Di chuyển lao động quốc tế là một thuộc tính quan trọng đối với sự phát triển của các nước Châu Á khi bắt đầu những năm 1980. Khoảng cách về thu nhập cũng như các cơ hội làm việc ở các nền kinh tế châu Á dẫn tới việc di chuyển lao động từ nơi có mức lương thấp tới nơi có mức lương cao hơn. Di chuyển lao động quốc tế ngày càng có xu hướng tăng, trở thành một hiện tượng toàn cầu. Không thể phủ nhận rằng di cư không thể bị ngăn cản và lượng lao động di cư đã trở nên quan trọng, không thể thiếu đối với nhiều nền kinh tế trên khắp thế giới.
Việt Nam là nước đang phát triển, với số dân đã lên tới hơn 90 triệu, hằng năm với mức tăng dân số trung bình khoảng 1 triệu, được đánh giá là một nước có nhiều lợi thế về sức lao động, đặc biệt là lao động giá rẻ. Do tình trạng gia tăng nhanh về dân số và lao động mà nền kinh tế không hấp thụ được hết, nên nhu cầu về việc làm ngày càng cấp bách. Đặc biệt trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng toàn cầu hóa, Việt Nam đang có nhiều cơ hội phát triển về nguồn nhân lực, trao đổi hàng hóa “sức lao động” giữa các nước và khu vực. Nhất là khi Cộng đồng kinh tế Asean đã được hình thành, việc lưu chuyển các nguồn lực cũng như nguồn nhân lực ngày càng tự do hơn giữa các nước, dẫn đến việc cạnh tranh về hàng hóa “sức lao động” càng cao. Trong điều kiện đất nước dồi dào về sức lao động, nhưng chủ yếu là lao động sống ở nông thôn, trình độ chuyên môn tay nghề thấp, giá rẻ, sức ép việc làm lớn, nên xuất khẩu lao động (XKLĐ) không những là một chủ trương lớn mà còn là một chiến lược quan trọng lâu dài góp phần giải quyết việc làm, phát triển nguồn nhân lực, tăng thu nhập cho người lao động, củng cố và tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc tế.
Từ năm 1980, Việt Nam đã tiến hành XKLĐ sang các nước Xã hội chủ nghĩa (XHCN) theo Hiệp định hợp tác quốc tế về lao động. Từ năm 1991 đến nay, hình thức XKLĐ chuyển dần sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Hơn 30 năm tiến hành XKLĐ, số lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài ngày càng nhiều và chất lượng hơn ở 41 nước và vùng lãnh thổ.
Mặc dù, lợi ích trước mắt mà XKLĐ mang lại như tạo việc làm cho người lao động trong nước, tăng thu nhập, nhưng lợi ích dài hạn tác động tới sự tăng trưởng của nền kinh tế như thế nào thì vẫn chưa rõ ràng. Các nghiên cứu về dòng di cư, đặc biệt về lượng kiều hối, tiền mà người lao động nước ngoài gửi về quê hương đã được nghiên cứu từ những năm 1980 nhưng vẫn có nhiều quan điểm trái chiều. Nghiên cứu về tác động của XKLĐ đối với tăng trưởng kinh tế cũng như nghiên cứu dòng tiền kiều hối đến tăng trưởng kinh tế các nước tiếp nhận có ý nghĩa quan trọng. Hiểu rõ tác động của chúng đến tăng trưởng kinh tế sẽ giúp chính phủ các nước đưa ra các chính sách hợp lý để thu hút nguồn lực một cách hiệu quả.
Tuy nhiên, các bài nghiên cứu về vấn đề này vẫn rất ít, đặc biệt là trường hợp ở Việt Nam. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu “Tác động của Xuất khẩu lao động tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” làm khóa luận tốt nghiệp. Bài nghiên cứu từ năm 1991 đến năm 2013.
71 trang |
Chia sẻ: tienduy345 | Lượt xem: 5255 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phân tích tác động của xuất khẩu lao động tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ
-------***-------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA XUẤT KHẨU
LAO ĐỘNG TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VIỆT NAM
Họ và tên sinh viên : Phan Thị Trang Vân
Mã số sinh viên : 1214410224
Lớp : Anh 5 – KTQT
Khóa : K51
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thùy Vinh
Hà Nội, tháng 12 năm 2015
MỤC LỤC
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1 Biểu đồ cung cầu lao động 11
Hình 3.1 Tỉ lệ lao động qua đào tạo ở Việt Nam 29
Hình 3.2 Lao động xuất khẩu ở Việt Nam 2010-2014 35
Hình 3.3 Tỷ lệ các hình thức XKLĐ các năm 38
Hình 3.4 Cơ cấu lao động xuất khẩu lao động 40
Hình 3.5 Top 10 nước nhận lượng kiều hối lớn nhất thế giới 42
Hình 3.6 Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam qua các năm (1986-2014) 43
Hình 3.7 Kiều hối do XKLĐ và kiều hối chung của cả nước 46
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1 Số lao động xuất khẩu giai đoạn 1991-2000 31
Bảng 3.2 Số lao động xuất khẩu giai đoạn 2001-2010 33
Bảng 3.3 Số lao động xuất khẩu Việt Nam qua các nước và khu vực 34
Bảng 3.4 Thu nhập bình quân hàng tháng của người lao động tại một số thị trường năm 2006 41
Bảng 3.5 Giai đoạn các thời kỳ kinh tế và tốc độ tăng trưởng bình quân 43
Bảng 4.1 Mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu 50
Bảng 4.2 Kiểm tra tính dừng cho các chuỗi dữ liệu 51
Bảng 4.3: Kết quả hồi quy OLS mô hình (1): 52
Bảng 4.4 Kết quả kiểm tra tính dừng chuỗi phần dư 52
Bảng 4.5 Kiểm định White về phương sai sai số thay đổi 53
Bảng 4.6 Kết quả hồi quy mô hình Hiệu chỉnh sai số 54
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Lý do chọn đề tài
Di chuyển lao động quốc tế là một thuộc tính quan trọng đối với sự phát triển của các nước Châu Á khi bắt đầu những năm 1980. Khoảng cách về thu nhập cũng như các cơ hội làm việc ở các nền kinh tế châu Á dẫn tới việc di chuyển lao động từ nơi có mức lương thấp tới nơi có mức lương cao hơn. Di chuyển lao động quốc tế ngày càng có xu hướng tăng, trở thành một hiện tượng toàn cầu. Không thể phủ nhận rằng di cư không thể bị ngăn cản và lượng lao động di cư đã trở nên quan trọng, không thể thiếu đối với nhiều nền kinh tế trên khắp thế giới.
Việt Nam là nước đang phát triển, với số dân đã lên tới hơn 90 triệu, hằng năm với mức tăng dân số trung bình khoảng 1 triệu, được đánh giá là một nước có nhiều lợi thế về sức lao động, đặc biệt là lao động giá rẻ. Do tình trạng gia tăng nhanh về dân số và lao động mà nền kinh tế không hấp thụ được hết, nên nhu cầu về việc làm ngày càng cấp bách. Đặc biệt trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng toàn cầu hóa, Việt Nam đang có nhiều cơ hội phát triển về nguồn nhân lực, trao đổi hàng hóa “sức lao động” giữa các nước và khu vực. Nhất là khi Cộng đồng kinh tế Asean đã được hình thành, việc lưu chuyển các nguồn lực cũng như nguồn nhân lực ngày càng tự do hơn giữa các nước, dẫn đến việc cạnh tranh về hàng hóa “sức lao động” càng cao. Trong điều kiện đất nước dồi dào về sức lao động, nhưng chủ yếu là lao động sống ở nông thôn, trình độ chuyên môn tay nghề thấp, giá rẻ, sức ép việc làm lớn, nên xuất khẩu lao động (XKLĐ) không những là một chủ trương lớn mà còn là một chiến lược quan trọng lâu dài góp phần giải quyết việc làm, phát triển nguồn nhân lực, tăng thu nhập cho người lao động, củng cố và tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc tế.
