Khóa luận Nghiên cứu xây dựng mô hình tài khoản vệ tinh du lịch ở Việt Nam

Tài khoản vệ tinh du lịch (TSA:Tourism Satellite Account) là một tập hợp các bảng biểu đo l−ờng, tính toán phản ánh kết quả các mặt hoạt động du lịch trong mối quan hệ qua lại với các ngành kinh tế quốc dân khác theo cùng một phong pháp tính của tài khoản quốc gia. Lý do ra đời khái niệm tài khoản vệ tinh du lịch là do du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp có liên quan và hoạt động trong hầu hết các ngành kinh tế quốc dân, từ các ngành sản xuất cho đến các ngành dịch vụ. Nh−ng du lịch lại ch−a đ−ợc xếp thành một ngành kinh tế độc lập trong hệ thống các ngành kinh tế quốc dân. Do đó, du lịch cũng không đ−ợc xác định thành một ngành trong hệ thống tài khoản quốc gia và đ−ợc tính toán, đo l−ờng để thấy đ−ợc vị trí, vai trò và tầm quan trọng của nó nh− các ngành kinh tế quốc dân khác. Kết cấu hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch của WTO đ−ợc trình bày thành các bảng biểu thống kê với nhiều phân tổ, theo nhiều tiêu thức khác nhau. Các bảng biểu TSA cho phép đánh giá sự ảnh h−ởng tác động qua lại giữa ngành du lịch đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và cho phép phân tích đ−ợc cơ cấu và những biến động, phát triển về du lịch. Những chỉ tiêu chủ yếu trong hệ thống TSA đ−ợc quan tâm nhiều nhất là: - Giá trị tăng thêm của ngành du lịch chiếm trong các ngành kinh tế quốc dân và mối quan hệ phụ thuộc giữa các ngành kinh tế quốc dân với ngành du lịch; - Lao động trong ngành du lịch

pdf25 trang | Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 875 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nghiên cứu xây dựng mô hình tài khoản vệ tinh du lịch ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
172 Nghiên cứu xây dựng mô hình tài khoản vệ tinh du lịch ở Việt Nam 1. Cấp đề tài : Cơ sở 2. Thời gian nghiên cứu : 2003 3. Đơn vị chủ trì : Vụ Thống kê Th−ơng mại, Dịch vụ và Giá cả 4. Đơn vị quản lý : Viện Khoa học Thống kê 5. Chủ nhiệm đề tài : TS. Lý Minh Khải 6. Những ng−ời phối hợp nghiên cứu: CN. Nguyễn Thị Xuân Mai CN. Nguyễn Thị H−ơng Loan CN. Bùi Trọng Tú 7. Kết quả bảo vệ: loại khá Đề tài khoa học Số: 07-2003 173 I. Thống kê tài khoản vệ tinh du lịch thế giới và sự vận dụng ở các quốc gia l. Khái niệm tài khoản vệ tinh du lịch và hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch của WTO Tài khoản vệ tinh du lịch (TSA:Tourism Satellite Account) là một tập hợp các bảng biểu đo l−ờng, tính toán phản ánh kết quả các mặt hoạt động du lịch trong mối quan hệ qua lại với các ngành kinh tế quốc dân khác theo cùng một phong pháp tính của tài khoản quốc gia. Lý do ra đời khái niệm tài khoản vệ tinh du lịch là do du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp có liên quan và hoạt động trong hầu hết các ngành kinh tế quốc dân, từ các ngành sản xuất cho đến các ngành dịch vụ. Nh−ng du lịch lại ch−a đ−ợc xếp thành một ngành kinh tế độc lập trong hệ thống các ngành kinh tế quốc dân. Do đó, du lịch cũng không đ−ợc xác định thành một ngành trong hệ thống tài khoản quốc gia và đ−ợc tính toán, đo l−ờng