Rừng ngập mặn (RNM) giữmột vai trò rất to lớn trong việc đảm bảo các chức
năng tổng hợp cho sựphát triển bền vững vùng ven bờbiển của nhiều quốc gia trên
thếgiới, trong đó có Việt Nam. Các chức năng chính của RNM thểhiện qua các mặt
chủyếu sau đây (1)- phòng hộ, phòng chống thiên tai, góp phần giảm thiểu biến đổi
khí hậu; (2)- bảo tồn đa dạng sinh học biển; (3)- phát triển kinh tếxã hội; (4)- đảm bảo
an ninh, quốc phòng.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau (chiến tranh, phát triển kinh tế, khai thác bất
hợp lý, thiên tai.) mà RNM ởnước ta bịsuy giảm nhanh chóng vềcảsốlượng và chất
lượng trên phạm vi toàn quốc. Tại nhiều địa phương, nhiều cánh rừng ngập mặn cùng
nhiều loài cây và các nguồn tài nguyên khác đi kèm đang đứng trước nguy cơbịxóa sổ
hoàn toàn. Những tổn thất vềtài nguyên và môi trường vùng ven bờngày càng thấy rõ.
Đặc biệt là trong bối cảnh sựbiến đổi khí hậu (BĐKH) đang diễn ra nhanh chóng trên
quy mô toàn cầu, trong khi Việt Nam được dựbáo là một trong 5 quốc gia trên thếgiới
sẽhứng chịu hậu quảnặng nềnhất do thảm họa này gây ra với những tác nhân được
cho là chủyếu đến từphía biển. Cũng theo các chuyên gia vềmôi trường, RNM đóng
một vai trò tích cực trong việc góp phần giảm thiểu BĐKH cũng nhưnhững thiệt hại
do BĐKH có thểgây ra, đồng thời tạo ra điều kiện tốt cho việc thích ứng với xu thế
khó có thể đảo ngược này.
Đứng trước tình hình đó, nhiệm vụ bảo tồn, phục hồi và phát triển hệ thống
RNM ở nước ta hiện nay là việc làm cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Nhiều
chương trình, dựán của Chính phủvới sựtài trợcủa của các tổchức quốc tế đã và
đang đầu tưcho hoạt động thiết thực này. Tuy nhiên, việc phục hồi và phát triển RNM
hiện nay cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức vềnhiều mặt, trong đó có
khía cạnh kỹthuật lâm sinh. Đó là việc chọn loài cây trồng, nguồn giống, điều kiện gây
trồng và các tiêu chuẩn kỹthuật khác cần phải được xác định trên cơsởthực nghiệm
và sựhiểu biết về đặc điểm sinh vật học và sinh thái học của từng loài. Việc đa dạng
hóa loài cây trồng trong hệthống RNM cũng là một yêu cầu bắt buộc mà hướng đi là
bên cạnh ưu tiên các loài cây địa phương thì việc du nhập, di thực các loài cây mới có
tiềm năng cho từng vùng, miền là thực sựcần thiết.
53 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2673 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nghiên cứu hiện trạng phân bốvà đặc điểm sinh thái học của loài cây Dừa nước (Nypa fruticans Wurmb.) tại khu vực Trung Trung bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài Liệu Tham Khảo
1. Phan Nguyên Hồng, 1997. Vai trò của Rừng ngập mặn Việt Nam. Nxb Nông
Nghiệp.224 trang
2. UBND xã Cẩm Thanh, “Báo cáo thuyết minh bản đồ hiện trạng sử dụng đất
năm 2005 của xã Cẩm Thanh”.
3. Dự án “ Phục hồi và bảo tồn Rừng Dừa Nước Cẩm Thanh phục vụ du lịch sinh
thái và phát triển bền vững”.Quỹ môi trường toàn cầu.
