Khóa luận Nâng cao năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, thủy sản sang thị trường nhật bản

Sau hơn 20 năm thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế, nền kinh tế Việt Nam đã có những bƣớc phát triển vƣợt bậc. Tăng trƣởng kinh tế trong những năm gần đây liên tục ở mức 7-8%/ nă m, đời sống nhân dân đƣợc nâng lên rõ rệt. Tất cả các lĩnh vực kinh tế đều có những bƣớc phát triển vƣợt bậc, trong đó, xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản liên tục tăng trong những năm qua và đƣợc coi là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Những năm gần đây, xuất khẩu nông sản, lâm, thuỷ sản thƣờng xuyên chiế m khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nƣớc, năm 2006 tổng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản đạt 8,88 tỷ USD chiế m 22,2% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và hiện là nƣớc nhập khẩu hàng hoá lớn thứ hai của Việt Nam (sau Hoa Kỳ). Hàng năm Nhật Bản nhập khẩu khối lƣợng hàng hoá trị giá 300-450 tỷ USD (Năm 2006 trị giá nhập khẩu đạt 420,6 tỷ USD), trong đó nhập từ Việt Nam khoảng 5,121 tỷ USD, chiếm khoảng 13-16% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Hơn nữa, Nhật Bản và Việt Nam lại gần gũi về mặt địa lý và có những nét tƣơng đồng về văn hoá, điều này càng tạo nhiều thuận lợi cho Việt Nam có thể tăng cƣờng xuất khẩu sang Nhật Bản, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ mạnh cho nhập khẩu công nghệ và thu hút đầu tƣ trực tiếp từ Nhật Bản vào nƣớc ta. Hiện nay, Nhật Bản là thị trƣờng nhập khẩu lớn nhất đối với thuỷ sản và thứ hai đối với lâ m sản (chủ yếu là đồ gỗ, hàng mây tre đan thủ công mỹ nghệ) của Việt Nam với tỷ trọng tƣơng ứng khoảng 25% và 13%. Ngoài ra, Nhật Bản còn nhập khẩu lớn các loại hàng nông sản của Việt Nam nhƣ cà phê, chè, gạo, cao su, rau quả. Đây là một thị trƣờng rộng lớn, tiềm năng đối với các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản, song cũng là thị trƣờng nổi tiếng khắt khe đối với hàng nhập khẩu và các rào cản thƣơng mại phức tạp vào bậc nhất thế giới. Mặc dù kim ngạch xuất khẩ u các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản của Việt Nam sang thị trƣờng Nhật Bản đều 2 tăng qua các năm, nhƣng vẫn chƣa tƣơng xứng với tiềm năng nông nghiệp Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản hàng nă m của Nhật Bản. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nhƣ những yếu kém, hạn chế trong cạnh tranh, chƣa đáp ứng đƣợc những yêu cầu của thị trƣờng Nhật Bản, hệ thống chính sách xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản của chúng ta còn chƣa hợp lý, trong đó, năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản của Việt Nam còn yếu là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho hiệu quả hoạt động xuất khẩu các sản phẩ m nông, lâm, thuỷ sản của chúng ta còn nhiều hạn chế. Việc nghiên cứu và tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản sang thị trƣờng Nhật Bản là hết sức cần thiết góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản của đất nƣớc. Với những lý do trên, dƣới sự hƣớng dẫn của cô giáo, Ths. Nguyễn Thị Thu Hằng, tôi đã lựa chọn đề tài: “ Nâng cao năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản sang thị trƣờng Nhật Bản” để là m khoá luận tốt nghiệp của mình.