để thấy đ−ợc vị trí, vai trò và tầm quan trọng của nó nh− các ngành kinh tế quốc dân khác. Kết cấu hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch của WTO đ−ợc trình bày thành các bảng biểu thống kê với nhiều phân tổ, theo nhiều tiêu thức khác nhau. Các bảng biểu TSA cho phép đánh giá sự ảnh h−ởng tác động qua lại giữa ngành du lịch đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và cho phép phân tích đ−ợc cơ cấu và những biến động, phát triển về du lịch. Những chỉ tiêu chủ yếu trong hệ thống TSA đ−ợc quan tâm nhiều nhất là: - Giá trị tăng thêm của ngành du lịch chiếm trong các ngành kinh tế quốc dân và mối quan hệ phụ thuộc giữa các ngành kinh tế quốc dân với ngành du lịch; - Lao động trong ngành du lịch. - GDP của ngành du lịch; . - Qui mô tiêu dùng của khách du lịch và cơ cấu chi tiêu du lịch của khách du lịch quốc tế, khách trong n−ớc; - Vốn đầu t− cho ngành hoạt động du lịch; 174 - Tiêu dùng chung, xúc tiến, đầu t− du lịch Tổ chức du lịch thế giới còn nhấn mạnh vai trò rất quan trọng của hệ thống TSA nh− sau: - TSA cho phép đánh giá đ−ợc hiệu quả kinh doanh du lịch của từng n−ớc, cho biết đ−ợc số l−ợng khách đến và khách đi cũng nh− đặc điểm của từng loại khách; - TSA cho phép đánh giá mối quan hệ giữa các chỉ tiêu về l−ợng với các chỉ tiêu giá trị của du lịch nh− số l−ợt khách, ngày khách, tỉ lệ sử dụng buồng, sử dụng gi−ờng,... với các chỉ tiêu doanh thu từ các cơ sở du lịch. - TSA còn có thể đ−a ra đ−ợc những đánh giá quan trọng về cán cân thanh toán quốc tế của một n−ớc. - Mỗi một tài khoản trong hệ thống TSA đều cung cấp một thông tin cơ bản về mối quan hệ kinh tế giữa ngành hoạt động du lịch với các ngành kinh tế quốc dân khác, là công cụ giúp cho ng−ời ta hiểu đầy đủ hơn về du lịch. TSA cũng cung cấp những thông tin riêng để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu về du lịch, làm căn cứ xây dựng các chiến l−ợc, chính sách phát triển du lịch. Hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch của Tổ chức du lịch thế giới hiện hành bao gồm 10 bảng biểu có nguồn gốc từ hệ thống tài khoản quốc gia 1993 và liên quan đến việc cung cấp và sử dụng các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ du lịch. Hệ thống TSA chia thành 2 nhóm: nhóm thứ nhất bao gồm các biểu l, 2, 3, 4, 5, 6, 7 và 10. Những biểu này nhằm phản ánh về cầu tiêu dùng của khách du lịch, đồng thời cũng phản ánh cả mặt cung của du lịch. Đây là các biểu cốt lõi của hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch. Trong đó riêng biểu 7 (lao động trong ngành du lịch) là biểu không phản ánh về mặt tài chính, chỉ phản ánh về l−ợng. Nhóm thứ hai gồm các biểu 8 và 9 (vốn đầu t− cho du lịch và tiêu dùng chung cho du lịch) đối với nhiều n−ớc còn gặp khó khăn khi làm biểu này, không những do yêu cầu về nguồn số liệu mà còn khó khăn cả về khái niệm, nội dung và phạm vi tính toán. Hệ thống 10 bảng biểu tài khoản vệ tinh du lịch của Tổ chức du lịch thế giới (WTO) hiện hành nh− sau: 175 Biểu 1: Tiêu dùng du lịch khách quốc tế (Inbound tourism consumption) phân theo sản phẩm và loại khách; Biểu 2: Tiêu dùng du lịch khách nội địa (Domestic tourism consumption) phân theo sản phẩm và loại khách; Biểu 3: Tiêu dùng du lịch của khách trong n−ớc du lịch n−ớc ngoài (Outbound tourism consumption) phân theo sản phẩm và loại khách; Biểu 4: Tiêu dùng du lịch trên lãnh thổ quốc gia (Internal tourism consumption) phân theo sản phẩm và theo loại khách; Biểu 5: Tài khoản sản xuất (Production accounts) ngành du lịch và các ngành khác; Biểu 6; Nguồn cung trong n−ớc và cầu tiêu dùng du lịch trên lãnh thổ quốc gia phân theo sản phẩm; Biểu 7: Lao động trong các ngành hoạt động du lịch Biểu 8: Vốn cố định du lịch của ngành du lịch và các ngành khác; Biểu 9: Tiêu dùng du lịch chung (Tourism conective consumption) chia theo chức năng và cấp quản lý nhà n−ớc; Biểu 10: Một số chỉ tiêu thống kê du lịch không biểu hiện bằng tiền (Non monetary indicators); Kết cấu, nội dung cụ thể của hệ thống 10 bảng biểu TSA của WTO đề nghị xem trong phần phụ lục trong báo tổng hợp. 2. Sự vận dụng hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch của WTO ở một số quốc gia Xuất phát từ sự cần thiết và tầm quan trọng của hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch của WTO, nhiều n−ớc trên thế giới đã tiến hành triển khai nghiên cứu và tổ chức thu thập thông tin, từng b−ớc tính toán và lập đ−ợc hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch của n−ớc mình ngay từ những năm giữa của thập kỷ 90 thế kỷ 20. Cho đến nay, nhiều nuớc đã hoàn thành việc nghiên cứu tổ chức thu thập thông tin, tính toán và lập đ−ợc các tài khoản vệ tinh du lịch quan trọng trong một số năm nh− Canada, Cộng hoà Dominica, Pháp, Niuzilân, Mehico, Chile, Ecuador, Cuba, Balan, Nauy, Singapo, Thuỵ điển, Mỹ, Australia, Philippin, Inđônêxia... 176 Tháng 10 năm 1994 Canađa đã cho chia hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch đầu tiên do sự phối lợp giữa hai cơ quan Du lịch và Thống kê Canada tiến hành; tháng 6 năm 1996 các chỉ tiêu du lịch quốc gia đã đ−ợc xuất bản lần đầu. Kết quả hệ thống TSA đã cho biết GDP của ngành du lịch Canada chiếm 2,5% GDP; tỷ lệ thuế thu từ ngành du lịch chiếm 7%; lao động du lịch chiếm 5% lao động trong các ngành sản xuất kinh doanh. Australia, TSA là do sự nỗ lực hợp tác giữa Cục Thống kê Australia và Vụ Du lịch thuộc Bộ Công nghiệp, Du lịch và Tài nguyên tiến hành. Austrailia đã tổ chức thu thập thông tin, xử lý, tính toán và biên soạn đ−ợc hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch Australia từ năm 1997 đến năm 2002. Tháng 5 năm 2003, Cục Thống kê Australia (ABS) đã xuất bản ấn phẩm ''Tài khoản quốc gia: Tài khoản vệ tính du lịch'' của Australia. Trong ấn phẩm này Cục Thống kê Australia đã đ−a ra 13 bảng số liệu bao gồm các tài khoản vệ tinh du lịch và kèm theo một số tài khoản kinh tế quốc dân tổng hợp giai đoạn 1997-2002 với mục đích để trực tiếp so sánh, phân tích về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của ngành du lịch trong toàn nền kinh tế quốc dân. Kết cấu nội dung của từng bảng biểu và các số liệu cụ thể kèm theo của hai năm gần đây nhất là 2000-2001 và 200 l-2002 (xem trong phụ lục). D−ới đây là 13 mẫu biểu tài khoản vệ tinh du