Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới trong thời gian vừa qua đã và đang tiếp tục
gây ra những tổn thất nặng nề cho hệ thống tài chính toàn cầu. Hàng loạt định chế
tài chính, trong đó chủ chốt là các ngân hàng đã phải tuyên bố phá sản, hoặc chấp
nhận sát nhập, mua lại Chịu thiệt hại lớn nhất, không phải ai khác mà chính là các
ngân hàng Mỹ, ngƣời khơi nguồn cho cuộc khủng hoảng hiện tại. Theo IMF, tính
đến tháng 1/2009, cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đã khiến khối ngân hàng toàn
cầu tổn thất 230 tỷ USD, trong đó, các ngân hàng Mỹ hứng chịu một nửa. Nguyên
nhân nào đã dẫn tới sự sụp đổ của các ngân hàng Mỹ, vốn đƣợc coi là chuẩn mực
cho khối ngân hàng toàn cầu? Đi tìm nguyên nhân nhằm đƣa ra những giải pháp
phù hợp để vực dậy hệ thống ấy, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm cho các nƣớc
khác.
Là một nƣớc nhỏ với hệ thống tài chính nói chung, hệ thống ngân hàng nói
riêng phát triển chƣa hoàn thiện, thật khó để nói các ngân hàng Việt Nam có điểm
gì tƣơng đồng với các ngân hàng Mỹ. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa đang
diễn ra ngày một sâu rộng, các ngân hàng Việt Nam đứng trƣớc yêu cầu bức thiết
phải hoàn thiện mình theo các chuẩn mực quốc tế. Đồng thời, càng bƣớc ra sân chơi
lớn thì càng nhiều rủi ro. Với đặc thù là tổ chức kinh doanh „tiền‟, có độ rủi ro cao
và mức độ ảnh hƣởng lớn, vấn đề quản trị ngân hàng để phòng ngừa, hạn chế rủi ro
có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nhƣng với những yếu kém hiện còn tồn tại trong
công tác quản trị rủi ro, các ngân hàng Việt Nam cũng gặp phải nhiều nguy cơ đổ
vỡ. Hiểu đƣợc nguyên nhân sụp đổ của các ngân hàng Mỹ sẽ giúp rút ra bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng mô hình quản trị rủi ro ngân hàng
vừa đảm bảo vận hành thông suốt nền kinh tế, vừa đáp ứng các chuẩn mực của hệ
thống ngân hàng toàn cầu.
Vì những lý do nhƣ trên, em chọn nghiên cứu đề tài: Nguyên nhân khủng
hoảng của các ngân hàng Mỹ trong thời gian qua và bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam.
104 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1687 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nguyên nhân khủng hoảng của các ngân hàng mỹ trong thời gian qua và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
-------------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG CỦA CÁC NGÂN
HÀNG MỸ TRONG THỜI GIAN QUA VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện : Phạm Thu Liên
Lớp : Nhật 2
Khóa : 44E
Giáo viên hướng dẫn : cô Lê Thị Thanh
Hà Nội - 05/2009
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ ĐỒ THỊ
STT TÊN TRANG
BẢNG 1
DANH SÁCH CÁC NGÂN HÀNG LỚN CỦA
MỸ BỊ PHÁ SẢN HOẶC PHẢI SÁT NHẬP,
GIẢI THỂ TRONG CUỘC KHỦNG HOẢNG
TÀI CHÍNH MỸ VỪA QUA
36
BẢNG 2
Tình hình cho vay BĐS của các NHTM trên địa
bàn Hà Nội và TP.HCM
52
ĐỒ THỊ 1 DIỄN BIẾN THAY ĐỔI LÃI SUẤT Ở MỸ 42
ĐỒ THỊ 2
DIỄN BIẾN THAY ĐỔI GIÁ NHÀ Ở MỸ
TRONG THỜI KỲ BONG BÓNG THỊ
TRƯỜNG NHÀ Ở
42
SƠ ĐỒ
Mô hình quản trị rủi ro tín dụng truyền thống của
các NHTM VN
63
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT TỪ VIẾT TẮT TỪ VIẾT ĐỦ
1 NHNNVN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
2 NHTW Ngân hàng trung ương
3 FED Cục dự trữ liên bang Mỹ
4 NHTM Ngân hàng thương mại
5 NHĐT Ngân hàng đầu tư
6 NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
7 NHTMNN Ngân hàng thương mại nhà nước
8 TT – GS Thanh tra – giám sát
9 BĐS Bất động sản