Từ năm 1980, Việt Nam đã tiến hành XKLĐ sang các nước Xã hội chủ nghĩa (XHCN) theo Hiệp định hợp tác quốc tế về lao động. Từ năm 1991 đến nay, hình thức XKLĐ chuyển dần sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Hơn 30 năm tiến hành XKLĐ, số lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài ngày càng nhiều và chất lượng hơn ở 41 nước và vùng lãnh thổ.
Mặc dù, lợi ích trước mắt mà XKLĐ mang lại như tạo việc làm cho người lao động trong nước, tăng thu nhập, nhưng lợi ích dài hạn tác động tới sự tăng trưởng của nền kinh tế như thế nào thì vẫn chưa rõ ràng. Các nghiên cứu về dòng di cư, đặc biệt về lượng kiều hối, tiền mà người lao động nước ngoài gửi về quê hương đã được nghiên cứu từ những năm 1980 nhưng vẫn có nhiều quan điểm trái chiều. Nghiên cứu về tác động của XKLĐ đối với tăng trưởng kinh tế cũng như nghiên cứu dòng tiền kiều hối đến tăng trưởng kinh tế các nước tiếp nhận có ý nghĩa quan trọng. Hiểu rõ tác động của chúng đến tăng trưởng kinh tế sẽ giúp chính phủ các nước đưa ra các chính sách hợp lý để thu hút nguồn lực một cách hiệu quả.
Tuy nhiên, các bài nghiên cứu về vấn đề này vẫn rất ít, đặc biệt là trường hợp ở Việt Nam. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu “Tác động của Xuất khẩu lao động tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” làm khóa luận tốt nghiệp. Bài nghiên cứu từ năm 1991 đến năm 2013.
Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu định lượng về xuất khẩu lao động tác động tới tăng trưởng kinh tế được các nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu từ những năm 1980 nhưng vẫn chưa tìm ra được các mối quan hệ thực sự rõ ràng về tác động của chúng. Nghiên cứu của Ratha (2003) cho rằng: Kiều hối từ những người lao động làm việc ở nước ngoài là một vốn tài chính ngoại ngày càng quan trọng và ổn định cao đối với các nước đang phát triển.
Mặc dù quy mô của kiều hối có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế các nước, nhưng mức độ quan trọng của chúng liên quan đến dòng thu nhập làm kết luận này càng phù hợp hơn. Ví dụ, theo Chami et al (2008) báo cáo rằng tỉ lệ kiều hối trên GDP trung bình của các nước đang phát triển giai đoạn 1995 – 2004 là 3,6%. Đối với từng quốc gia, lượng kiều hối vượt quá 1% GDP đối với 60 quốc gia trong nghiên cứu này và trong đó có 7 quốc gia có tỷ lệ kiều hối trên GDP trung bình là 15% hoặc cao hơn.
Các tài liệu học thuật về kiều hối và tăng trưởng đã không tìm thấy một tác động tích cực mạnh mẽ nào về kiều hối đối với tăng trưởng (Mansoor A., Quillin Br., 2009). Một vài nghiên cứu kết luận rằng kiều hối có tác rất ít đến mô hình tăng trưởng kinh tế vĩ mô trong dài hạn. Tuy nhiên, những nghiên cứu khác cho rằng vì một lượng lớn kiều hối không được đầu tư một cách hiệu quả nên nó không có hoặc có đóng góp ít vào tăng trưởng kinh tế (Pradhan G., Upadhyay M., Upadhyaya K., 2008). Một vài tác giả khác thì có quan điểm ngược lại. Kiều hối cũng có tác động tiêu cực và mối quan hệ mạnh mẽ tới tăng trưởng thu nhập. Khi tốc độ tăng trưởng thu nhập tăng thì kiều hối giảm. Do đó, một số tác giả cho rằng kiều hối không hành xử giống như các nguồn vốn do đó mà không đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu cũng cho rằng khả năng tạo ra tăng trưởng của kiều hối biến động theo từng nước và từng thời kỳ: chúng có thể thúc đẩy hoặc hạn chế tăng trưởng kinh tế. Dựa trên các nghiên cứu trên, tác động của kiều hối ở cấp độ vĩ mô vẫn còn chưa rõ ràng.
