Khóa luận Nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em

Hiện nay, vấn đề quyền trẻ em đang là mối quan tâm lớn không chỉ của từng quốc gia mà là của toàn xã hội. Tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc phụ thuộc nhiều vào việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Tuy nhiên, ở nhiều nơi trên thế giới, tình trạng trẻ em phải tự lao động kiếm sống, bị lừa gạt, bạo lực, bóc lột sức lao động và sa vào các tệ nạn xã hội đang có chiều hướng gia tăng. Bởi vậy, hơn lúc nào hết, vấn đề quyền trẻ em được đặt ra như một nhu cầu bức bách cần được giải quyết, nhằm giành lại cho các em quyền được sống, quyền được học hành, vui chơi, được chăm sóc và bảo vệ Những khẩu hiệu “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”, “Hãy dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em mà mình có” đã và đang là khẩu hiệu hành động của các quốc gia. Ở Việt Nam, ngay từ khi phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em (1990), UNICEF đã phối hợp chặt chẽ với chính phủ Việt Nam xây dựng Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em và nỗ lực triển khai thực hiện. UNICEF đã kiên trì thực hiện các hoạt động truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của những người có vai trò và ảnh hưởng đối với trẻ em. Bởi vậy, trẻ em Việt Nam đã, đang và sẽ được hưởng những cơ hội tốt đẹp so với trước đây. Mức sống của nhiều gia đình được cải thiện, các bậc cha mẹ có sự lựa chọn dễ dàng hơn trong việc tổ chức cuộc sống và điều này có ảnh hưởng tích cực tới lợi ích của trẻ em. Nhưng để có được sự lựa chọn đi tới quyết định đúng đắn trong việc chăm sóc trẻ em, các gia đình cần được tiếp cận thông tin nhiều hơn nữa. Truyền thông đã và đang tiếp tục mở rộng tầm ảnh hưởng tới quần chúng. Các thông tin xã hội có định hướng, trong đó các vấn đề trẻ em được truyền tải nhiều hơn tới dân chúng cả về chất lượng và số lượng. “Nhận thức toàn dân” về quyền cũng như các vấn đề của trẻ em không ngừng được cải thiện. Mặc dù vậy, vẫn còn một khoảng cách khá lớn giữa nhận thức về Quyền trẻ em và các hành động cụ thể. Hiện nay, việc quán triệt nội dung các Quyền của trẻ em từ lời nói, nhận thức đến hành động vẫn chưa thực sự đồng đều. Nhiều hoạt động truyền thông vẫn chưa thực sự có hiệu quả trong việc tham gia khuyến khích thay đổi hành vi bền vững nhằm mang lại lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Đâu đó, vẫn tồn tại những khoảng trống, những thiếu hụt trong nhận thức đến hành động thực tiễn cũng là một quá trình lâu dài. Bởi lẽ, có thể người dân nhận thức được nhưng chưa chắc nhận thức đó sẽ trở thành hành động trong thực tiễn, càng khó hình thành được một khuôn mẫu ứng xử trong xã hội. Tìm hiểu về nhận thức về Quyền trẻ em của người dân cũng như những nhận xét về cách thức, phương pháp truyền thông về quyền trẻ em sẽ góp phần làm cơ sở để các nhà làm công tác truyền thông- vận động về quyền trẻ em, các nhà hoạch định chính sách đưa ra kế hoạch cũng như chiến lược truyền thông nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về quyền trẻ em cho người dân nói chung và trẻ em nói riêng. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nói trên, đề tài “Nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em” vừa mang tính cấp thiết vừa có giá trị khoa học.