10 BHTG Bảo hiểm tiền gửi
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới trong thời gian vừa qua đã và đang tiếp tục
gây ra những tổn thất nặng nề cho hệ thống tài chính toàn cầu. Hàng loạt định chế
tài chính, trong đó chủ chốt là các ngân hàng đã phải tuyên bố phá sản, hoặc chấp
nhận sát nhập, mua lại…Chịu thiệt hại lớn nhất, không phải ai khác mà chính là các
ngân hàng Mỹ, ngƣời khơi nguồn cho cuộc khủng hoảng hiện tại. Theo IMF, tính
đến tháng 1/2009, cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đã khiến khối ngân hàng toàn
cầu tổn thất 230 tỷ USD, trong đó, các ngân hàng Mỹ hứng chịu một nửa. Nguyên
nhân nào đã dẫn tới sự sụp đổ của các ngân hàng Mỹ, vốn đƣợc coi là chuẩn mực
cho khối ngân hàng toàn cầu? Đi tìm nguyên nhân nhằm đƣa ra những giải pháp
phù hợp để vực dậy hệ thống ấy, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm cho các nƣớc
khác.
Là một nƣớc nhỏ với hệ thống tài chính nói chung, hệ thống ngân hàng nói
riêng phát triển chƣa hoàn thiện, thật khó để nói các ngân hàng Việt Nam có điểm
gì tƣơng đồng với các ngân hàng Mỹ. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa đang
diễn ra ngày một sâu rộng, các ngân hàng Việt Nam đứng trƣớc yêu cầu bức thiết
phải hoàn thiện mình theo các chuẩn mực quốc tế. Đồng thời, càng bƣớc ra sân chơi
lớn thì càng nhiều rủi ro. Với đặc thù là tổ chức kinh doanh „tiền‟, có độ rủi ro cao
và mức độ ảnh hƣởng lớn, vấn đề quản trị ngân hàng để phòng ngừa, hạn chế rủi ro
có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nhƣng với những yếu kém hiện còn tồn tại trong
công tác quản trị rủi ro, các ngân hàng Việt Nam cũng gặp phải nhiều nguy cơ đổ
vỡ. Hiểu đƣợc nguyên nhân sụp đổ của các ngân hàng Mỹ sẽ giúp rút ra bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng mô hình quản trị rủi ro ngân hàng
vừa đảm bảo vận hành thông suốt nền kinh tế, vừa đáp ứng các chuẩn mực của hệ
thống ngân hàng toàn cầu.
Vì những lý do nhƣ trên, em chọn nghiên cứu đề tài: Nguyên nhân khủng
hoảng của các ngân hàng Mỹ trong thời gian qua và bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam.
2
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là thông qua việc tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến đổ vỡ
hệ thống ngân hàng Mỹ trong cuộc khủng hoảng tài chính thế giới vừa qua, và dựa trên
thực trạng những rủi ro mà các ngân hàng Việt Nam đang phải đối mặt, để từ đó rút ra
bài học kinh nghiệm, giúp xây dựng một hệ thống ngân hàng lành mạnh, phát triển bền
vững, và đóng góp ngày một tích cực vào sự phát triển kinh tế của đất nƣớc.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu : nguyên nhân đổ vỡ của các ngân hàng Mỹ trong cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới vừa qua. Trong đó đề cập nguyên nhân khách quan
là các chính sách sai lầm của chính phủ Mỹ và nguyên nhân chủ quan là những yếu
kém trong công tác quản trị rủi ro của bản thân các ngân hàng, nhấn mạnh đến quản
trị rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản.
- Phạm vi nghiên cứu : hệ thống ngân hàng Mỹ trong cuộc khủng hoảng tài
chính thế giới vừa qua, tính từ tháng 8/2007 đến nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Sử dụng phƣơng pháp phân tích - tổng hợp, đối chiếu - so sánh, mô tả và khái
quát hóa đối tƣợng nghiên cứu dựa trên những tài liệu thu thập đƣợc và kiến thức
của bản thân ngƣời viết. Các phƣơng pháp này đƣợc kết hợp chặt chẽ với nhau để
đƣa ra các kết luận của đề tài.
