bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng (S4) 5. Các khoản cung khác (S5). 1. Khách hàng rút các khoản tiền gửi (D1) 2. Yêu cầu cấp các khoản tín dụng (D2) 3. Hoàn trả các khoản vay mượn phi tiền gửi (D3) 4. Chi phí phát sinh khi kinh doanh các sản phẩm và dịch vụ (D4) 5. Thanh toán cổ tức cho các cổ đông (D5). f. Trạng thái thanh khoản ròng (Net Liquidity Position) [3] Căn cứ vào dữ kiện trình bày tại Bảng 1.1 cho ta kết quả sau: Trạng thái thanh khoản ròng = Tổng cung thanh khoản – Tổng cầu thanh khoản (NLPt) = (S1+S2+S3+S4+S5) – (D1+D2+D3+D4+D5) Ba khả năng có thể xảy ra như sau: NLPt=0: ngân hàng trong trạng thái cân bằng thanh khoản, trường hợp này rất hiếm có thể xảy ra trong thực tế. NLPt>0: ngân hàng trong tình trạng thặng dư thanh khoản (Liquidity surplus). Do nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả, ngân hàng không
Luận văn liên quan