4. Cao Phương Nam, Cao Thanh Liêu ( Tháng 12/2008), “Khảo sát diễn biến các
chỉ tiêu TOC, Fe2+, NH3 và H2S ở lớp nước đáy, bùn đáy trong các mô hình nuôi
tôm sú trên đất phèn hoạt động ở Cà Mau”, tạp chí Nông Nghiệp và Phát triển
Nông Thôn, số 12, trang 68-73.
5. Đinh Thanh Giang, Ngô Đình Quế ( Tháng 11/2008), “Nghiên cứu đặc điểm đất
dưới rừng trồng ngập mặn và mô hình lâm ngư kết hợp vùng ven biển huyện
Thái Thuỵ- Thái Bình”, tạp chí Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn, số 11,
trang 88-92.
6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn (2005), Khoa học công nghệ nông
nghiệp và phát triển nông thôn 20 năm đổi mới (Tập 3,Đất- Phân Bón), Nhà
xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội.
7. Ngô Đình Quế và CTV, “Đề xuất cơ chế chính sách nhằm khôi phục và phát
triển bền vững hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển Việt Nam”, tạp chí Nông
Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, số 2, trang 3-8.
8. UBND xã Cẩm Thanh, “Báo cáo thuyết minh tổng kiểm kê đất đai năm 2000”
9. UBND xã Cẩm Thanh, “Báo cáo tóm tắt phương án quy hoạch sử dụng đất đai
thời kỳ 2006-2015”.
10. UBND Thị xã Hội An, Phòng Nông nghiệp, PTNT, 1999. Hồ sơ thiết kế, dự
toán trồng cây ngập mặn năm 1999 tại xã Cẩm Thanh.
11. UBND thị xã Hội An, 2006, Đề án: “Một số giải pháp chủ yếu xây dựng xã
Cẩm Thanh- làng quê sinh thái đặc thù từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp
theo”, 15 tr.
12. Báo cáo khoa học đề tài Nhà nước KHCN KC 06-08 “ Nghiên cứu quy luật và
dự đoán xu thế xói lở, bồi lở, bồi tụ vùng cửa sông ven biển Việt Nam”, 1999.
13. Theo Người Lao Động ( Ngày 8/3/2010). Đi dọc sông Thu Bồn.Truy cập ngày
(20/3/2010), từ
Lời cảm ơn
Trong quá trình thực tập và hoàn thành khoá luận tốt nghiệp, sự giúp đỡ và tạo điều
kiện thuận lợi của UBND thị xã Hội An, Ban quản lý Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm,
UBND Xã Cẩm Thanh, Phòng Kinh Tế và Phòng Tài Nguyên Môi Trường thị xã Hội
An, Gia đình ông bà Đặng Tiệm, tôi xin chân thành cảm ơn tất cả những sự giúp đỡ
quý báu đó.
PHẦN 1:
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng ngập mặn (RNM) giữ một vai trò rất to lớn trong việc đảm bảo các chức
năng tổng hợp cho sự phát triển bền vững vùng ven bờ biển của nhiều quốc gia trên
thế giới, trong đó có Việt Nam. Các chức năng chính của RNM thể hiện qua các mặt
chủ yếu sau đây (1)- phòng hộ, phòng chống thiên tai, góp phần giảm thiểu biến đổi
khí hậu; (2)- bảo tồn đa dạng sinh học biển; (3)- phát triển kinh tế xã hội; (4)- đảm bảo
an ninh, quốc phòng.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau (chiến tranh, phát triển kinh tế, khai thác bất
hợp lý, thiên tai...) mà RNM ở nước ta bị suy giảm nhanh chóng về cả số lượng và chất
lượng trên phạm vi toàn quốc. Tại nhiều địa phương, nhiều cánh rừng ngập mặn cùng
nhiều loài cây và các nguồn tài nguyên khác đi kèm đang đứng trước nguy cơ bị xóa sổ
hoàn toàn. Những tổn thất về tài nguyên và môi trường vùng ven bờ ngày càng thấy rõ.