5. Kết cấu của khóa luận : Khóa luận gồm 3 chƣơng:
Chƣơng I: Một số vấn đề cơ bản về khủng hoảng ngân hàng
Chƣơng II: Nguyên nhân khủng hoảng của các ngân hàng Mỹ và một số bài học
Chƣơng III: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo Lê Thị Thanh, giảng viên
Khoa Tài chính – Ngân hàng, trƣờng Đại học Ngoại thƣơng, vì những giúp đỡ và
chỉnh sửa của cô trong suốt quá trình thực hiện khóa luận này.
3
CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KHỦNG HOẢNG
NGÂN HÀNG
I. KHỦNG HOẢNG NGÂN HÀNG
1. Khái niệm
Cuộc khủng hoảng hiện nay ở Mỹ đƣợc giới chuyên môn nhắc đến với thuật
ngữ Khủng hoảng tài chính Mỹ, trong đó sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng chỉ là
một biểu hiện của cuộc khủng hoảng này. Bởi thế, trƣớc khi đến với khái niệm
khủng hoảng ngân hàng, cần thiết phải hiểu thế nào là khủng hoảng tài chính.
Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) không đƣa ra cụ thể khái niệm khủng hoảng tài
chính, mà nó đƣợc hiểu thông qua các khái niệm từng loại khủng hoảng tài
chính. Theo nghiên cứu này thì khủng hoảng tài chính rất đa dạng. Một cuộc
Khủng hoảng tiền tệ có thể nổ ra khi hoạt động đầu cơ tiền tệ theo tỷ giá dẫn
đến sự giảm giá (hoặc giảm giá đột ngột) đồng tiền đó, hoặc trƣờng hợp buộc các
cơ quan có trách nhiệm phải bảo vệ đồng tiền của mình bằng cách chi ra một
khối lƣợng lớn dự trữ ngoại tệ để nâng cao lãi suất. Khủng hoảng ngân hàng là
tình trạng ngân hàng thực tế hoặc có khả năng đổ vỡ hay các vụ phá sản buộc các
ngân hàng phải hoãn các khoản thanh toán thuộc trách nhiệm của mình hoặc tình
trạng buộc chính phủ phải can thiệp bằng cách trợ giúp những khoản tài chính
lớn. Cuộc khủng hoảng ngân hàng tác động trên diện rộng, tới nhiều bộ phận của
hệ thống kinh tế. Khủng hoảng hệ thống tài chính là những rối loạn có thể tới
mức nghiêm trọng của thị trƣờng tài chính. Những rối loạn này, do làm suy yếu
những chức năng của thị trƣờng tài chính, có thể tác động sâu rộng tới toàn bộ
nền kinh tế. Khủng hoảng hệ thống tài chính thƣờng đi liền với khủng hoảng tiền
tệ, nhƣng một cuộc khủng hoảng tiền tệ thì không nhất thiết gắn với những rối
loạn nghiêm trọng trong hệ thống thanh toán quốc gia, và do đó có thể không đạt
tới mức độ trở thành khủng hoảng hệ thống tài chính.
Từ cách định nghĩa trên của IMF, có thể thấy khủng hoảng ngân hàng là một
bộ phận cấu thành khủng hoảng tài chính.
Chƣơng I: Một số vấn đề cơ bản về khủng hoảng ngân hàng
4
2. Nguyên nhân
Kinh doanh ngân hàng là một hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro hơn các hoạt
động kinh tế khác. Bản chất của nghiệp vụ ngân hàng là trung gian tín dụng, tức là
đi vay để cho vay. Nhƣng hoạt động này đòi hỏi sự đánh đổi giữa lãi thu đƣợc khi
cho vay để trả lãi suất cho những ngƣời gửi tiền và chi phí cho nghiệp vụ ngân
hàng, với khả năng chi trả tức thời khi khách hàng rút tiền nhằm tránh đổ vỡ lòng
tin, gây ra đột biến rút tiền gửi và nguy cơ phá sản ngân hàng. Đó là bài toán mà bất
cứ vị giám đốc ngân hàng nào cũng phải quan tâm giải quyết hàng ngày.