Các nhà hoạch định chính sách và các nhà kinh tế đều coi kiều hối là nguồn tài chính phát triển tiềm năng, nhưng liệu quan điểm này có thực sự được đảm bảo. Một nghiên cứu hệ thống về kiều hối tác động như thế nào tới tăng trưởng, sau đó đánh giá thực nghiệm mối quan hệ này, sẽ cung cấp nền tảng tốt hơn cho chính sách phát triển, đặc biệt là nếu chúng không có bất kỳ tác động tích cực (hoặc không có tác động gì). Đa số các nghiên cứu về kiều hối tới tăng trưởng cũng như tác động của xuất khẩu lao động tới tăng trưởng đều tiến hành thực nghiệm với dữ liệu mảng các nước trong khu vực hoặc các nước đang phát triển, rất ít bài nghiên cứu phân tích tác động đối với từng quốc gia. Ở Việt Nam, nghiên cứu tác động của XKLĐ tới tăng trưởng vẫn còn rất hạn chế, chủ yếu nghiên cứu định tính về mối quan hệ đó hoặc nghiên cứu chung cùng với các nước đang phát triển khác.
Mục tiêu và nội dung nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định các mối quan hệ định lượng về tác động của XKLĐ tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Sau đó, đưa ra các đề xuất khắc phục những hạn chế, nhược điểm của lao động xuất khẩu Việt Nam góp phần tăng trưởng kinh tế.
Nội dung nghiên cứu của khóa luận là:
Nghiên cứu và tổng hợp những vấn đề về cơ sở lý luận của XKLĐ, các mô hình lý thuyết của các học giả trên thế giới.
Phân tích thực trạng, tình hình phát triển của XKLĐ và tăng trưởng ở Việt Nam thời kì từ năm 1991 đến nay, từ đó xác định các biến số vĩ mô đưa vào mô hình phù hợp với nền kinh tế Việt Nam.
Phân tích mối liên hệ giữa XKLĐ và kiều hối, mối quan hệ giữa kiều hối và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam; từ đó rút ra mối quan hệ giữa XKLĐ và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Xem xét mối các mối quan hệ này trong dài hạn và ngắn hạn.
1.4 Đối tượng, phạm vi
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là tác động của XKLĐ tới tăng trưởng kinh tế.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, các đặc điểm của xuất khẩu lao động ở Việt Nam, mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu lao động, phân tích định lượng mối quan hệ xuất khẩu lao động và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Phạm vi thời gian nghiên cứu: từ năm 1991 đến năm 2013.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, định tính, định lượng kết hợp tư duy khoa học và duy vật biện chứng để hệ thống hóa các cơ sở lý luận về XKLĐ, tầm quan trọng của XKLĐ đối với tăng trưởng kinh tế.
Sử dụng mô hình hồi quy Hai bước Engle – Granger để xác định mối quan hệ ngắn hạn và dài hạn của các biến.
1.6 Kết cấu của bài khóa luận
Kết cấu của bài khóa luận gồm 5 chương:
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
Giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên cứu, tình hình nghiên cứu vấn đề trên thế giới và trong nước.
CHƯƠNG II: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ.
Đưa ra các mô hình lý thuyết về tăng trưởng và các kênh tác động của XKLĐ cũng như kiều hối tới tăng trưởng kinh tế.
CHƯƠNG III: TỔNG QUAN VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM.
Trình bày về tổng quan lực lượng lao động, tình tình XKLĐ và tăng trưởng của nền Kinh tế Việt Nam trong giai đoạn từ 1991 đến nay.
CHƯƠNG IV: PHÂN TÍCH THỰC CHỨNG TÁC ĐỘNG CỦA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM.
Xây dựng mô hình, các bước thực hiện nghiên cứu và đưa ra kết quả nghiên cứu thực nghiệm.