Đặc biệt là trong bối cảnh sự biến đổi khí hậu (BĐKH) đang diễn ra nhanh chóng trên
quy mô toàn cầu, trong khi Việt Nam được dự báo là một trong 5 quốc gia trên thế giới
sẽ hứng chịu hậu quả nặng nề nhất do thảm họa này gây ra với những tác nhân được
cho là chủ yếu đến từ phía biển. Cũng theo các chuyên gia về môi trường, RNM đóng
một vai trò tích cực trong việc góp phần giảm thiểu BĐKH cũng như những thiệt hại
do BĐKH có thể gây ra, đồng thời tạo ra điều kiện tốt cho việc thích ứng với xu thế
khó có thể đảo ngược này.
Đứng trước tình hình đó, nhiệm vụ bảo tồn, phục hồi và phát triển hệ thống
RNM ở nước ta hiện nay là việc làm cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Nhiều
chương trình, dự án của Chính phủ với sự tài trợ của của các tổ chức quốc tế đã và
đang đầu tư cho hoạt động thiết thực này. Tuy nhiên, việc phục hồi và phát triển RNM
hiện nay cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức về nhiều mặt, trong đó có
khía cạnh kỹ thuật lâm sinh. Đó là việc chọn loài cây trồng, nguồn giống, điều kiện gây
trồng và các tiêu chuẩn kỹ thuật khác cần phải được xác định trên cơ sở thực nghiệm
và sự hiểu biết về đặc điểm sinh vật học và sinh thái học của từng loài. Việc đa dạng
hóa loài cây trồng trong hệ thống RNM cũng là một yêu cầu bắt buộc mà hướng đi là
bên cạnh ưu tiên các loài cây địa phương thì việc du nhập, di thực các loài cây mới có
tiềm năng cho từng vùng, miền là thực sự cần thiết.
Dừa nước (Nypa fruticans Wurmb.) là một trong số rất ít các loài cây thuộc họ
Cau dừa - Arecaceae sinh sống trong vùng đất ngập nước ven biển và quần tụ thành
rừng. Đây là một loài cây đa tác dụng, trong đó tác dụng phòng hộ là nổi bật nhất.
Ngoài tác dụng phòng hộ như chắn sóng, chắn gió, bảo vệ bờ đất, cố định khí phát thải,
rừng Dừa nước còn là nơi cư trú và sinh sống của các loài sinh vật thủy sinh, các loài
chim nước và nhiều loài động vật có giá trị khác. Dừa nước còn có nhiều giá trị sử
dụng khác như: thực phẩm, vật liệu xây dựng, nguyên liệu sản xuất hàng thủ công, mỹ
nghệ có giá trị kinh tế và thân thiện với môi trường, làm thức ăn gia súc, nguồn mật
nuôi ong đồng thời mang lại nguồn lợi thủy sản lớn và tạo thêm nhiều việc làm cho
người lao động vùng ven bờ vốn thường thiếu đất canh tác.
Khu vực Trung Trung bộ, là nơi luôn hứng chịu thiên tai nhiều ở mức hàng đầu
nước ta. Diện tích đất ngập nước, đặc biệt là nước mặn và nước lợ ở đây khá lớn nhưng
diện tích có rừng che phủ lại rất thấp và phân tán. Tuy vậy trong khu vực này vẫn tồn
tại một số điểm phân bố của loài cây Dừa nước là loài cây có tiềm năng phát triển
mạnh trên các vùng đất ngập nước có ảnh hưởng của thủy triều và độ nhiễm mặn của
biển. Cá biệt có những địa phương thuộc thành phố Hội An (Quảng Nam) diện tích
rừng Dừa nước vẫn còn hàng chục đến hàng trăm hecta. Đây là cơ hội tốt cho việc bảo
tồn và mở rộng diện tích gây trồng loài cây đa tác dụng này trên các vùng phân bố tự
nhiên của loài và cả trên những vùng đất ngập nước khác có điều kiện sinh thái phù
hợp trong khu vực.