lịch Australia đã đ−ợc đ−a ra: Biểu 1: Tỷ trọng ngành du lịch trong tổng sản phẩm trong n−ớc (GDP) Biểu 2: GDP ngành du lịch chia theo loại khách Biểu 3: Giá trị sản xuất của ngành du lịch chia theo loại sản phẩm (tính theo giá cơ bản) Biểu 4: Giá trị tăng thêm của ngành du lịch chia theo loại sản phẩm Biểu 5: Giá trị tăng thêm các ngành kinh tế quốc dân Biểu 6: Tiêu dùng du lịch phân theo sản phẩm và loại khách Biểu 7: Tiêu dùng du lịch nội địa chia theo sản phẩm và loại khách Biểu 8: Tiêu dùng của khách du lịch Australia đi ra n−ớc ngoài Biểu 9: Tiêu dùng của khách không th−ờng trú và n−ớc ngoài Biểu 10: Lao động trong ngành du lịch Biểu 11: Số l−ợng khách đi du lịch 177 Biểu 12: Số l−ợng khách quốc tế phân theo n−ớc th−ờng trú Biểu 13: Số l−ợng khách Australia ra n−ớc ngoài phân theo n−ớc đến. Philippines: Hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch ở Philippin (PTSA) gồm l l biểu Tuy nhiên nội dung TSA Philippin không hoàn toàn giống nội dung trong 10 biểu của WTO. Chu kỳ thống kê TSA ở Philippin là 4 năm một lần. Nội dung hệ thống biểu TSA của Philippin nh− sau: Biểu 1: Tiêu dùng du lịch ở Philippin Biểu 2: Tài khoản sản xuất của ngành du lịch và không phải du lịch Philippin Biểu 3: Cung và cầu du lịch và không phải du lịch Biểu 4: Lao động trong ngành du lịch Philippin Biểu 5: Tài khoản sản xuất của ngành du lịch và không phải du lịch philippin Biểu 6: Tổng vốn cố định ngành du lịch Philippin Biểu 7: Tiêu dùng chung cho du lịch ở Philippin Biểu 8: Các chỉ tiêu không phải tiền tệ Biểu 9: Khách quốc tế đến Philippin phân theo n−ớc đến Biểu 10: Khách quốc tế đến Philippin phân theo độ dài ngày ở lại Biểu l l : Khách quốc tế đến Philippin phân theo ph−ơng tiện giao thông và theo loại cửa khẩu Indônêxia: Cũng t−ơng tự nh− phlippin, Inđônêxia cũng trên cơ sở hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch của WTO khuyến nghị, đồng thời dựa vào yêu cầu thông tin trong n−ớc và nguồn thông tin cho phép đã thiết lập một hệ thống TSA cho riêng cho n−ớc mình gồm 7 biểu. Trong đó các biểu tiêu dùng theo từng loại khách du lịch (1, 2 và 4) đã đ−ợc gộp lại thành một biểu, biểu 3 tiêu dùng của khách trong n−ớc đi du lịch n−ớc ngoài không lập. Các biểu còn lại cũng đã cải biên rút gọn hơn phù hợp với điều kiện thực tế của Inđônêxia, không theo đúng hoàn toàn so với sơ đồ của WTO đã đ−a ra: Biểu 1 : Cơ cấu tiêu dùng du lịch phân theo sản phẩm và loại khách 178 Biểu 2: Tiêu dùng du lịch bình quân một l−ợt phân theo loại khách Biểu 3: Đóng góp của ngành du lịch trong các ngành kinh tế quốc dân Biểu 4: Vai trò của du lịch trong các ngành kinh tế Biểu 5: Vốn cố định du lịch phân theo lĩnh vực đầu t− và khu vực sở hữu Biểu 6: Tỷ trọng vốn cố định du lịch trong tổng vốn cố định nền kinh tế quốc dân chia theo lĩnh vực Biểu 7: Chi tiêu Chính phủ cho xúc tiến và phát triển du lịch. Kết cấu nội dung các biểu kèm theo số liệu cụ thể năm 200l xem trong báo cáo tổng hợp. Từ nghiên cứu nội dung, kết cấu hệ thống TSA của một số n−ớc trên thế giới và khu vực cho thấy, nói chung các n−ớc đều đã trên cơ sở nghiên cứu nội dung, kết cấu chuẩn của