pdf107 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2031 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nâng cao năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, thủy sản sang thị trường nhật bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tr•êng ®¹i häc ngo¹i th•¬ng hµ néi Khoa kinh tÕ vµ kinh doanh quèc tÕ Chuyªn ngµnh kinh tÕ ®èi ngo¹i ********* o0o ******** kho¸ luËn tèt nghiÖp §Ò tµi: N©ng cao n¨ng lùc xuÊt khÈu cña doanh nghiÖp viÖt nam xuÊt khÈu s¶n phÈm n«ng, l©m, thñy s¶n sang thÞ tr•êng nhËt b¶n SV thùc hiÖn : Ph¹m ThÞ Minh Kh¸nh Líp : NhËt 2 Khãa : K42 GV h•íng dÉn :tHs. NguyÔn ThÞ Thu H»ng hµ néi, th¸ng 11 / 2007 LỜI MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Sau hơn 20 năm thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế, nền kinh tế Việt Nam đã có những bƣớc phát triển vƣợt bậc. Tăng trƣởng kinh tế trong những năm gần đây liên tục ở mức 7-8%/ năm, đời sống nhân dân đƣợc nâng lên rõ rệt. Tất cả các lĩnh vực kinh tế đều có những bƣớc phát triển vƣợt bậc, trong đó, xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản liên tục tăng trong những năm qua và đƣợc coi là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Những năm gần đây, xuất khẩu nông sản, lâm, thuỷ sản thƣờng xuyên chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nƣớc, năm 2006 tổng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản đạt 8,88 tỷ USD chiếm 22,2% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và hiện là nƣớc nhập khẩu hàng hoá lớn thứ hai của Việt Nam (sau Hoa Kỳ). Hàng năm Nhật Bản nhập khẩu khối lƣợng hàng hoá trị giá 300-450 tỷ USD (Năm 2006 trị giá nhập khẩu đạt 420,6 tỷ USD), trong đó nhập từ Việt Nam khoảng 5,121 tỷ USD, chiếm khoảng 13-16% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Hơn nữa, Nhật Bản và Việt Nam lại gần gũi về mặt địa lý và có những nét tƣơng đồng về văn hoá, điều này càng tạo nhiều thuận lợi cho Việt Nam có thể tăng cƣờng xuất khẩu sang Nhật Bản, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ mạnh cho nhập khẩu công nghệ và thu hút đầu tƣ trực tiếp từ Nhật Bản vào nƣớc ta. Hiện nay, Nhật Bản là thị trƣờng nhập khẩu lớn nhất đối với thuỷ sản và thứ hai đối với lâm sản (chủ yếu là đồ gỗ, hàng mây tre đan thủ công mỹ nghệ) của Việt Nam với tỷ trọng tƣơng ứng khoảng 25% và 13%. Ngoài ra, Nhật Bản còn nhập khẩu lớn các loại hàng nông sản của Việt Nam nhƣ cà phê, chè, gạo, cao su, rau quả... Đây là một thị trƣờng rộng lớn, tiềm năng đối với các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản, song cũng là thị trƣờng nổi tiếng khắt khe đối với hàng nhập khẩu và các rào cản thƣơng mại phức tạp vào bậc nhất thế giới. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản của Việt Nam sang thị trƣờng Nhật Bản đều 1 tăng qua các năm, nhƣng vẫn chƣa tƣơng xứng với tiềm năng nông nghiệp Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản hàng năm của Nhật Bản. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nhƣ những yếu kém, hạn chế trong cạnh tranh, chƣa đáp ứng đƣợc những yêu cầu của thị trƣờng Nhật Bản, hệ thống chính sách xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản của chúng ta còn chƣa hợp lý,… trong đó, năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản của Việt Nam còn yếu là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho hiệu quả hoạt động xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản của chúng ta còn nhiều hạn chế. Việc nghiên cứu và tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản sang thị trƣờng Nhật Bản là hết sức cần thiết góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản của đất nƣớc. Với những lý do trên, dƣới sự hƣớng dẫn của cô giáo, Ths. Nguyễn Thị Thu Hằng, tôi đã lựa chọn đề tài: “ Nâng cao năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản sang thị trƣờng Nhật Bản” để làm khoá luận tốt nghiệp của mình. II. Mục đích nghiên cứu 1. Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về doanh nghiệp và năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp. 2. Đánh giá năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản sang thị trƣờng Nhật Bản thông qua thực trạng xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm thuỷ sản sang thị trƣờng Nhật Bản. 3. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản sang thị trƣờng Nhật Bản. III. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 1. Đối tƣợng nghiên cứu - Nhật Bản và các vấn đề liên quan đến thị trƣờng Nhật Bản: tổng quan về thị trƣờng Nhật Bản, đặc điểm thị trƣờng, các yêu cầu và chính sách và cơ chế nhập khẩu hàng hoá,… 2 - Năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản sang thị trƣờng Nhật Bản, các yếu tố tác động và các giải pháp. 2. Phạm vi nghiên cứu Khoá luận nghiên cứu vấn đề năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu trong phạm vi một số sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản chính xuất khẩu sang thị trƣờng Nhật Bản: Nông sản (cà phê, cao su, rau quả), lâm sản (đồ gỗ, mây tre đan), thuỷ sản (tôm, mực, cá). Những phân tích đánh giá này chủ yếu lấy mốc từ năm 2001 đến năm 2006. IV. Phƣơng pháp nghiên cứu Khoá luận sử dụng kết hợp các phƣơng pháp phân tích- tổng hợp, thống kê- đối chiếu, kết hợp lý luận với thực tiễn trong quá trình nghiên cứu. V. Kết cấu của khoá luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận đƣợc chia thành 3 chƣơng: Chƣơng I: Một số vấn đề lý luận về năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Chƣơng II: Thực trạng năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản sang thị trƣờng Nhật Bản Chƣơng III: Các giải pháp nâng cao năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản sang thị trƣờng Nhật Bản Do thời gian nghiên cứu có hạn và năng lực còn nhiều hạn chế, khoá luận chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót. Tôi kính mong nhận đƣợc sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để khoá luận đƣợc hoàn thiện hơn. Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo Nguyễn Thị Thu Hằng, giáo viên hƣớng dẫn của tôi đã giúp tôi hoàn thành khoá luận này. 3 CHƢƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP I. DOANH NGHIỆP VÀ NĂNG LỰC XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP 1. Doanh nghiệp và các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam 1.1. Khái niệm doanh nghiệp và đặc điểm của doanh nghiệp Hiện nay, có khá nhiều khái niệm doanh nghiệp đƣợc đƣa ra. Tuy nhiên, khái niệm doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2005 vẫn đƣợc thừa nhận phổ biến hơn cả. Theo Luật Doanh nghiệp 2005 thì "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, đƣợc đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh" (Điều 4-khoản 1) Từ định nghĩa trên có thể rút ra đƣợc một số đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp nhƣ sau: - Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế độc lập Doanh nghiệp hoạt động một cách độc lập, không phụ thuộc vào các chủ thể kinh tế khác. Điều này thể hiện ở việc doanh nghiệp có tên riêng, trụ sở giao dịch riêng, tài sản riêng, doanh nghiệp hoạt động một cách độc lập, nhân danh mình và tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. - Mục đích hoạt động của doanh nghiệp là kinh doanh thu lợi nhuận Các doanh nghiệp thành lập thƣờng đều nhằm mục đích kinh doanh. Mục tiêu của kinh doanh là thu đƣợc lợi nhuận. Vì vậy, mục đích hoạt động của doanh nghiệp là kinh doanh thu lợi nhuận. - Doanh nghiệp hoạt động tuân thủ theo các quy định của pháp luật Pháp luật chỉ thừa nhận và bảo vệ doanh nghiệp khi doanh nghiệp hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật. Doanh nghiệp phải đƣợc thành lập hợp pháp, tiến hành đăng ký kinh doanh và hoạt động kinh doanh tuân theo các quy định của pháp luật. 4 1.2. Các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam Tuỳ theo các tiêu chí khác nhau mà có các cách phân loại doanh nghiệp khác nhau. Theo hình thức sở hữu vốn, có 2 loại chính là: doanh nghiệp quốc doanh hay doanh nghiệp nhà nƣớc và doanh nghiệp ngoài quốc doanh Doanh nghiệp nhà nƣớc (DNNN) là những doanh nghiệp do nhà nƣớc sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, đƣợc tổ chức dƣới hình thức công ty nhà nƣớc, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, (Điều 1- Luật Doanh nghiệp 2005). Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là những doanh nghiệp do các cá nhân, tổ chức trong xã hội đầu tƣ vốn thành lập. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bao gồm các Hợp tác xã (hay còn gọi là doanh nghiệp tập thể) hoạt động dƣới sự điều chỉnh của Luật Hợp tác xã năm 2003, các loại hình doanh nghiệp đƣợc quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tƣ nhân (trong đó gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trong nƣớc và các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài). Đặc điểm của các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh là không có sự tham gia đóng góp vốn và sự chi phối của Nhà nƣớc trong hoạt động tài chính. Theo hình thức pháp lý của doanh nghiệp, có các loại: công ty TNHH (công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty TNHH một thành viên), công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tƣ nhân. Công ty TNHH hai thành viên trở lên (thƣờng đƣợc gọi tắt là công ty TNHH) là doanh nghiệp trong đó thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lƣợng thành viên không vƣợt quá năm mƣơi. Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn cam kết góp vào doanh nghiệp.(Điều 38-khoản 1 mục a, mục b, mục c- Luật Doanh nghiệp 2005) Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty). Chủ sở hữu 5 công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. (Điều 63 khoản 1- Luật Doanh nghiệp 2005) Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ đƣợc chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lƣợng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lƣợng tối đa. (trích Điều 77 khoản 1 mục a, mục b- Luật Doanh nghiệp 2005). Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dƣới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Doanh nghiệp tƣ nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. 2. Vai trò của xuất khẩu đối với doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam 2.1. Vai trò của xuất khẩu đối với doanh nghiệp 2.1.1. Xuất khẩu nâng cao trình độ lao động, trình độ quản lý của doanh nghiệp Các sản phẩm xuất khẩu phải đảm bảo đáp ứng đƣợc những yêu cầu chất lƣợng khắt khe của các tiêu chuẩn quốc tế và các tiêu chuẩn của nƣớc nhập khẩu. Do đó, để xuất khẩu đƣợc sản phẩm, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một đội ngũ lao động có kỹ thuật, lành nghề, trình độ quản lý của đội ngũ lãnh đạo cũng phải đƣợc nâng cao hơn. 2.1.2. Xuất khẩu nâng cao uy tín, thƣơng hiệu của doanh nghiệp Thông qua xuất khẩu sản phẩm ra thị trƣờng nƣớc ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đƣợc ngƣời tiêu dùng nƣớc ngoài biết đến và ngày càng khẳng định đƣợc thƣơng hiệu nhƣ cà phê Trung Nguyên, sản phẩm may mặc 6 Hanosimex, May 10,…Do đó, xuất khẩu góp phần nâng cao uy tín, thƣơng hiệu của doanh nghiệp. 2.1.3. Xuất khẩu góp phần tạo mối liên kết giữa các doanh nghiệp và các bạn hàng nƣớc ngoài Để xuất khẩu đƣợc hàng hoá phải thông qua rất nhiều khâu nhƣ sản xuất, thu gom nguyên, vật liệu, hàng hoá, vận tải, bảo hiểm,… Trong hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trên sẽ liên kết theo một chuỗi để sản phẩm tới đƣợc tay ngƣời tiêu dùng, do đó xuất khẩu phát triển sẽ góp phần tạo mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong nƣớc. Đồng thời hoạt động xuất khẩu cũng giúp cho các doanh nghiệp tìm thấy các bạn hàng, nhà tiêu thụ, nhà cung cấp đầu vào ở nƣớc ngoài, học hỏi thêm các kinh nghiệm quản lý, kỹ năng kinh doanh. 2.2. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế Việt Nam 2.2.1. Xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ cho nhu cầu nhập khẩu phục vụ quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nƣớc Trƣớc tiên phải khẳng định rằng xuất khẩu đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nƣớc, kinh tế còn nhiều khó khăn thì nhu cầu vốn để nhập khẩu máy móc, trang thiết bị công nghiệp là rất lớn. Xuất khẩu sẽ tạo nguồn thu ngoại tệ để giúp chúng ta thoát khỏi tình trạnh thiếu vốn đầu tƣ cho nhập khẩu máy móc, trang thiết bị hiện đại và đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. 2.2.2. Xuất khẩu góp phần thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế nhanh và bền vững Xuất khẩu là một phần của GDP nên xuất khẩu góp phần thúc đẩy sự tăng trƣởng GDP của đất nƣớc. Năm 2002, xuất khẩu chiếm 47% tổng GDP, so với năm 1998 tăng 62%, kéo theo sự tăng tƣơng ứng của GDP là 55%.1 2.2.3. Xuất khẩu góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân Xuất khẩu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hƣớng công nghiệp hoá- hiện đại hoá, từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang 1 Bộ Thƣơng mại, Báo cáo kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2002 7 kinh tế hàng hoá. Phát triển xuất khẩu góp phần giải quyết công ăn việc làm cho ngƣời lao động, nâng cao chất lƣợng và trình độ của ngƣời lao động, cải thiện đời sống nhân dân, từ đó phát triển nền kinh tế theo chiều sâu. 2.2.4. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam từ chỗ chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm thô, chƣa qua chế biến, giá trị gia tăng thấp, đến nay chúng ta đã chú ý đầu tƣ phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến và các ngành công nghiệp chế tạo linh kiện điện tử và công nghiệp phần mềm. Đồng thời, thực hiện chiến lƣợc hƣớng ra xuất khẩu, cơ cấu lao động của Việt Nam đang chuyển dịch theo hƣớng giảm dần lao động nông nghiệp, tăng tỷ lệ lao động phi nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. 2.2.5. Xuất khẩu thúc đẩy các mối liên kết kinh tế Xuất khẩu phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của hàng loạt các ngành có liên quan nhƣ công nghệ chế biến, dịch vụ, vận tải,…Chẳng hạn, xuất khẩu nông sản thúc đẩy công nghiệp chế biến nông sản, cơ khí chế tạo máy nông nghiệp phát triển. Việc phát triển các làng nghề sản xuất các sản phẩm xuất khẩu sẽ tạo hiệu ứng thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, phát triển ngành du lịch. Thông qua xuất khẩu, nền kinh tế quốc dân đang tham gia hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, thúc đẩy các mối giao lƣu về kinh tế- thƣơng mại, văn hoá giữa các nƣớc. 3. Năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp 3.1. Khái niệm năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp 3.1.1. Khái niệm Những năm gần đây, thuật ngữ “năng lực xuất khẩu” (NLXK) thƣờng xuyên đƣợc nhắc đến trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên câu hỏi “năng lực xuất khẩu là gì?” hiện nay vẫn chƣa có một khái niệm chính xác. Một số quan điểm cho rằng khái niệm “năng lực xuất khẩu” và “khả năng xuất khẩu” là khái niệm đồng nhất và có thể thay thế cho nhau. Tuy nhiên, theo từ điển tiếng Việt “khả năng” và “năng lực” là hai phạm trù khác 8 nhau. “Khả năng là cái có thể xảy ra trong điều kiện nhất định”, còn "năng lực liên quan chặt chẽ đến hiện thực, nó là cặp phạm trù phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái hiện có, hiện đang tồn tại thực sự với những gì chƣa có, nhƣng sẽ có trong điều kiện tƣơng ứng, sự vật nói tới trong khả năng chƣa tồn tại”. Nhƣ vậy, “năng lực là cái nội tại, cái yếu tố bên trong vốn có của đơn vị, tổ chức hay cá nhân có thể đáp ứng một vấn đề, một nhu cầu nào đó của cuộc sống, của xã hội. Năng lực chính là khả năng đƣợc hiện thực hoá. Từ đó có thể thấy rằng khái niệm “năng lực xuất khẩu” khác với khái niệm “khả năng xuất khẩu”. Trƣớc hết, nếu xuất phát từ nguyên nghĩa của từ “năng lực” là khả năng tối đa có thể thực hiện đƣợc một việc gì đó, thì ta có thể hiểu: Năng