CHƯƠNG V: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH.
Thông qua kết quả thực chứng, đưa ra kết luận, những cơ hội và thách thức của xuất khẩu lao động của Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
CHƯƠNG 2
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
2.1 Một số vấn đề cơ bản về xuất khẩu lao động và tăng trưởng kinh tế
2.1.1 Một số vấn đề cơ bản về lao động và xuất khẩu lao động
2.1.1.1 Các khái niệm về lao động
Khái niệm lao động: là hoạt động có chủ đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi những vật thể tư nhiên phù hợp với lợi ích của mình. Lao động còn là sự vận động của sức lao động trong quá trình tạo ra của cải, vật chất và tinh thần, là quá trình kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất.
Khái niệm sức lao động: là tổng hợp thể lực và trí lực của cong người trong quá tình lao động tạo ra của cải, vật chất và tinh thần cho xã hội.
Khái niệm nguồn lao động: là một bộ phận của dân cư, bao gồm những người đang ở trong độ tuổi lao động, không kể mất khả năng lao động, và bao gồm những người ngoài độ tuổi lao động.
Khái niệm nhân lực: là nguồn lực của mỗi con người, nó bao gồm cả thể lực và trí lực. Khái niệm nguồn nhân lực: là một lực lượng bao gồm toàn bộ lao động trong xã hội, không phân biệt về trình độ, tay nghề, Nam nữ, tuổi tác. Hoặc nguồn nhân lực còn được hiểu là một bộ phận của dân số, bao gồm những người có việc làm và những người thất nghiệp.
Thị trường lao động: là một bộ phân cấu thành của hệ thống thị trường trong nền kinh tế thị trường phát triển; ở đó, diễn ra quá trình thoả thuận, trao đổi, thuê mướn lao động giữa hai bên, bên sử dụng và bên cho thuê lao động.
Thất nghiệp là hiện tượng một bộ phận lực lượng lao động không có việc làm. Người thất nghiệp là người nằm trong lực lượng lao động đang ở tình trạng không có việc làm, mặc dù tích cực tìm kiếm việc làm.
Lực lượng lao động là bao gồm những người có việc làm và những người thất nghiệp.
Tỉ lệ thất nghiệp là tỷ lệ phần trăm của số người thất nghiệp trong tổng số lực lượng lao động của xã hội.
2.1.1.2 Khái niệm về xuất khẩu lao động
Việc các nước đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo nghĩa rộng tức là tham gia vào quá trình di dân quốc tế và nó phải tuân theo hoặc là Hiệp ước giữa hai quốc gia, hoặc là phải tuân theo Công ước quốc tế, hoặc thông lệ quốc tế, tùy theo từng trường hợp khác nhau mà nó nằm trong giới hạn nào.
Nhằm phát huy tối đa các mặt tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực do di chuyển lao động quốc tế mang lại, các nước xuất khẩu phải tiến hành quản lý, hỗ trợ và cho phép các tổ chức đưa lao động hoặc cho phép các nhân người lao động ra nước ngoài làm việc, đây chính là hoạt động XKLĐ. XKLĐ là hoạt động mang tính KT-XH, đem lại lợi ich không chỉ cho các quốc gia tham gia, xuất khẩu và nhập khẩu mà còn mang lại lợi ích cho chính người lao động, tổ chức dịch vụ XKLĐ, người sử dụng lao động...
Vậy, XKLĐ chúng ta cần nghiên cứu là sự di chuyển lao động quốc tế có thời hạn, có tổ chức, vì mục đích kinh tế, được pháp luật cho phép, dưới sự quản lý và hỗ trợ của nhà nước.
Hay hiểu theo Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng “XKLĐ là quá trình đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài hợp pháp được quản lý và hỗ trợ của nhà nước theo hợp đồng của các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ, các tổ chức sự nghiệp, các doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu, các tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài, hợp đồng nâng cao tay nghề, hoặc theo hợp đồng các nhân giữa người lao động và chủ sử dụng lao động.