Để góp phần bảo tồn và phát triển loài cây Dừa nước một cách khoa học và bền
vững trong vùng, chúng tôi thực hiện đề tài: "Nghiên cứu hiện trạng phân bố và đặc
điểm sinh thái học của loài cây Dừa nước (Nypa fruticans Wurmb.) tại khu vực Trung
Trung bộ".
II. MỤC TIÊU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Mục tiêu nghiên cứu
1.1. Mục tiêu chung: Góp phần xây dựng cơ sở dữ liệu và cơ sở khoa học cho việc bảo
tồn và phát triển bền vững hệ thống rừng ngập mặn nói riêng và đất ngập nước nói
chung trong khu vực Trung Trung bộ.
1.2. Mục tiêu cụ thể
Đề tài mong muốn sau khi thực hiện sẽ đạt được các thành quả sau:
• Có được cơ sở dữ liệu về vùng phân bố tự nhiên của loài cây Dừa nước
qua các thời kỳ và những nhân tố ảnh hưởng đến động thái phân bố của
loài trong khu vực nghiên cứu;
• Tìm hiểu được các yếu tố sinh thái ảnh hưởng đến loài và quy luật tác
động của chúng đến sự phân bố, sinh trưởng và phát triển của loài trên
các vùng đất ngập nước trong khu vực nghiên cứu;
• Xây dựng được bản đồ phân bố lý thuyết của loài trong khu vực;
• Bước đầu đề xuất phương án bảo tồn, phục hồi và phát triển phát triển
loài cây Dừa trên các vùng đất ngập nước tại Trung Trung bộ.
2. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài lấy loài Dừa nước làm đối tượng nghiên cứu chính, các nhân tố sinh thái
(như khí hậu, thổ nhưỡng, thủy văn, sinh vật cùng sinh cảnh, hoạt động của con
người...) tại các điểm phân bố tự nhiên của loài sẽ là các dữ liệu khảo sát chính của đề
tài;
Hiện trường khảo sát và thu thập dữ liệu là các vùng đất ngập nước vùng ven bờ
biển có ảnh hưởng của thủy triều và chế độ mặn trong khu vực Trung Trung bộ, gồm
các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi. Trong đó
dự kiến vùng đất ngập nước thuộc hạ lưu sông Thu Bồn (tỉnh Quảng Nam) sẽ là địa
điểm nghiên cứu chính.
Thời gian nghiên cứu dự kiến từ 15/01/2010 đến 15/5/2010.
PHẦN 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Sông Thu Bồn là lưu vực sông lớn nhất tỉnh Quảng Nam với diện tích rộng trên 10.000
km2, là sông có tiềm năng thuỷ điện lớn thứ 4 cả nước. Sông được hình thành từ nhiều
dòng suối nhỏ, bắt nguồn từ núi Ngọc Linh cao 2500 m, thuộc huyện Nam Trà My và
đổ ra biển Cửa Đại, T.P. Hội An. Dòng chảy thượng nguồn sông Thu Bồn đi ngang qua
huyện Hiệp Đức tỉnh Quảng Nam ngăn chia hai thôn Đồng Làng và Ngọc Linh.
Sông Thu Bồn hợp với hạ lưu sông Vu Gia ở huyện Điện Bàn ( Quảng Nam). Cả hai
dòng sông này đã trải phù sa cho vùng đất này, rồi lại hoà cùng dòng Trường Giang
chảy qua phố cổ Hội An và cuối cùng đổ ra biển Cửa Đại.