lực xuất khẩu của một doanh nghiệp là khả năng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đến mức cao nhất của doanh nghiệp trên thị trƣờng nƣớc ngoài.2 Thứ hai, có thể hiểu “ Năng lực xuất khẩu là khả năng một doanh nghiệp có thể bán đƣợc sản phẩm trên thị trƣờng quốc tế và thu lợi trên cơ sở tạo dựng và khai thác một cách hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp và những cơ hội thị trƣờng”.3 Cách tiếp cận về năng lực xuất khẩu này có một số hàm ‎ ý. Thứ nhất, năng lực xuất khẩu là kết quả của chiến lƣợc và các hoạt động hay nỗ lực có chủ định của một doanh nghiệp nhằm tạo dựng và khai thác một cách hiệu quả nhất các nguồn lực mà doanh nghiệp sở hữu hoặc có khả năng tiếp cận, tức là nó phụ thuộc vào các yếu tố chủ quan của doanh nghiệp. Thứ hai, doanh nghiệp có thể tạo dựng đƣợc năng lực xuất khẩu trên cơ sở tiếp cận và khai thác tốt các yếu tố về lợi thế so sánh, môi trƣờng kinh doanh thuận lợi của quốc gia, nhƣ cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, vị trí địa lý, các ngành công nghiệp bổ trợ, điều kiện nhu cầu. Định nghĩa cũng chỉ ra rằng, năng lực xuất khẩu thực sự của doanh nghiệp phải đƣợc xem xét trong điều kiện cạnh tranh 2 TS. Bùi Ngọc Sơn, Tác động của môi trƣờng kinh doanh đến năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam, Hội thảo khoa học: Những vấn đề lý luận về năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp và mô hình đánh giá năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp Hà Nội, 01/2004, tr75-76 3 CN. Ngô Quý Nhâm, Các căn cứ để xây dựng mô hình đánh giá năng lực xuất khẩu của DN, Hội thảo khoa học: Những vấn đề lý luận về năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp và mô hình đánh giá năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp Hà Nội, 01/2004, tr36-37 9 tự do, tức là bất cứ sự bảo hộ hay trợ giá nào của chính phủ đều phải đƣợc loại bỏ khi xem xét năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp. Từ những phân tích trên, tổng hợp lại có thể hiểu “ Năng lực xuất khẩu doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp khai thác và tận dụng một cách hiệu quả các nguồn lực của mình kết hợp với những chiến lƣợc, đối sách thích hợp trong môi trƣờng kinh doanh của doanh nghiệp để thực hiện sản xuất và/ hoặc thu gom và cung ứng, trao đổi hàng hoá- dịch vụ với nƣớc ngoài nhằm mục đích lợi nhuận cao và không ngừng mở rộng thị trƣờng”. 4 3.1.2. Phân biệt năng lực xuất khẩu và năng lực cạnh tranh Khi phân tích năng lực xuất khẩu, chúng ta thƣờng nhắc tới khái niệm năng lực cạnh tranh. Đây là hai khái niệm rất dễ nhầm lẫn và cần phải phân biệt. Năng lực cạnh tranh là năng lực tồn tại, duy trì hay gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trƣờng cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp. Nói cách khác, đó là khả năng bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và đƣợc đo bằng thị phần hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp ở cả trong và ngoài nƣớc. 5 Các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh bao gồm công nghệ-kỹ thuật, năng suất lao động, chất lƣợng sản phẩm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ quản lý và cuối cùng là thị trƣờng đầu ra của sản phẩm. Nói tới năng lực cạnh tranh là nói tới khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm cùng loại cả trong và ngoài nƣớc để giành lấy thị phần lớn hơn. Việc phân biệt năng lực xuất khẩu và năng lực cạnh tranh chỉ mang tính chất tƣơng đối. Thực tế hai khái niệm này có sự đan xen lẫn nhau về nội hàm. Thực chất năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp đƣợc thể hiện ở khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trƣờng quốc tế, tức là doanh nghiệp có khả năng bán sản phẩm trên thị trƣờng quốc tế và thu đƣợc lợi nhuận. Để bán đƣợc sản phẩm trên thị trƣờng quốc