Người lao động khi ra nước ngoài làm việc thì gọi là người lao động xuất cư. Nước mà họ ra đi được gọi là nước xuất cư. Người lao động khi đến nước khác gọi là người lao động nhập cư và nước tiếp nhận gọi là nước nhập cư.
Từ hiện tượng di chuyển lao động quốc tế tự do tới XKLĐ phản ảnh một quá trình phát triển KT-XH, quan hệ cung – cầu lao động của mỗi quốc gia. Đó là quá trình nhận thức vai trò của người lao động, lợi thế nguồn nhân lực trong mỗi quốc gia và sự phân công lao động quốc tế.
Di chuyển lao động quốc tế và xuất khẩu lao động tuy cùng có nội hàm giống nhau, đó là di cư lao động từ quốc gia này đến quốc gia khác làm việc vì mục đích kinh tế, nhưng giữa chúng có sự khác nhau về chất. Việc di chuyển lao động ngoài XKLĐ mang tính tự pháp, tự do, có khi là bất hợp pháp còn di chuyển trong XKLĐ mang tính tự giác, có tổ chức, có thời hạn và được sự cho phép, quản lý của Nhà nước.
Ở Việt Nam, từ năm 1991 tới nay, khái niệm “Đưa người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” được sử dụng trong các nghị định của Chính phủ, Bộ Luật lao động hoặc nhiều văn bản pháp luật khác. Tại Luật sửa đổi Bộ Luật lao động (hiệu lực từ 01/01/2003), khái niệm”đưa người đi làm việc ở nước ngoài” và “xuất khẩu lao động” được sử dụng đồng thời và mang nghĩa tương đương nhau. Do đó, việc sử dụng đồng thời hai thuật ngữ này trong bài khóa luận được hiểu là như nhau.
2.1.1.3 Sự hình thành và phát triển của thị trường hàng hóa sức lao động quốc tế
Thị trường lao động trong nước: là một loại thị trường, trong đó mọi lao động đều có thể tự do di chuyển từ nơi này đến nơi khác, nhưng trong phạm vi biên giới của một quốc gia.
Thị trường lao động quốc tế: là một bộ phận cấu thành của hệ thống thị trường thế giới, trong đó lao động từ nước này có thể di chuyển từ nước này qua nước khác thông qua Hiệp định, các Thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia trên thế giới.
Sự hình thành và phát triển của thị trường hàng hóa sức lao động quốc tế:
Do sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, cũng như sự phân bố không đồng đều về tài nguyên, dân cư, khoa học công nghệ giữa các vùng, khu vực và giữa các quốc gia, dẫn đến không một quốc gia nào lại có thể có đầy đủ, đồng bộ các yếu tố cần thiết cho sản xuất và phát triển kinh tế.
Để giải quyết tình trạng bất cân đối trên, tất yếu sẽ dẫn đến việc các quốc gia phải tìm kiếm và sử dụng những nguồn lực từ bên ngoài để bù đắp một phần thiếu hụt các yếu tố cần thiết cho sản xuất và phát triển của đất nước mình.
Thông thường, các nước xuất khẩu lao động đều là những quốc gia kém hoặc đang phát triển, dân số đông, thiếu việc làm ở trong nước hoặc có thu nhập thấp, không đủ để đảm bảo cho cuộc sống gia đình và cho chính người lao động. Nhằm khắc phục tình trạng khó khăn này, buộc các nước trên phải tìm kiếm việc làm cho người lao động của nước mình từ bên ngoài. Trong khi đó, ở những nước có nền kinh tế phát triển thường lại có ít dân, thậm chí có những nước đông dân nhưng vẫn không đủ nhân lực để đáp ứng nhu cầu sản xuất do nhiều nguyên nhân: Công việc nặng nhọc, nguy hiểm và độc hại,... nên không thu hút được lao động nội địa, dẫn tới thiếu hụt lao động. Để có thể duy trì và phát triển sản xuất, bắt buộc các nước này phải thuê lao động từ các nước kém phát triển hơn, có nhiều lao động dồi dào và đang có khả năng cung ứng lao động làm thuê. Thu nhập ở các nước phát triển cao hơn hẳn so với các nước đang phát triển nên càng hấp dẫn lao động xuất khẩu. Lao động xuất khẩu di chuyển từ nơi có thu nhập thấp tới nơi có thu nhập cao hơn.