docx102 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3159 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Hiện nay, vấn đề quyền trẻ em đang là mối quan tâm lớn không chỉ của từng quốc gia mà là của toàn xã hội. Tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc phụ thuộc nhiều vào việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Tuy nhiên, ở nhiều nơi trên thế giới, tình trạng trẻ em phải tự lao động kiếm sống, bị lừa gạt, bạo lực, bóc lột sức lao động và sa vào các tệ nạn xã hội đang có chiều hướng gia tăng. Bởi vậy, hơn lúc nào hết, vấn đề quyền trẻ em được đặt ra như một nhu cầu bức bách cần được giải quyết, nhằm giành lại cho các em quyền được sống, quyền được học hành, vui chơi, được chăm sóc và bảo vệ…Những khẩu hiệu “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”, “Hãy dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em mà mình có”…đã và đang là khẩu hiệu hành động của các quốc gia. Ở Việt Nam, ngay từ khi phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em (1990), UNICEF đã phối hợp chặt chẽ với chính phủ Việt Nam xây dựng Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em và nỗ lực triển khai thực hiện. UNICEF đã kiên trì thực hiện các hoạt động truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của những người có vai trò và ảnh hưởng đối với trẻ em. Bởi vậy, trẻ em Việt Nam đã, đang và sẽ được hưởng những cơ hội tốt đẹp so với trước đây. Mức sống của nhiều gia đình được cải thiện, các bậc cha mẹ có sự lựa chọn dễ dàng hơn trong việc tổ chức cuộc sống và điều này có ảnh hưởng tích cực tới lợi ích của trẻ em. Nhưng để có được sự lựa chọn đi tới quyết định đúng đắn trong việc chăm sóc trẻ em, các gia đình cần được tiếp cận thông tin nhiều hơn nữa. Truyền thông đã và đang tiếp tục mở rộng tầm ảnh hưởng tới quần chúng. Các thông tin xã hội có định hướng, trong đó các vấn đề trẻ em được truyền tải nhiều hơn tới dân chúng cả về chất lượng và số lượng. “Nhận thức toàn dân” về quyền cũng như các vấn đề của trẻ em không ngừng được cải thiện. Mặc dù vậy, vẫn còn một khoảng cách khá lớn giữa nhận thức về Quyền trẻ em và các hành động cụ thể. Hiện nay, việc quán triệt nội dung các Quyền của trẻ em từ lời nói, nhận thức đến hành động vẫn chưa thực sự đồng đều. Nhiều hoạt động truyền thông vẫn chưa thực sự có hiệu quả trong việc tham gia khuyến khích thay đổi hành vi bền vững nhằm mang lại lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Đâu đó, vẫn tồn tại những khoảng trống, những thiếu hụt trong nhận thức đến hành động thực tiễn cũng là một quá trình lâu dài. Bởi lẽ, có thể người dân nhận thức được nhưng chưa chắc nhận thức đó sẽ trở thành hành động trong thực tiễn, càng khó hình thành được một khuôn mẫu ứng xử trong xã hội. Tìm hiểu về nhận thức về Quyền trẻ em của người dân cũng như những nhận xét về cách thức, phương pháp truyền thông về quyền trẻ em sẽ góp phần làm cơ sở để các nhà làm công tác truyền thông- vận động về quyền trẻ em, các nhà hoạch định chính sách đưa ra kế hoạch cũng như chiến lược truyền thông nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về quyền trẻ em cho người dân nói chung và trẻ em nói riêng. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nói trên, đề tài “Nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em” vừa mang tính cấp thiết vừa có giá trị khoa học. 2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu. Trẻ em là nhóm xã hội đặc biệt luôn chiếm được sự quan tâm rất lớn của Đảng, Chính phủ và các tổ chức xã hội, do đó có nhiều công trình nghiên cứu về trẻ em. Tuy nhiên những nghiên cứu về nhận thức của người dân về quyền trẻ em dường như còn rất ít. 2.1. Các nghiên cứu ngoài nước. * UNICEF là một trong những tổ chức quốc tế có nhiều đóng góp trong việc hỗ trợ các hoạt động của Chính phủ liên quan tới trẻ em. Các chương trình của UNICEF được hình thành theo định hướng của Công ước quốc tế về Quyền trẻ em (CRC). Trên cơ sở đó, UNICEF đưa ra mục tiêu chung là: vì sự sống còn, phát triển, bảo vệ và tham gia của trẻ em trong khuôn khổ Công ước quốc tế về Quyền trẻ em. Một số nghiên cứu của UNICEF về trẻ em: “UNICEF, tình hình trẻ em thế giới, 2000; SRVN, UNICEF, Vietnam, Summary of the mid - term review of the joint country programme of cooperation”, Hanoi, June 1998. Các nghiên cứu của UNICEF chủ yếu là về các vấn đề sau của trẻ em. + Vệ sinh môi trường và chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em. + Dinh dưỡng cho trẻ. + Vấn đề giáo dục. + Trẻ em tàn tật. 2.2. Các nghiên cứu trong nước. Mặc dù công tác BVCS&GDTE đã được Đảng và Nhà nước thực sự quan tâm, phong trào toàn dân chăm lo cho trẻ em luôn luôn được đẩy mạnh tại các địa phương trong cả nước, nhưng trong một thời gian dài, những nghiên cứu, những khảo sát đánh giá về công tác này còn ít ỏi. Điều đáng mừng là, trong những năm những năm gần đây, đã có những công trình nghiên cứu về trẻ em nói chung, về những vấn đề xung quanh qúa trình thi hành Luật BVCS&GDTE, truyền thông – vận động về quyền trẻ em nói riêng được triển khai và đem lại những giá trị, ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Dưới đây là một số công trình cơ bản: - Trong hệ thống các đề tài, chương trình nghiên cứu về trẻ em Việt Nam, một nghiên cứu có quy mô khá lớn là: “Nghiên cứu vị trí, vai trò của gia đình và cộng đồng trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam” do UBBV&CSTE Việt Nam chủ trì, GS.TS.Phạm Tất Dong làm chủ nhiệm. Mục đích nghiên cứu của chương trình là: Làm rõ vị trí, vai trò của gia đình và cộng đồng trong việc bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em; đánh giá những tác động của chính sách hiện có với gia đình và cộng đồng; đưa ra những khuyến nghị chính sách và giải pháp chiến lược có hiệu quả nhằm phát huy vai trò của gia đình và cộng đồng với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong thời gian tới. Nghiên cứu này đã đưa ra nhiều phát hiện thú vị về công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đề xuất hệ thống khuyến nghị gồm 4 điểm qua tổng hợp các kết quả nghiên cứu từ 6 đề tài nhánh. Cho dù, lượng mẫu trong nghiên cứu chưa đủ lớn để có thể suy rộng ra cho toàn bộ khối dân cư, nhiều khía cạnh về trẻ em chưa được phân tích sâu, đầy đủ, nhưng kết quả nghiên cứu đã cung cấp cho giới hữu trách, những người hoạch định chính sách những số liệu và sự đánh giá, khái quát khá mới mẻ và bổ ích. Mặc dù vậy, nghiên cứu cũng chỉ nhấn mạnh đến vai trò của gia đình và cộng đồng trong việc BVCS&GDTE chứ chưa đi sâu vào vấn đề nhận thức về quyền trẻ em. - Với mục đích tổng kết 10 năm thi hành Luật BVCS&GDTE để đánh giá sự chuyển biến nhận thức và tình hình thực hiện Luật của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức, các đoàn thể xã hội và đặc biệt là việc thực hiện chủ trương, chính sách cho trẻ em của các cấp chính quyền địa phương, từng bước nâng cao nhận thức và trách nhiệm với công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, năm 2001, Trung tâm Thông tin – Tư liệu và Nghiên cứu – UBBV&CSTE Việt Nam tiến hành cuộc điều tra: “Một số khó khăn và cản trở qua 10 năm thực hiện Luật BVCS&GDTE (1991-2000)”. Các vấn đề như nhận thức về Luật của các nhóm lãnh đạo, người nuôi dưỡng trẻ trực tiếp, của chính trẻ em; Những khó khăn và cản trở khi thực hiện Luật; Những đề xuất, sửa đổi, bổ sung Luật và các chính sách có liên quan… là những nội dung chính của nghiên cứu. Có thể nói đó là những đánh giá tổng hợp có giá trị cung cấp một cái nhìn khá tổng thể về những thành tựu và hạn chế qua 10 năm thực hiện Luật. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng chưa đề cập nhiều đến vấn đề nhận thức của người dân về quyền trẻ em. - Báo cáo “Hoạt động, tư vấn – xây dựng chương trình truyền thông – vận động quyền trẻ em giai đoạn 2001 – 2005” do PLAN INTERNATIONAL HÀ NỘI tài trợ, Hà Nội, 2001 – Trịnh Hoà Bình và cộng sự thực hiện đã đánh giá nhận thức của người dân về Luật BVCS&GDTE và một số quyền cơ bản của trẻ em trên 9 tỉnh/ thành phố. Từ đó xây dựng chương trình truyền thông – vận động quyền trẻ em giai đoạn 2001 – 2005. Báo cáo đã đưa ra được những kết quả bước đầu về nhận thức của người dân về quyền trẻ em, tuy nhiên mục đích chính của nghiên cứu này là xây dựng chương trình truyền thông – vận động về quyền trẻ em chứ không phải là nghiên cứu sâu nhận thức về quyền trẻ em. - “Nhận thức và dư luận xã hội qua 10 năm thực hiện Luật BVCS&GDTE”, chuyên luận, Trung tâm Truyền thông – Vận động xã hội, Hà Nội 2001, do Trịnh Hoà Bình, Đặng Nam và cộng sự thực hiện. Với mục đích tổng hợp những kết quả chính về mặt nhận thức và đánh giá của các nhóm đối tượng về Luật BVCS&GDTE (Dư luận xã hội) từ đó đưa ra những khuyến nghị, giải pháp cho chương trình hành động quốc gia vì trẻ em của Việt Nam trong thời gian tới. Đề tài đã đi sâu tìm hiểu nhận thức của xã hội nói chung về Luật BVCS&GDTE, cũng như tác động của Luật BVCS&GDTE tới nhận thức của họ. Nhận diện thực trạng dư luận xã hội hiện nay về thành tựu và hạn chế trong quá trình thực hiện Luật BVCS&GDTE qua các số liệu tiêu biểu thu thập trong 10 năm qua của UBBV&CSTEVN. Từ thực trạng trên, báo cáo đề xuất một số khuyến nghị về giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em. Nhìn chung chuyên luận chủ yếu tập trung tìm hiểu về nhận thức của người dân về Luật BVCS&GDTE. Ngoài ra còn một số nghiên cứu trong nước có sự tham gia của tổ chức nước ngoài như: UNICEF, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý: “Chuyên đề về Luật Việt Nam và Công ước quốc tế bảo vệ trẻ em trước tệ nạn lạm dụng tình dục”, 1998. Như vậy, đã có rất nhiều nghiên cứu về trẻ em nói chung và quyền trẻ em nói riêng. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên lại tập trung đi sâu vào vấn đề truyền thông – vận động về quyền trẻ em hay đánh giá qúa trình thực hiện quyền trẻ em (trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em và Luật BVCS&GDTE) mà chưa đi sâu tìm hiểu xem nhận thức của người dân đi đến đâu và họ đã hiểu về quyền trẻ em như thế nào? với nghiên cứu “Nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em” tác giả mong muốn góp phần làm phong phú thêm những nghiên cứu về vấn đề này. Như vậy, đã có rất nhiều nghiên cứu về trẻ em nói chung và Quyền trẻ em nói riêng. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên tập trung đi sâu vào vấn đề truyền thông – vận động về quyền trẻ em hay đánh giá quá trình thực hiện Quyền trẻ em (trong “Công ước quốc tế về Quyền trẻ em và Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em” mà chưa tìm hiểu xem truyền thông – vận động về Quyền trẻ em đã thực sự đi sâu vào nhận thức của người dân đến đâu? Và họ đã hiểu về Quyền trẻ em như thế nào? Với nghiên cứu này tác giả mong muốn đóng góp một phần làm phong phú thêm những nghiên cứu về Quyền trẻ em. 2.3. Quy định của Liên hợp quốc về Quyền và bổn phận của trẻ em. Các quyền và bổn phận của trẻ em của trẻ em nói chung đã ghi nhận một cách rõ ràng trong Công ước về Quyền trẻ em của Liên hợp quốc. Công ước này được Đại hội đồng Liên hợp quốc chính chức thông qua ngày 20/11/1989 nhân kỷ niệm 30 năm ngày thông qua “Tuyên ngôn về quyền trẻ em” (1959- 1989) và kỷ niệm 10 năm “Năm quốc tế thiếu nhi” (1979- 1989). Văn bản quốc tế quan trọng này được đại diện 61 nước ký vào ngày 26/1/1990 đến nay đã có 195 nước ký và phê chuẩn. Trong năm thiếu nhi Việt Nam 1989- 1990, Việt Nam đã ký Công ước về Quyền trẻ em ngay trong ngày đầu tiên Công ước được mở cho các nước ký (26/1/1990) và trở thành một nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước (20/2/1990) mà không bảo lưu. Qua đó Nhà nước ta cam kết với Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế là sẽ thực hiện đầy đủ các điều khoản của Công ước. Các Quyền trẻ em trong Công ước được quy định ở 40 điều khác nhau. Tựu chung các quyền của trẻ em được chia thành 4 nhóm chính. + Nhóm quyền được sống. Trẻ em phải được chăm sóc từ trong bào thai, khi ra đời phải được công nhận, có giấy khai sinh, có quốc tịch, quyền được nhận cha, mẹ đẻ, có gia đình (hoặc gia đình thay thế) được chăm sóc cơm ăn, áo mặc, chữa bệnh khi ốm đau, được cứu chữa khi có chiến tranh… Những quyền này là quyền cơ bản đảm bảo sự sống của trẻ em. Ảnh sưu tầm báo Văn hoá - Thông tin số ra ngày 3/3/2005 + Nhóm quyền phát triển. Trẻ em cần có mức sống tốt đảm bảo khoẻ mạnh về thể chất tâm thần, trí tuệ, đạo đức, được tiếp xúc với các nguồn thông tin cần thiết, được học hành theo khả năng, năng khiếu của mình, được nghỉ ngơi, vui chơi giải trí theo đặc điểm lứa tuổi và sở thích cá nhân, được sử dụng tiếng mẹ đẻ và phát triển nhân cách theo bản sắc văn hoá dân tộc. Những quyền này là quyền cơ bản đảm bảo sự phát triển đầy đủ nhất của mỗi trẻ em. Ảnh sưu tầm báo Mẹ và Bé, số tháng 4/2006 + Nhóm quyền được bảo vệ. Trẻ em phải được bảo vệ tránh mọi sự phân biệt đối xử, được bảo vệ trước những tệ nạn xã hội, buôn bán trẻ em, xâm hại tình dục, nghiện ma tuý, bạo lực, làm nhục mạ về thể chất và tinh thần… được bảo vệ khỏi bị bóc lột về kinh tế và làm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm… Những quyền này là quyền cơ bản bảo đảm trẻ em không bị lôi kéo, xô đẩy vào tệ nạn xã hội, bạo lực và bóc lột. Ảnh sưu tầm báo Mẹ và Bé, số tháng 4/2006 + Nhóm quyền được tham gia. Trẻ em được tham gia vào các hoạt động xã hội theo khả năng, sở thích và nguyện vọng của trẻ em, được nêu ý kiến của mình trong các cuộc họp về vấn đề liên quan đến quyền và sự phát triển của trẻ em. Đây là các quyền cơ bản để trẻ em được rèn luyện đưa quyết định trước những vấn đề của cuộc sống. (1): Với chủ đề “Đánh thức ước mơ, ngời sáng tương lai” các em đã được thoả sức vẽ và thể hiện biết bao ước mơ và hình dung của mình về tương lai ngời sáng mai sau. Ảnh sưu tầm báo Thế giới phụ nữ , số ra ngày 29/11/2004 (2) Cuộc thi “Em vẽ tương lai” giúp cho trẻ em vẽ ra ước mơ của mình. Cuộc thi mang lại một sân chơi bổ ích cho các em, mặt khác cuộc thi còn dấy lên động thái mới trong xã hội, kêu gọi