Phần hạ lưu của sông Thu Bồn đã tạo nên khu vực đất ngập nước ( ĐNN) rộng lớn,
quan trọng và đáng chú ý nhất là khu vực các xã Cẩm Thanh, Cẩm Kim, Cẩm Hà, Cẩm
Nam và vùng phụ cận với hơn 1200 hecta diện tích mặt nước. Các nhánh sông Ba
Chươm, sông Cổ Cò, sông Đình, sông Đò nối với sông Thu Bồn đã tạo ra đa dạng các
cồn gò như thuận Tình, cồn Tiến, cồn 3 xã, gò Hí, gò Già…Hai bên bờ các kênh rạch
là các loài cây ngập mặn sinh sống, trong đó quan trọng nhất là các dãy cây dừa nước
(DN).
2.1 Sơ lược tình hình nghiên cứu về các hệ sinh thái RNM và tình hình sử dụng
cây Dừa nước
Theo công ước Ramsar, (Điều 1.1), các vùng đất ngập nước được định nghĩa
như sau:” các vùng đầm lầy, đầm lầy đất trũng, vùng đất than bùn hoặc nước, tự nhiên
hay nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời, có nước đúng hay chảy, nước ngọt, lợ hay
mặn, kể cả những vùng nước biển với độ sâu ở mức triều thấp, không quá 6m”.
Ngoài ra, công ước ( Điều 2.1) còn quy định các vùng đất ngập nước:” có thể
bao gồm các vùng ven sông và ven biển nằm kề các vùng đất ngập nước, cũng như các
đảo hoặc các thuỷ vực biển sâu hơn 6 m khi triều thấp, nằm trong các vùng đất ngập
nước”. Vùng ĐNM hạ lưu sông Thu Bồn có rất nhiều hệ sinh thái quan trọng, trong đó
hệ sinh thái RNM là nổi bật nhất.
Việt Nam là một nước giàu các hệ sinh thái đất ngập nước, với diện tích ĐNN
hơn 10 triệu ha, chiếm 1/3 diện đất đai cả nước, chủ yếu phân bố ở vùng châu thổ sông
Hồng, sông Cửu Long với các hệ sinh thái đầm phá, các bãi bùn, các vùng cửa sông,
rừng ngập mặn dọc theo bờ biển từ Móng Cái đến Hà Tiên. ĐNN ở Việt Nam rất đa
dạng về loại hình, chức năng, gắn liền với tính đa dạng điều kiện của Việt Nam. Kế
hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt Nam. Kế hoạch hành động Đa dạng sinh
học của Việt Nam( 1995) đã xác định 61 khu đất ngập nước quan trọng và gần đây cục
Môi Trường thuộc Bộ Tài Nguyên và Môi Trường đã đưa ra danh sách gồm 79 khu đất
ngập nước có tầm quan trọng Quốc Gia.
Theo bảng phân loại ĐNN của Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế(IUCN-
1990), đất ngập nước Việt Nam có thể chia làm 3 hệ lớn đó là đất ngập nước ven biển,
đất ngập nước nội địa và đất ngập nước nhân tạo, bao gồm 12 phụ hệ: Biển, cửa sông,
đầm phá, hồ nước mặn ven biển, sông, hồ, đầm lầy, vùng nuôi trồng thuỷ sản, đất nông
nghiệp, nơi khai thác muối, đất đô thị, đất công nghiệp. Các vùng ĐNN trên phân bố ở
tất cả các vùng địa lý (Tây Bắc, Việt Bắc, Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung
Bộ, Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ) và ở các địa hình khác nhau (
miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển). Việt Nam hiện có trên 60 vùng ĐNN có tầm
quan trọng quốc gia và quốc tế như: VQG Xuân Thuỷ ( được công nhận là khu
Ramsar), khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, VQG Tràm Chim, phá Tam Giang- Cầu Hai,
hồ lak, hồ Ba Bể, bãi triều Tây Nam Cà Mau,…
RNM ở Việt Nam đã được nghiên cứu từ rất lâu. Trước chiến tranh, Việt Nam
có khoảng 400.000 ha, ngày nay còn khoảng 200.000 ha do rừng mới được trồng, chủ
yếu là các tỉnh phía Nam và bán đảo Cà Mau. Phan Nguyên Hồng(1984), chia RNM
Việt Nam ra làm 4 khu vực chính, theo đó Vùng Hội An, Quảng Nam thuộc vùng 3 là
khu vực chỉ có các sông ngắn, ít phù sa, bãi ngang gió mạnh, tạo ra nhiều cồn cát dọc
ven biển, do đó RNM chỉ phát triển bên trong các cửa sông, đầm phá, bán đảo.