Theo mô hình “Lực đẩy – lực hút” của Ravenstien (1876), các yếu tố tại nước xuất cư như thất nghiệp, nghèo đói, thu nhập thấp, kinh tế kém phát triển, điều kiện sống và làm việc không đảm bảo, cuộc sống bấp bênh,... gọi là yếu tố lực đẩy. Các yếu tố tại nước nhập cư như cơ hội việc làm cao, cơ hội thăng tiến tốt, thu nhập cao, điều kiện sống và làm việc đảm bảo,... được gọi là yếu tố lực hút. Ravenstien cho rằng, chính các yếu tố lực hút là nguyên nhân chính quan trọng quyết định việc di cư của người lao động khi ông nghiên cứu việc di cư từ Ailen tới Anh làm việc từ đầu thế kỷ thứ XIX. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này vẫn còn nguyên giá trị khi xem xét các nguyên nhân của XKLĐ trong điều kiện hội nhập kinh tế như hiện nay, khi nhu cầu tiếp nhận lao động nước ngoài cao, thu nhập và điều kiện sống và làm việc của người lao động nhập cư được đảm bảo là yếu tố lực hút, điều kiện quyết định tới việc xuất cư của người lao động.
Vậy là đã xuất hiện nhu cầu trao đổi giữa một bên là những quốc gia có nguồn lao động dôi dư với một bên là các nước có nhiều việc làm nhưng thiếu số lượng lao động để sản xuất. Do đó vô hình chung đã làm xuất hiện Cung – Cầu: Cung, đại diện cho bên có nguồn lao động dồi dào, còn Cầu đại diện cho bên các nước có nhiều việc làm, đi thuê lao động. Điều này cũng đồng nghĩa với việc đã hình thành nên một loại thị trường, đó là thị trường hàng hóa lao động quốc tế.
Khi lao động được hai bên mang ra thỏa thuận, trao đổi, thuê mướn, lúc này sức lao động trở thành một loại hàng hóa như những loại hàng hóa hữu hình bình thường khác. Như vậy, sức lao động cũng là một loại hàng hóa khi nó được đem ra trao đổi, mua bán, thuê mướn và khi đã là một loại hàng hóa sức lao động thì phải tuân theo những quy luật khách quan của thị trường: Quy luật Cung – Cầu, quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh... như những loại hàng hóa hữu hình khác.
Như vậy, để có thể hình thành thị trường lao động xuất khẩu trước hết phải xuất phát từ những nhu cầu trao đổi hoặc thuê mướn lao động giữa bên cho thuê lao động và bên đi thuê lao động. Thực chất, khi xuất hiện nhu cầu trao đổi, thuê mướn lao động giữa quốc gia này với quốc gia khác, là đã hình thành nên hai yếu tố cơ bản của thị trường, đó là cung và cầu về lao động. Như vậy, là thị trường hàng hóa sức lao động quốc tế đã được hình thành từ đây.
Trong điều kiện hội nhập phát triển đời sống kinh tế như hiện nay, quan hệ cung – cầu không còn bị bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, biên giới của một nước chỉ còn ý nghĩa hành chính, còn quan hệ này ngày càng diễn ra trên phạm vi quốc tế, mà trong đó bên Cung đóng vai trò là bên xuất khẩu và Cầu là đại diện cho bên nhập khẩu lao động.
Hình 1.1 Biểu đồ cung cầu lao động
P
P
Mô hình XKLĐ:
Nguồn: Tác giả vẽ lại từ lý thuyết Di chuyển lao động quốc tế (Từ Thúy Anh, 2013)
Một quốc gia có nguồn lao động khan hiếm có thể nhập khẩu hàng hóa thâm dụng lao động hoặc có thể tuyển dụng lao động t