Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mọi hoạt động sản xuất và tiêu
dùng đều theo kế hoạch chủ quan của Nhà nước. Vì thế cạnh tranh - động lực
cho sự cải tiến, đổi mới và phát triển - đều bị triệt tiêu. Cũng chính vì không có
cạnh tranh nên các nhà sản xuất và kinh doanh cũng không có nhu cầu giới thiệ u
về hàng hóa, dịch vụ của mình. Vì vậy ở Việt Nam trước năm 1986, hoạt động
quảng cáo hầu như chưa phát triển và cũng không tồn tại các văn bản pháp luật
điều chỉnh vấn đề này.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã đánh dấu một bước chuyển
quan trọng của nền kinh tế Việt Nam từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị
trường. Sự đổi m ới này đã tạo đà cho nền kinh tế nước ta đạt sự tăng trưởng
vững chắc trong thời gian qua. Cùng với sự phát triển của hoạt động sản xuất,
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ nói chung thì một hoạt động kinh doanh mới cũng
ra đời: dịch vụ quảng cáo. Khi nền kinh tế càng phát triển thì quảng cáo ngày
càng đóng một vai trò quan trọng và ngày nay có thể nói con người đang phải
“sống chung với quảng cáo”. Với tư cách là một loại hình kinh doanh đặc biệt,
có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống con người, dịch vụ này đòi hỏi phải có hệ
thống văn bản pháp luật riêng điều chỉnh. Tuy nhiên do những yếu tố chủ quan
cũng như khách quan mà pháp luật điều chỉnh về hoạt động quảng cáo tại Việt
Nam còn nhiều bất cập. Chính điều đó đã dẫn đến tình trạng hoạt động quảng
cáo trong thời gian qua còn nhiều lộn xộn.
Với mong muốn tìm hiểu về pháp luật quảng cáo của Việt Nam và đề xuất
một số giải pháp để tạo một môi trường pháp lý thông thoáng, minh bạch và rõ
ràng cho hoạt động này phát triển, em đã chọn đề tài Pháp luật về quảng cáo
2
của Việt Nam - Một số bất cập và giải pháp là m đề tài nghiên cứu cho luận vă n
tốt nghiệp của mình.
109 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2118 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Pháp luật về quảng cáo của Việt Nam một số bất cập và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO CỦA VIỆT NAM
MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP
Sinh viên thực hiện : Vũ Quỳnh Ngọc
Lớp :
Khóa : 41 A
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Trung Văn
Hà Nội, 11/2006
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mọi hoạt động sản xuất và tiêu
dùng đều theo kế hoạch chủ quan của Nhà nước. Vì thế cạnh tranh - động lực
cho sự cải tiến, đổi mới và phát triển - đều bị triệt tiêu. Cũng chính vì không có
cạnh tranh nên các nhà sản xuất và kinh doanh cũng không có nhu cầu giới thiệu
về hàng hóa, dịch vụ của mình. Vì vậy ở Việt Nam trước năm 1986, hoạt động
quảng cáo hầu như chưa phát triển và cũng không tồn tại các văn bản pháp luật
điều chỉnh vấn đề này.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã đánh dấu một bước chuyển
quan trọng của nền kinh tế Việt Nam từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị
trường. Sự đổi mới này đã tạo đà cho nền kinh tế nước ta đạt sự tăng trưởng
vững chắc trong thời gian qua. Cùng với sự phát triển của hoạt động sản xuất,
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ nói chung thì một hoạt động kinh doanh mới cũng
ra đời: dịch vụ quảng cáo. Khi nền kinh tế càng phát triển thì quảng cáo ngày
càng đóng một vai trò quan trọng và ngày nay có thể nói con người đang phải
“sống chung với quảng cáo”. Với tư cách là một loại hình kinh doanh đặc biệt,
có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống con người, dịch vụ này đòi hỏi phải có hệ
thống văn bản pháp luật riêng điều chỉnh. Tuy nhiên do những yếu tố chủ quan
cũng như khách quan mà pháp luật điều chỉnh về hoạt động quảng cáo tại Việt
Nam còn nhiều bất cập. Chính điều đó đã dẫn đến tình trạng hoạt động quảng
cáo trong thời gian qua còn nhiều lộn xộn.
Với mong muốn tìm hiểu về pháp luật quảng cáo của Việt Nam và đề xuất
một số giải pháp để tạo một môi trường pháp lý thông thoáng, minh bạch và rõ
ràng cho hoạt động này phát triển, em đã chọn đề tài Pháp luật về quảng cáo
2
của Việt Nam - Một số bất cập và giải pháp làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm những mục đích sau:
1. Tìm hiểu những vấn đề lý luận chung về quảng cáo và pháp luật quảng
cáo.
2. Tìm hiểu thực trạng về hoạt động quảng cáo tại Việt Nam thời gian qua.
3. Nghiên cứu những quy định của Việt Nam về quảng cáo, đồng thời có so
sánh với quy định của một số nước phát triển.