RNM ở Hội An quan trọng nhất là cây dừa nước (DN) có tên khoa học là Nippa
fructicans thuộc họ Palmae,là một loài cây ngập mặn phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía
Nam, làm thành các thảm rộng theo các triền sông, lạch. Sự hiện diện của chúng ở
miền Trung Hội An thành từng dãy rộng là rất đặc sắc. Các nghiên cứu công bố về sinh
thái phân bố của Dừa Nước ở Hội An còn rất hiếm hoi, chỉ có trong các báo cáo hàng
năm của UBND các xã, huyện về tình hình quản lí đất đai. Ở Việt Nam, ngoài việc
trồng để sử dụng lá, bẹ lá để làm nhà, người dân ở các tỉnh phía Nam còn khai thác quả
DN vừa già để lấy cùi làm thực phẩm.
DN phân bố rộng rãi trong RNM các nước châu Á, và bờ biển Đông châu Phi.
Lá của chúng dài từ 3-9 mét. Phần thân ngầm, bò, ngắn với hệ thống rễ chùm.
DN thường phân bố dọc theo bờ sông thành các dãy dài.Chúng rất cần chế độ ngập
nước theo thuỷ triều.
Người dân ở Bangladesh trồng dừa nước thành ruộng để dùng cho nhu cầu làm
nhà.
DN phát triển ở các vùng nước ngọt và nước biển nơi có tác động của thuỷ triều.
Nhiều dân tộc biết khai thác đa dạng các sản phẩm từ DN như chế tạo đường từ dịch
chiết của buồng DN. Đây là công nghệ rất lý thú ở vùng quê của Dawei Township
(Thái Lan).Trong tiến trình chế tạo đường từ DN, trước tiên là cuống buồng DN sẽ
được cắt, sau đó dùng ống tre hứng phía dưới cuống buồng quả qua 1 đêm để lấy nước
nhựa từ cuống chảy ra. Sáng hôm sau ống tre sẽ đầy nước dừa và được thu hoạch.
Nước quả này sẽ được lọc rồi đun sôi trong chảo rộng. Khi sôi sẽ được vớt bọt để làm
nước đường sạch hơn. Sau khi đun sôi 3 giờ, nước quả này sẽ keo lại, để nguội và thu
được đường từ DN. Cuối cùng các ống tre sẽ được rửa sạch và được xông khói để dùng
cho việc thu thập nước quả DN vào ngày mai, và cứ lặp lại như vậy.
Đường DN rất ngọt, vì vậy chúng thường được dùng để làm nhiều thứ trong các
bữa ăn ở địa phương.
Nước quả DN dùng để uống vào buổi sáng nhưng vào buổi chiều chúng sẽ lên
men thành vị đắng, có thể làm say. Nước đắng của DN bây giờ rất giống với rượu,
được dân địa phương uống gọi là “Pa Ohn Ye”. Sau 2 ngày chứa trong hủ, bình. Nó
cũng còn được sử dụng để làm giấm. Dân địa phương còn biết làm mứt DN, đó là mứt
hoa DN. Khi DN trổ hoa, sẽ được cắt và nấu với đường chế tạo từ DN. Mứt sẽ được ăn
tráng miệng với trà xanh, sử dụng rất truyền thống ở địa phương.