người lớn quan tâm nhiều hơn nữa đến đời sống tinh thần của trẻ em. Ảnh sưu tầm báo Thế giới phụ nữ, số ra ngày 20/12/2004. Như vậy, Công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên hợp quốc đã thể hiện và khẳng định những quyền của trẻ em như quyền của con người nói chung. Đó là các quyền được có họ tên và quốc tịch, được học tập, được hưởng an toàn xã hội, chăm sóc sức khoẻ. Tuy nhiên các quyền trẻ em trong Công ước được xác định là quyền nhằm nâng cao hay bổ sung thêm vào quyền con người nói chung đã được công nhận, có xét đến nhu cầu và đặc thù của trẻ em. Vì vậy nguyên tắc bao trùm Công ước là “Trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ và giúp đỡ đặc biệt do còn non nớt về thể chất và trí tuệ”. Các nhóm quyền trên không chỉ được nêu ra trong Công ước quốc tế mà còn được phản ánh đầy đủ trong hệ thống Luật pháp Việt Nam mà trước hết là Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. 2.4. Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề Quyền trẻ em. Ở Việt Nam, trẻ em từ 0 đến 16 tuổi chiếm 43,6% dân số, hàng năm có khoảng 1,5 triệu trẻ em được sinh ra. Về mặt văn hoá và truyền thống, trẻ em được coi là niềm hạnh phúc của gia đình và tương lai của đất nước. Trẻ em là lớp công dân đặc biệt mà Nhà nước và xã hội phải chăm sóc, tạo những ưu tiên cho việc tạo môi trường thuận lợi, trong lành để trẻ em được bảo vệ và chăm sóc. Việt Nam đã ký và phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc. Trong những năm qua mặc dù còn có những khó khăn nhưng các điều khoản cơ bản của Công ước về quyền trẻ em đã dần dần được đưa vào chiến lược phát triển và Luật pháp quốc gia. Những bước quan trọng đã được thể hiện để thi hành Công ước nhằm tăng việc bảo vệ quyền trẻ em. Các văn bản pháp Luật quan trọng liên quan đến trẻ em như: Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật phổ cập giáo dục tiểu học, Bộ Luật Lao động và Bộ Luật Dân sự được ban hành trong đó có vận dụng các điều khoản của Công ước về quyền trẻ em. Với tinh thần “Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”, Đảng và Nhà nước luôn mong muốn những điều tốt đẹp cho trẻ em. Điều này được minh chứng bằng những chính sách ưu tiên đối với trẻ em qua: một số chương trình, Quyết định, Chỉ thị, liên quan đến trẻ em: Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em 1999 – 2000, Chỉ thị 38/CT-TW của Ban Bí thư TW Đảng về tăng cường bảo vệ và chăm sóc trẻ em, tiếp đó đến quyết định số 34/1991/QĐ-TTG ngày 27/12/1991 của Thủ tướng chính phủ về trẻ em, tổng kết chương trình quốc gia hành động về trẻ em 1999 – 2000; Xây dựng chương trình hành động quốc gia vì trẻ em 2001 – 2010; Chỉ thị số 55CT/TW ngày 28/6/2000 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Quyết định số 23 ngày 25/02/2001 phê duyệt chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010. Bằng những chính sách, chương trình hoạt động chăm lo đến trẻ em Chính phủ đã quyết tâm thực hiện có hiệu quả Công ước quốc tế về trẻ em, từng bước đưa nội dung cơ bản của Công ước vào các chiến lược kinh tế – xã hội. Các Quyền trẻ em đã được ghi vào trong hiến pháp và các đạo Luật khác nhau như : Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật hôn nhân và gia đình… Ngoài ra, còn có một số văn bản chỉ thị khác nữa thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Chính phủ đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Bên cạnh đó, nhiều cơ quan tổ chức xã hội đã có các hoạt động về BVCS&GDTE như : Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư gắn với công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em (1996). Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em đã ban hành nhiều văn bản để hướng dẫn và tổ chức hoạt động bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, và thực hiện quyền trẻ em, trong đó có những hoạt động rất thiết thực và cụ thể như thành lập: “Quỹ bảo trợ trẻ em”, “Hướng dẫn: Tiêu chuẩn xây dựng xã, phường phù hợp với trẻ em” (01/6/2004); Hội Liên Hiệp (HLH) Thanh Niên Việt Nam cũng đã phát động phong trào vì trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn bằng nhiều hình thức cuộc sống khác nhau. Đặc biệt là xây dựng những đội tuyên truyền thanh niên có kỹ năng nghiệp vụ vận động phòng chống các tệ nạn xã hội… tổ chức vận động truyền thông với nhiều hình thức thay đổi nhận thức và hinh vi của người dân trong công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; Hội Liên Hiệp (HLH) Phụ nữ Việt Nam đã có nhiều chính sách khuyến khích, nỗ lực lồng ghép các hoạt động trong khuôn khổ Hội với vấn đề bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Hội nông dân Việt Nam có chương trình hành động vì trẻ em nông thôn. Hội đã phối hợp liên ngành, lồng ghép nội dung chương trình đào tạo nguồn lực. Đưa nội dung chương trình vào văn kiện Đại hội, nội dung công tác của hội; Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh với cuộc vận động “ Xã hội tình nguyện vì trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt” với các mục tiêu cụ thể như: bảo vệ trẻ em, ngăn chặn trẻ em phạm tội. Giúp đỡ trẻ em mồ côi lang thang cơ nhỡ. Chăm sóc trẻ em bị hậu quả chất độc màu da cam … Nhiều chương trình, chính sách, mục tiêu ở tầm quốc gia đã được triển khai và có tác động mạnh mẽ đến nhận thức của cả người dân ở cả nông thôn, thành thị cũng như tác động đến việc thực hiện Quyền trẻ em nói riêng. Các chương trình, chính sách đó phần nào làm cho đời sống của nhân dân nói chung và trẻ em nói riêng được nâng lên nhiều. Tuy nhiên, ở một khía cạnh nào đó vẫn có điều cần bàn đến chủ trương, chính sách, chương trình của Nhà nước. Các chủ trương, chương trình, chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra với những mục tiêu hết sức tốt cho người dân, nhưng khi triển khai ở tuyến cơ sở thường nảy sinh hoặc thiếu chiều sâu, hoặc hình thức, ít chú ý đến vấn đề trọng tâm, chậm đi vào thực chất. 3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn. 3.1. Ý nghĩa khoa học. - Góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận vấn đề nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em. Qua đó, bổ sung, làm phong phú thêm cách nhìn nhận, đánh giá vấn đề của người dân về quyền trẻ em. - Đề tài cũng góp phần làm sáng tỏ những khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu như: nhận thức, quyền trẻ em, trẻ em, truyền thông. Mặt khác, đề tài cũng góp phần làm phong phú thêm các tiếp cận lý thuyết về vấn đề nghiên cứu. 3.2. Ý nghĩa thực tiễn. - Cung cấp bức tranh thực trạng nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em, những yếu tố tác động đến nhận thức của người dân. Trên cơ sở đó, giúp các nhà làm công tác truyền thông – vận động, những người làm công tác trẻ em có cách nhìn nhận chính xác hơn thực trạng nhận thức về quyền trẻ em của người dân, từ đó đề ra những kế hoạch truyền thông – vận động nâng cao nhận thức về quyền trẻ em cho ng
Luận văn liên quan