Trên thực tế, không một ngân hàng nào tránh đƣợc rủi ro trong quá trình kinh
doanh do những nguyên nhân khách quan và chủ quan đem lại. Những rủi ro khách
quan nhƣ động đất, bão lụt, chiến tranh, những đợt khủng hoảng kinh tế, tiền tệ, tín
dụng,…lớn trên thế giới, gây nên rủi ro hệ thống thì không thể nào tránh đƣợc. Còn
những rủi ro do chủ quan ngân hàng gây ra nhƣ yếu kém trong hoạt động quản trị
ngân hàng, gây mất niềm tin, dễ xảy ra tình trạng rút tiền ồ ạt của dân cƣ, có thể đƣa
đến sự sụp đổ của cả hệ thống ngân hàng.
2.1. Nguyên nhân khách quan
2.1.1. Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
a. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh trong trƣờng hợp ngân hàng không thu đƣợc
đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc khách hàng thanh toán nợ gốc và lãi
không đúng kỳ hạn. Còn trong trƣờng hợp ngƣời vay tiền phá sản, việc thu hồi gốc
và lãi tín dụng đầy đủ là không chắc chắn, do đó ngân hàng có thể gặp rủi ro tín
dụng.
Rủi ro tín dụng đƣợc bắt nguồn từ việc ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng,
đồng thời nắm giữ các giấy nhận nợ do con nợ phát hành với sự cam kết là sẽ thanh
toán cả gốc lẫn lãi đầy đủ và đúng hạn cho ngân hàng. Trái phiếu coupon có thu
nhập cố định và giấy nhận nợ tín dụng đối với ngân hàng là hai ví dụ điển hình về
giấy nhận nợ do công ty phát hành. Trong cả hai trƣờng hợp, ngân hàng đều đầu tƣ
vào các giấy nhận nợ nhằm nhận đƣợc trái tức từ trái phiếu hay lãi suất từ khoản tín
dụng nếu ngƣời vay tiền không bị phá sản. Trƣờng hợp ngƣời vay tiền phá sản,
Chƣơng I: Một số vấn đề cơ bản về khủng hoảng ngân hàng
5
ngân hàng thƣờng không thu đƣợc lợi tức cũng nhƣ lãi suất và có thể bị mất toàn bộ
hoặc một phần vốn gốc, điều này còn phụ thuộc vào khả năng ngân hàng có thể tiếp
cận với tài sản của con nợ trong khi giải quyết phá sản hoặc giải thể.
b. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là rủi ro phát sinh khi những ngƣời gửi tiền đồng thời có nhu
cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Trong trƣờng hợp đó, ngân hàng phải đi
vay bổ sung nguồn vốn thanh khoản hoặc phải bán tài sản có của mình để đáp ứng
nhu cầu rút tiền của khách hàng. Trong cơ cấu tài sản có thì tiền mặt có độ thanh
khoản cao nhất, do đó trƣớc hết ngân hàng sử dụng tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút
tiền của khách hàng. Bởi vì tiền mặt tại quỹ không mang lại thu nhập lãi suất, cho
nên trong những trƣờng hợp bình thƣờng, ngân hàng chỉ duy trì một lƣợng tiền mặt
ở mức tối ƣu đủ để đáp ứng các nhu cầu rút tiền thƣờng xuyên của ngƣời gửi tiền
mà không gây ảnh hƣởng đến độ thanh khoản của ngân hàng.
Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp đặc biệt, ngân hàng có thể phải đối mặt với
rủi ro thanh khoản, ví dụ khi dân chúng mất lòng tin vào ngân hàng, hoặc nhu cầu
rút tiền có tính chất thời vụ mà ngân hàng không dự tính trƣớc đƣợc, đòi hỏi ngân
hàng phải chi trả tức thời một khoản tiền lớn hơn mức bình thƣờng. Trong bối cảnh
đó, hầu hết các ngân hàng đều đang phải đối phó với tình huống tƣơng tự, nên chi
phí để huy động vốn bổ sung tăng lên một cách đáng kể do lƣợng vốn cung ứng trên
thị trƣờng giảm. Hậu quả là, ngân hàng phải bán một số tài sản có độ thanh khoản
thấp để đáp ứng nhu cầu rút tiền của ngƣời gửi. Trong trƣờng hợp rủi ro thanh
khoản ngày càng nghiêm trọng, nếu tất cả những ngƣời gửi tiền đồng loạt yêu cầu
ngân hàng chi trả toàn bộ tiền gửi của họ thì ngân hàng vốn chỉ đang từ chỗ phải đối
phó với rủi ro thanh khoản sẽ phải đối mặt với rủi ro phá sản.
c. Các loại rủi ro khác
Ngoài hai loại rủi ro trên, hoạt động kinh doanh ngân hàng còn phải đối mặt với
các loại rủi ro khác nhƣ:
- Rủi ro lãi suất
- Rủi ro ngoại hối
- Rủi ro hoạt động ngoại bảng
- Rủi ro công nghệ và hoạt động
Chƣơng I: Một số vấn đề cơ bản về khủng hoảng ngân hàng
6
- Rủi ro quốc gia…
Tuy nhiên, theo tìm hiểu của ngƣời viết, chủ yếu chỉ có rủi ro tín dụng và rủi ro
thanh khoản là có liên quan trực tiếp đến đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận, nên
ngƣời viết xin phép không trình bày kỹ hơn về các loại rủi ro còn lại đối với hoạt
động kinh doanh ngân hàng.
2.1.2. Chính sách của chính phủ
Chính phủ mà đại diện là ngân hàng trung ƣơng (NHTW) nắm trong tay công cụ
quan trọng để điều tiết hoạt động của hệ thống tài chính nói chung và các ngân hàng
nói riêng, đó là chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ giải quyết khả năng thanh toán
cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp ứng khối lƣợng tiền cung ứng
cho lƣu thông; điều khiển hệ thống tiền tệ và tín dụng đáp ứng vốn cho hoạt động
kinh tế; tạo điều kiện thúc đẩy thị trƣờng tiền tệ, thị trƣờng vốn theo những mục tiêu
đề ra; kiểm soát hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại (NHTM) và các tổ chức
tín dụng khác; cùng với việc xác định tỷ giá hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh
tế đối ngoại; hƣớng tới mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của
đồng tiền, ổn định giá cả. Thông qua các quy định về cơ chế lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, lãi suất chiết khấu, hoạt động trên thị trƣờng mở…mà chính phủ tác động đến
lƣợng tiền các ngân hàng cung ứng cho nền kinh tế và hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng. Chính vì vai trò quan trọng làm nguồn cung vốn cho các hoạt động kinh
tế của ngân hàng nên nếu chính sách tiền tệ không hợp lý sẽ không những gây ra
khó khăn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng mà còn ảnh hƣởng đến tốc độ phát
triển của các ngành kinh tế khác.
2.2. Nguyên nhân chủ quan: Hoạt động quản trị rủi ro của các ngân hàng
Vì kinh doanh ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhƣ vậy, nên đòi hỏi các nhà quản
lý ngân hàng phải luôn chú trọng các biện pháp phòng ngừa rủi ro, không chỉ để bản
thân ngân hàng tồn tại và phát triển, mà còn bởi trách nhiệm xã hội to lớn của ngân
hàng. Việc nhận thức đƣợc mức độ nghiêm trọng của rủi ro trong hoạt động ngân
hàng để có biện pháp phòng ngừa thích hợp là cách quan trọng nhất và chủ yếu nhất
để hạn chế rủi ro. Tuy nhiên, vì chạy theo lợi nhuận, có không ít nhà quản trị ngân
hàng đã phớt lờ những nguyên tắc thận trọng để cấp tín dụng cho các hoạt động có
Chƣơng I: Một số vấn đề cơ bản về khủng hoảng ngân hàng
7
rủi ro cao, hay quản lý cơ cấu vốn không hợp lý…gây ra nguy cơ phá sản cho ngân
hàng.
3. Tác động của khủng hoảng ngân hàng đến nền kinh tế
Khi ngân hàng phá sản sẽ ảnh hƣởng trực tiếp không những đến ngƣời gửi tiền
mà cả những ngƣời vay tiền. Ngƣời gửi tiền với các khoản tiết kiệm có giá trị không
lớn sẽ mất hết số tiền của mình, trừ khi số tiền đó đã đƣợc bảo hiểm bởi cơ quan
bảo hiểm tiền gửi (BHTG). Hơn nữa, việc ngân hàng phá sản đồng nghĩa với việc
mất đi nguồn cung vốn quan trọng cho các hoạt động kinh tế. Doanh nghiệp phải
tìm những cách khác để có vốn kinh doanh với chi phí cao hơn, hạn chế các doanh
nghiệp đầu tƣ mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm và tăng lƣợng sản phẩm cung
ứng cho xã hội. Hậu quả là tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng lên do doanh nghiệp cắt giảm
chi phí, thu hẹp sản xuất; còn những ngƣời vẫn có việc làm thì sẽ giảm bớt thu nhập
do bị cắt giảm thƣởng, phụ cấp…làm cho tổng thu nhập xã hội giảm, kéo theo sẽ là
giảm tổng cầu. Ngoài ra, sự phá sản của ngân hàng luôn có hiệu ứng lây lan và
mang tính dây chuyền. Việc một ngân hàng đổ vỡ có thể khiến ngƣời gửi tiền nghi
ngờ về sự ổn định và khả năng thanh toán của toàn hệ thống ngân hàng nói chung
và có thể tạo ra sự náo loạn trong xã hội, gây mất ổn định trật tự, an ninh xã hội.
II. CÁC QUI CHẾ NHẰM ĐẢM BẢO AN TOÀN TRONG KINH DOANH
NGÂN HÀNG
Do hậu quả từ việc phá sản ngân hàng đến nền kinh tế là rất nặng nề, cho nên
hoạt động kinh doanh ngân hàng phải đƣợc điều chỉnh bằng luật định. Nhìn chung,
có sáu loại qui chế nhằm đảm bảo an toàn trong kinh doanh ngân hàng và nâng cao
hiệu quả kinh tế - xã hội từ các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
1. Qui chế về an toàn trong hoạt động kinh doanh
Để bảo vệ ngƣời gửi tiền và ngƣời vay tiền trong trƣờng hợp ngân hàng phá sản,
những nhà định chế áp dụng các qui định nhằm đảm bảo an toàn trong kinh doanh
ngân hàng bằng một cơ chế bao gồm nhiều vòng. Ví dụ ở Úc, vòng một của cơ chế
bảo vệ là qui định việc đa dạng hóa danh mục đầu tƣ của ngân hàng. Theo đó, các
ngân hàng Úc không đƣợc cho vay quá 30% vốn tự có của mình đối với bất cứ một
khách hàng nào và những trƣờng hợp cho vay một khách hàng từ 10% vốn tự có trở
lên đều phải báo cáo cho Ngân hàng dự trữ của Úc (RBA - Reserve Bank of
Chƣơng I: Một số vấn đề cơ bản về khủng hoảng ngân hàng
8
Autralia). Vòng hai là điều khoản về “van an toàn” đƣợc qui định dƣới dạng tái
chiết khấu. RBA sẽ trực tiếp và ngay lập tức tái cấp vốn cho ngân hàng nhằm đảm
bảo khả năng thanh toán thông qua việc mua lại các giấy tờ có giá mà ngân hàng
nắm giữ. Vòng ba là các qui định buộc ngân hàng tự theo dõi, giám sát hoạt động
của mình, bao gồm việc các ngân hàng lập các báo cáo tài chính và hệ thống quản
trị rủi ro, đồng thời báo cáo cho RBA thông qua hệ thống giám sát từ xa. Từ các báo
cáo này, RBA sẽ đánh giá hoạt động của từng ngân hàng.
Tuy nhiên, những qui chế liên quan đến an toàn của hệ thống ngân hàng khiến
cho các ngân hàng phải chịu chi phí nhất định. Xét từ góc độ cục bộ của từng ngân
hàng, chi phí càng lớn thì hiệu quả kinh doanh càng giảm.