2.2 Một số các đặc điểm điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu
Vùng nghiên cứu nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa Đông Bắc
và Tây Nam. Hàng năm thường chịu ảnh hưởng từ 2-3 cơn bão và áp thấp nhiệt đới và
cũng từng ấy đợt lũ lụt. Do ảnh hưởng của các yếu tố điều kiện tự nhiên đã tạo cho
vùng có các loại hình ĐNN đặc thù so với các vùng khác trong dải ven biển miền
Trung.
2.2.1 Thuỷ triều
Thuỷ triều là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phân bố và
phát triển của các loài thực vật ngập mặn.
Trong phạm vi vùng nghiên cứu, thuỷ triều thuộc chế độ bán nhật triều không đều, biên
độ dao động từ 0,8-1,2m. Biên độ triều thấp rất thuận tiện cho việc di trồng các loài cây
ngập mặn. Trung bình mỗi tháng có 3 ngày chịu ảnh hưởng của chế độ nhật triều(
tháng nhiều nhất có 8 ngày, tháng ít nhất chỉ có 1 ngày), thời gian còn lại trong tháng
chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều không đều (bảng 1). Do ảnh hưởng của chế
độ triều phức tạp (giữa thời gian nhật triều và bán nhật triều là thời gian chuyển chế độ
triều), thời gian triều lên và triều xuống cũng biến đổi theo.
Trong những ngày nhật triều, thời gian triều lên kéo dài tới 18 giờ, ngắn nhất là
12 giờ, trung bình là 13,3 giờ. Thời gian triều xuống dài nhất là 15 giờ, ngắn nhất là 9
giờ, trung bình là 11,5 giờ.
Trong những ngày bán nhật triều, thời gian triều lên dài nhất là 9 giờ, ngắn nhất là 2
giờ.
Bang 1: số ngày trung bình nhật triều và biên độ triều trong tháng tại trạm Đà Nẵng
Tháng
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
TB
năm
Số ngày
nhật
triều
3,2 3,2 3,0 2,5 2,8 2,8 3,4 2,6 3,1 3,8 4,1 3,0 37,5
Biên độ
triều TB
48 48 47 48 49 48 49 49 48 46 42 45 47,25
Biên độ
triều cao
nhất(cm)
112 98 82 96 106 113 109 101 94 91 99 113 101
(Nguồn: Đài khí tượng thuỷ văn Trung Trung Bộ)
2.2.2 Chế độ dòng chảy
-Vào thời kỳ mùa khô
Kết quả đo đạc tại trạm liên tục 1 ngày/đêm tại vùng Cửa Đại( có toạ độ là
108023’31” và 15052’23”, độ sâu 9,0 m) cho thấy, tốc độ dòng chảy trong một chu kỳ
triều có sự thay đổi rất phức tạp theo tầng( các tầng đo là 0.2H, 0.6H và 0.8H- Tầng
chuẩn thuỷ văn).
Ở tầng 0.2H, tốc độ dòng chảy dao động trong khoảng 0.00-0.24 m/s, trung bình 0.10
m/s.
Ở tầng 0.6H, là 0.00-0.23 m/s, trung bình 0.008 m/s.
Ở tầng 0.8H, là 0.03-0.20 m/s, trung bình 0.08 m/s.
Tốc độ dòng chảy chủ yếu do dòng triều, lớn nhất là 0.24 m/s là vào thời gian triều lên
và thấp nhất vào thời gian triều dừng( lúc chuyển triều).
- Vào thời kỳ mùa mưa.
Tốc độ dòng chảy tầng 0.2H, dao động trong khoảng 6,4- 42,9 m/s, trung bình 21,24
m/s; ở tầng 0.6H, là 12,2-45,4 m/s, trung bình 29,06 m/s; ở tầng 0.8H, là 1,9- 35,4 m/s,
trung bình 23,64 m/s.
Lưu lượng nước sông chảy ra biển biến đổi theo hai mùa rất khá nhau, tập trung
chủ yếu vào mùa mưa( trung bình lớn nhất là 680 m/s), mùa khô rất thấp(32m/s).