hệ thống TSA của WTO để xây dựng hệ thống TSA cho n−ớc mình. Tuy nhiên, có thể do yêu cầu thông tin, đặc điểm về phát triển ngành du lịch của mỗi n−ớc và đặc biệt là do điều kiện nguồn thông tin ở mỗi n−ớc có những hạn chế nhất định của mình. Do đó khi thiết lập hệ thống TSA đã có những vận dụng, cải biên nhất định cho phù hợp với tình hình thực tế của từng n−ớc. ở n−ớc ta ngành du lịch cũng mới phát triển, thống kê du lịch vẫn còn nhiều hạn chế, các nguồn thông tin về mặt cung của du lịch từ các ngành hoạt động có liên quan ch−a đáp ứng đ−ợc đầy đủ các yêu cầu hệ thống TSA của WTO. Vì vậy kinh nghiệm thực tế đã vận dụng của một số quốc gia trên thế giới và khu vực này là những kinh nghiệm rất quan trọng đối với việc nghiên cứu vận dụng hệ thống TSA của WTO vào Việt Nam cho phù hợp và khả thi. II. Khả năng vận dụng hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch của tổ chức du lịch thế giới vào Việt Nam A. Thực trạng phát triển thống kê du lịch Việt Nam 1. Thực trạng thống kê du lịch Việt Nam Thống kê du lịch Việt Nam đã đ−ợc đặt ra từ những ngày đầu ngành Du lịch mới đ−ợc hình thành. Tr−ớc đây trong thời bao cấp các ở thập kỷ 60, và 80 của thế kỷ tr−ớc, thống kê du lịch th−ờng chỉ đ−ợc thu thập thông tin qua hình thức ban hành chế độ báo cáo định kỳ cho các cơ sở kinh doanh du lịch và khách 179 sạn thuộc khu vực kinh tế Nhà n−ớc. Việc thống kê số l−ợt khách, ngày khách du lịch chủ yếu chỉ thông qua số khách du lịch có nghỉ ở các cơ sở l−u trú du lịch. Khái niệm về du lịch cũng rất hạn hẹp chỉ bao gồm những ng−ời thuần tuý đi thăm quan, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí, không theo đúng phạm vi của WTO đã trình bày ở trên. Tuy nhiên trong những năm gần đây của thời kinh tế thị tr−ờng, mở cửa khái niệm về du lịch đã dần dần tiếp cận với khái niệm của quốc tế. Về ph−ơng pháp thống kê thu thập thông tin đã có nhiều cải tiến, đã kết hợp đ−ợc ph−ơng pháp thống kê truyền thống tr−ớc đây là thu thập thông tin bằng hình thức ban hành các chế độ báo cáo định kỳ, các cuộc điều tra chuyên môn. Do vậy nguồn thông tin về du lịch đã thu thập đ−ợc ngày càng đầy đủ và phong phú hơn, đáp ứng đ−ợc yêu cầu thông tin quản lý, điều hành của các cấp, các ngành và ng−ời dùng tin ngày càng tốt hơn. Một số ph−ơng pháp cơ bản để thu thập thông tin thống kê về hoạt động du lịch và liên quan đến ngành hoạt động du lịch ở n−ớc ta hiện nay nh− sau: a. Về thống kê khách quốc tế đến Việt Nam và ng−ời Việt Nam ra n−ớc ngoài Số liệu về khách quốc tế đến Việt Nam đ−ợc thu thập từ các cơ quan quản lý xuất cảnh. Hình thức thu thập thông tin này là dựa vào chế độ báo cáo thống kê định kỳ tháng về xuất nhập cảnh Việt Nam. Với chế độ báo cáo thống kê định kỳ hiện nay số l−ợng khách quốc tế đến Việt nam và ng−ời Việt Nam đi du lịch n−ớc ngoài đã đ−ợc thống kê cập nhật th−ờng xuyên hàng tháng, quí và năm về tổng số khách cũng nh− các chỉ tiêu phân tổ, phân tích theo mục đích chuyến đi, theo quốc tịch, thị tr−ờng du lịch và theo ph−ơng tiện của chuyến đi, đây là một nguồn thông tin khá đầy đủ, chi tiết và có hệ thống để làm cơ sở lập các tài khoản vệ tinh du lịch có liên quan ở n−ớc ta hiện nay. b. Về thống kê khách du lịch nội địa Thống kê khách du lịch nội địa lâu nay ch−a đ−ợc quan tâm đúng mức. Cho đến nay vẫn ch−a có một ch−ơng trình nghiên cứu và ch−a có một ph−ơng pháp cụ thể nào để thống kê số l−ợng khách đi du lịch trong n−ớc một cách đầy đủ, có hệ thống và chính xác, mặc dù số l−ợng khách du lịch nội địa ngày càng lớn. Việc thống kê số l−ợng ng−ời đi du lịch trong n−ớc hiện nay chủ yếu mới thống kê đ−ợc số ng−ời đi du lịch có nghỉ tại các cơ sở l−u trú du lịch có đăng ký kinh doanh. Còn số khách đi du lịch trong ngày và số khách du lịch nghỉ tại các 180 nhà nghỉ nhà khách ch−a đăng ký kinh doanh, các nhà nghỉ nhà khách của các cơ quan, xí nghiệp, nhà nghỉ cuối tuần, nhà nghỉ thứ hai, nhà nghỉ của dân... ch−a thống kê đ−ợc một cách đầy đủ và chính xác. Đây là những khó khăn khi lập các tài khoản vệ tinh du lịch ở n−ớc ta. c. Về thống kê các cơ sở kinh doanh du lịch Ph−ơng pháp thống kê về hoạt động du lịch và cơ sở l−u trú du lịch ở n−ớc ta th−ờng đ−ợc áp dụng theo hai hình thức thống kê cơ bản sau: - Ph−ơng pháp ban hành chế độ báo cáo thống kê định kỳ Đây là ph−ơng pháp truyền thống, hiện nay vẫn đang đ−ợc áp dụng đối với các cơ sở kinh tế là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh du lịch và cơ sở l−u trú du lịch. Trên cơ sở các chế độ báo cáo thống kê định kỳ này hàng tháng, hàng quí, năm năm chúng ta đã thu thập đ−ợc khá đầy đủ thông tin về số cơ sở, số lao động, số buồng gi−ờng, số luợt khách, ngày nghỉ tại các cơ sở l−u trú du lịch. Đây là một nguồn thông tin quan trọng để tổng hợp các chỉ tiêu thống kê về hoạt động du lịch và tính toán xây dựng đ−ợc các tài khoản vệ tinh du lịch có liên quan - Theo ph−ơng pháp điều tra chuyên môn Nhằm đáp ứng đ−ợc yêu cầu thông tin ngày càng lớn về quản lý du lịch, phục vụ tốt hơn các yêu cầu nghiên cứu, lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành kinh tế xã hội, trong những năm qua chúng ta đã tiến hành đ−ợc một số cuộc điều tra chuyên đề hoặc điều tra kết hợp, lồng ghép về hoạt động du lịch vào các cuộc điều tra khác nh− các cuộc điều tra số cơ sở số lao động, vốn, tài sản doanh thu, chi phí lỗ lãi đối với các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh cá thể về hoạt đông kinh doanh du lịch, kinh doanh l−u trú du lịch định kỳ 1/3, 1/7 và 1/10 hàng năm. Điều tra mẫu nhỏ doanh thu hoạt động du lịch, loạt động khách sạn nhà hàng hàng tháng, quí, tiến hành một số cuộc điều tra chuyên đề về chi tiêu của khách quốc tế và khách du lịch nội địa. Đặc biệt hơn, trong tháng l l năm 2003 vừa qua Tổng cục Thống kê đã tiến cuộc điều tra khách du lịch qua các cửa khẩu biên giới và điều tra chi tiêu của khách du lịch tại các cở sở l−u trú du lịch. Cỡ mẫu điều tra chi tiêu khách du lịch lần này khá lớn với 23.000 phiếu điều tra chi tiêu khách du lịch trong n−ớc và 181 7.000 phiếu điều tra chi tiêu của khách du lịch quốc tế. Nội dung của cuộc điều tra chi tiêu khách du lịch trong n−ớc và quốc tế lần này khá phong phú và chi tiết. Trong phiếu điều tra áp dụng đối với khách quốc tế đến Việt Nam bao gồm các chỉ tiêu phản ánh về tổng số tiền chi tiêu và cơ cấu chi tiêu theo các sản phẩm và theo từng loại khách, theo ph−ơng tiện, mục đích, độ tuổi, nghề nghiệp và quốc tịch của khách. Đây là một nguồn thông tin rất quan trọng ch−a bao giờ có ở n−ớc ta. Dựa vào nguồn thông tin này và các thông tin về số l−ợng khách quốc tế đến Việt Nam hàng tháng, hàng quí, hàng năm thu thập thông qua chế độ báo cáo định kỳ áp dụng cho các cơ sở quản lý xuất nhập cảnh nói trên ta sẽ tính toán đ−ợc các chỉ tiêu trong các tài khoản vệ tinh du lịch có liên quan trong hệ thống TSA. Đối với điều tra chi tiêu khách trong n−ớc cũng thu thập đ−ợc những thông tin t−ơng tự nh− đối với khách quốc tế. Kết quả điều tra này cho phép tổng hợp và tính toán các tài khoản trong TSA đối với khách du lịch trong n−ớc. Về thống kê theo mặt cung du lịch, mặc dù đến nay ch−a tổ chức thu thập thông tin riêng d−ới hình thức một cuộc điều tra chuyên môn. Nh−ng trên thực tế chúng ta đã có các chế độ báo cáo và các cuộc điều tra theo từng chuyên ngành, từng lĩnh vực nh− các thống kê định kỳ và không định kỳ về vận tải hành khách theo từng loại ph−ơng tiện (hàng không, hàng hải, đ−ờng bộ, đ−ờng sắt) và theo từng cự ly vận chuyển. T−ơng tự các chế độ báo cáo và điều tra trong lĩnh vực thống kê th−ơng nghiệp, khách sạn, nhà hàng, dịch vụ,... đã và đang tiến hành đều là những nguồn thông tin có thể khai thác, xử lý, tổng hợp và tính toán đ−ợc các chỉ tiêu theo mặt cung của du lịch, phục vụ cho việc lập các tài khoản vệ tinh du lịch. Tuy nhiên, tất cả các nguồn thông tin về hoạt động du lịch và liên quan đến hoạt động du lịch ở n−ớc ta hiện nay vẫn còn rất què quặt, khập khiễng và còn thiếu rất nhiều mảng thông tin có liên quan, nên việc tính toán và lập các tài khoản vệ tinh du lịch ở n−ớc ta hiện nay rất khó khăn, ch−a có cơ sở để có thể lập đ−ợc một cách đầy đủ các bảng biểu theo hệ thống TSA theo khuyến nghị của Tổ chức du lịch thế giới. 182 B. Khả năng tiếp cận và vận dụng hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch của Tổ chức du lịch thế giới ở Việt Nam 1. Về khả năng tiếp cận hệ thống TSA của WTO Thực hiện đ−ờng lối đổi mới mở cửa chúng ta đã có các cơ hội để tiếp cận và thực tế chúng ta đã từng b−ớc tiếp cận đ−ợc các lý luận cơ bản cũng nh− các ph−ơng pháp nghiệp vụ chuyên môn về quản lý nền kinh tế thị tr−ờng của thế giới hiện đại. Trong lĩnh vực thống kê, hơn 10 năm nghiên cứu và triển khai thực hiện theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA). Đây là một tiền đề quan trọng thống nhất để chúng ta có thể tiếp cận đ−ợc hệ thống TSA của WTO. Về thống kê du lịch đến nay một số khái niệm cơ bản về du lịch của WTO đã đ−ợc nghiên cứu và vận dụng trong các chế độ điều tra và báo thống kê du lịch cũng nh− các tài liệu h−ớng dẫn nghiệp vụ về thống kê du lịch. Đó là các khái niệm du lịch, khái niệm khách du lịch, khách du lịch trong n−ớc, khách du lịch quốc tế, khái niệm cơ sở l−u trú du lịch, chi tiêu du lịch, đã nêu ở trên. Về hệ thống chỉ tiêu và ph−ơng pháp thống kê cũng đã và đang từng b−ớc đ−ợc nghiên cứu vận dụng vào công tác thống kê du lịch tr
Luận văn liên quan