2. Qui chế về chính sách tiền tệ
Qui chế về việc thực thi chính sách tiền tệ liên quan đến chức năng đặc biệt của
ngân hàng đó là trung gian chuyển tải chính sách tiền tệ của NHTW vào toàn bộ nền
kinh tế. Ở đây, NHTW chỉ trực tiếp kiểm soát đƣợc khối lƣợng tiền dƣới dạng tiền
giấy và tiền xu trong nền kinh tế - gọi là tiền mặt bên ngoài - trong khi số lớn tiền tệ
đƣợc cung ứng lại dƣới dạng tiền gửi ngân hàng - gọi là tiền bên trong. Về mặt lý
thuyết, NHTW có thể thay đổi số lƣợng tiền mặt bên ngoài và trực tiếp ảnh hƣởng
trạng thái dự trữ cũng nhƣ khối lƣợng tín dụng và khối lƣợng tiền gửi do ngân hàng
tạo ra mà không cần bất cứ một qui định nào về cơ cấu tài sản của ngân hàng (thông
qua hoạt động thị trƣờng mở). Nhƣng trong thực tế, các nhà định chế áp dụng biện
pháp quản lý hành chính bằng cách qui định trực tiếp mức dự trữ bắt buộc tối thiểu
đối với từng ngân hàng. Xét từ lợi ích cục bộ của từng ngân hàng, thì dự trữ bắt
buộc đƣợc coi nhƣ là một khoản thuế (thuế quy chế) và là loại chi phí đặc biệt đánh
vào tính đặc thù trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
3. Qui chề về phân phối tín dụng
Qui chế về phân phối tín dụng qui định việc các ngân hàng cấp tín dụng cho
những bộ phận nhất định của xã hội đƣợc xác định là đặc biệt, ví dụ nhƣ tín dụng
nhà ở, tín dụng ngƣời nghèo, tín dụng miền núi, tín dụng nông thôn,…Qui chế này
yêu cầu các ngân hàng phải duy trì một khối lƣợng hay một tỷ lệ tín dụng nhất định
đối với một lĩnh vực nhất định đƣợc xác định là đặc biệt; hoặc phân phối tín dụng
Chƣơng I: Một số vấn đề cơ bản về khủng hoảng ngân hàng
9
thông qua chính sách ƣu đãi về lãi suất. Việc qui định nhƣ vậy đã tạo nền tảng cho
sự công bằng xã hội, đặc biệt là tín dụng tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo,
tín dụng nhà ở…
4. Qui chế về bảo vệ khách hàng
Luật của hầu hết các quốc gia đều qui định ngân hàng không đƣợc công bố trong
hồ sơ tín dụng về các vấn đề cá nhân thuộc đời tƣ của khách hàng khi chƣa đƣợc
khách hàng đồng ý; và khách hàng có quyền yêu cầu ngân hàng cung cấp những
thông tin chi tiết về qui chế tín dụng, cũng nhƣ lý do từ chối cấp tín dụng của mình.
5. Qui chế về bảo vệ ngƣời đầu tƣ
Hầu hết các bộ luật đều có qui định về việc bảo vệ lợi ích của ngƣời đầu tƣ trong
những trƣờng hợp nhƣ giao dịch tay trong, bƣng bít thông tin, không minh bạch rõ
ràng, các hành động phân biệt đối xử trong đầu tƣ.
6. Qui chế về thành lập ngân hàng và cấp giấy phép kinh doanh
Việc thành lập các ngân hàng mới và cấp giấy phép kinh doanh phải đƣợc tuân
thủ theo quy chế. Việc tăng hay giảm các khoản phí để thành lập một ngân hàng
mới và cấp giấy phép kinh doanh có ảnh hƣởng đến khả năng sinh lời của các ngân
hàng mới thành lập cũng nhƣ các ngân hàng đang hoạt động. Xu hƣớng chung trong
tất cả các ngành, trong đó có ngành ngân hàng là muốn bảo vệ các công ty của mình
bằng cách đánh cao chi phí trực tiếp đối với việc thành lập ngân hàng mới (ví dụ
nhƣ qui định vốn pháp định tối thiểu thật cao) và đánh chi phí gián tiếp cao (ví dụ
hạn chế các pháp nhân và