Bảng 2: Tốc độ dòng chảy tại Cửa Đại vào mùa mưa( tháng 9, 10) và mùa khô( tháng
5)
Các tầng đo Tốc độ dòng chảy mùa
khô(m/s)
Tốc độ dòng chảy mùa
mưa(m/s)
0,2H 6,4-42,9
TB: 21,24
0,00-0,24
TB:0,10
0,6H 12,2-45,4
TB:29,06
0,00-0,23
TB:0,08
0,8H 1,9-35,4
TB:23,64
0,03—0,20
TB:0,08
(Nguồn:Đề tài KHCN 06-08)
1.2.3 Độ mặn
Độ mặn cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng mạnh tới sự phân bố và phát
triển của các loài cây DN nới riêng và các loài cây ngập mặn,loài thuỷ sinh vật
nóichung.
Trong phạm vi khu vực nghiên cứu, để đánh giá khả năng truyền mặn vào thời
kỳ mùa khô đã tiến hành khảo sát đo đạc theo mặt cắt dọc từ Cửa Đại lên đến Cầu Câu
Lâu( bảng 3)
Bảng 3: Số liệu nhiệt muối thời kỳ mùa khô( tháng 5) theo mặt cắt dọc từ Cửa Đại đến
Cầu Câu Lâu
Toạ độ địa lý TT
Kinh độ Vĩ độ
Độ sâu(m) Nhiệt độ
nước tầng
mặt(0C)
Độ
mặn(0/00)
1 108023’45,72” 15052’31,68” 8,5 27,77 11,48
2 108023’34,08” 15052’27,00” 9,5 27,88 11,35
3 108023’22,14” 15052’20,7” 9,0 28,10 10,24
4 108023’7,62” 15052’14,52” 8,0 28,29 10,27
5 108022’28,98” 15051’59,64” 8,0 27,87 9,92
6 108022’35,94” 15051’47,7” 13,5 27,94 8,26
7 108022’13,62” 15051’42,24” 4,5 28,64 9,69
8 108022’8,64” 15051’41,94” 8,0 28,88 8,05
9 108021’30,42” 15051’34,5” 6,0 29,12 6,09
10 108020’54,48” 15051’56,82” 3,0 29,52 1,47
11 108019’46,68” 15052’6,54” 4,0 29,59 0,36
(Nguồn: Đề tài KHCN 06.08)
Các kết quả này được đo vào tháng 5, hơi thấp so với số liệu các kết quả đo
được trong chuyến khảo sát này, từ tháng 6 đến tháng 7/2010. ( có thể do mưa)
2.2.4 Tài nguyên đất
Trên địa bàn nghiên cứu có các loại đất sau:
- Đất cát pha:
Tập trung chủ yếu ở các khu vực Thuận Tình, Gò Già và khu vực Lùm Bà.
Đất thường có màu vàng xám, cấu trúc hạt nhẹ, xen với đất thịt nhẹ. Tầng canh
tác từ 10-15 cm
Đất xốp, nghèo chất hữu cơ
Thích hợp cho việc trồng cây lâu năm
- Đất mặn sú, vẹt, đước:
Tập trung ở các khu vực đất ngập nước vùng cửa sông thôn 2, thôn 7 và thôn 8.
Thực vật chủ yếu là dừa nước, cói, mắm,…
- Đất mặn nhiều:
Tập trung ở các vùng có địa hình thấp và trung bình. Phổ biến ở các thôn 2,7,8
và các khu vực gần đê ngăn mặn của các thôn 3,4,6.
Đất có chứa nhiều muối tan( chủ yếu là NaCl), không đồng nhất về màu sắc, lúc
khô có màu trắng.
Phẫu diện đơn giản, các tầng phát sinh chưa rõ.
Thành phần cơ giới nặng, sét vật lý 5-60%, cát vật lý 15-20%, lượng muối tan>
0,5%, độ PH trong