4. Đề xuất một số giải pháp để góp phần hoàn thiện hơn các quy định của
pháp luật về hoạt động này, tạo điều kiện cho hoạt động quảng cáo phát
triển lành mạnh.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Hoạt động quảng cáo có thể được xem xét dưới nhiều góc độ: là một loại
hình dịch vụ dưới góc độ của nhà kinh doanh hay là một tác phẩm nghệ thuật
dưới góc độ của một nhà thiết kế quảng cáo. Đề tài này nghiên cứu hoạt động
quảng cáo với tư cách là một hành vi thương mại chịu sự điều chỉnh của các văn
bản pháp luật, tuy nhiên dưới góc độ của một thương nhân chứ không phải của
một nhà làm luật. Vì thế, đề tài tập trung vào tìm hiểu khái quát thực trạng hoạt
động quảng cáo ở Việt Nam thời gian qua cũng như phân tích, đánh giá các văn
bản pháp luật điều chỉnh hoạt động này như Luật thương mại 2005, Pháp lệnh
quảng cáo 2001 và các văn bản có liên quan với mục đích đưa ra một số giải
pháp nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động quảng cáo ở nước ta phát
triển lành mạnh.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như:
3
- Tư duy trừu tượng
- Thu thập, tổng hợp, đánh giá và phân tích tài liệu
- Phân tích thống kê
Bên cạnh đó, để có thể đánh giá một cách cụ thể, khách quan đối tượng
nghiên cứu, đề tài còn sử dụng các phương pháp hiện đại như:
- Quan sát
- So sánh
5. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được chia thành 3 chương chính với nội dung như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về quảng cáo và pháp luật
quảng cáo
- Chương 2: Đánh giá thực trạng những bất cập về pháp luật quảng cáo
của Việt Nam trong thời gian qua
- Chương 3: Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về quảng cáo của
Việt Nam trong thời gian tới
Đây là một trong những đề tài nghiên cứu còn tương đối mới mẻ tại Việt
Nam nên trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót. Vì thế em
mong nhận được sự đánh giá, góp ý của các thầy cô và các bạn nhằm hoàn thiện
hơn đề tài này.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Trung Vãn đã
tận tình hướng dẫn em trong thời gian hoàn thiện đề tài. Em cũng xin trân trọng
cảm ơn các thầy cô giáo, gia đình và các bạn đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài
này.
4
CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢNG CÁO
VÀ PHÁP LUẬT QUẢNG CÁO
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUẢNG CÁO
1. Khái niệm quảng cáo và các phƣơng tiện quảng cáo
1.1. Khái niệm quảng cáo
Trong thời đại bùng nổ thông tin với rất nhiều phương tiện truyền thông
như ngày nay, con người đang thực sự phải sống chung với quảng cáo. Hàng
ngày mỗi chúng ta đều tiếp nhận rất nhiều thông tin quảng cáo từ các nguồn khác
nhau. Vậy có phải quảng cáo là một sự truyền tin? Đúng thế. Nhưng không phải
bất kỳ một sự truyền tin nào cũng có thể coi là quảng cáo. Một thông báo của
chính phủ hay của một tổ chức xã hội nào đó thì không thể coi là quảng cáo
được. Người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thông qua quảng cáo để giới thiệu về
sản phẩm của mình, thuyết phục người tiêu dùng mua sản phẩm đó. Nhưng liệu
họ có cam kết chắc chắn với khách hàng sẽ cung cấp sản phẩm đó khi khách
hàng có nhu cầu mua? Điều đó cũng không. Khi tiến hành một chương trình
quảng cáo cho sản phẩm của mình, các doanh nghiệp đều hướng tới một nhóm
khách hàng tiềm năng nào đó, nhưng rõ ràng đối tượng tiếp nhận quảng cáo có
thể là bất kỳ ai chứ không phải là một hay một số người cụ thể nào.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, quảng cáo cũng ngày
càng phát triển và khái niệm quảng cáo cũng mở rộng. Quảng cáo là một hoạt
động kinh tế nhưng cũng đồng thời là một hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Mỗi
hình ảnh quảng cáo là một tác phẩm hội họa, mỗi sản phẩm quảng cáo trên
truyền hình là một đoạn phim ngắn. Quảng cáo đã sáng tạo ra thứ ngôn ngữ riêng
của nó, cô đọng nhưng nói được nhiều nhất [17].
5
Vậy quảng cáo là gì? Dưới những góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta
đưa ra những khái niệm quảng cáo khác nhau.
Theo Từ điển quảng cáo thì “ Quảng cáo là một loại thông tin phải trả
tiền, có tính đơn phương, không dành cho ai, có vận dụng mọi biện pháp và
phương tiện thông tin đại chúng nhằm hỗ trợ cho một sản phẩm, một nhãn hiệu,
một xí nghiệp, một mục đích hoặc một tổ chức nào đó… được nêu danh trong
quảng cáo” [27].
Theo Hiệp hội Quảng cáo Hoa Kỳ (AAA), “Quảng cáo là hoạt động truyền
bá thông tin, trong đó nói rõ ý đồ của chủ quảng cáo, tuyên truyền hàng hóa, dịch
vụ của chủ quảng cáo, trên cơ sở có thu phí quảng cáo, không trực tiếp nhằm
công kích người khác”.
Còn Armand Dayan, tác giả cuốn Nghệ thuật quảng cáo lại có cách nhìn
nhận riêng của mình. Theo ông, “Quảng cáo là một phương thức tuyên truyền,
thông qua những phương tiện trung gian nhất định để truyền đạt một cách có kế
hoạch đến mọi người về chất lượng của hàng hóa và tính hữu dụng của loại hàng
hóa đó nhằm mở rộng tiêu thụ, bán hàng, tạo dư luận”.
Tóm lại, khó có thể liệt kê hết các khái niệm về quảng cáo, nhưng nhìn
chung qua các khái niệm đó người ta đều thấy quảng cáo có những đặc điểm
chung sau đây:
Thứ nhất, quảng cáo là thông tin hướng tới khách hàng và thường nhằm
mục tiêu lợi nhuận. Các doanh nghiệp thông qua quảng cáo để giới thiệu về sản
phẩm, dịch vụ của mình với khách hàng. Mục tiêu của họ không gì hơn là để đẩy
mạnh việc tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, tức là nhằm tăng lợi nhuận. Chúng ta vẫn
thường bắt gặp các loại quảng cáo có thể không nhằm mục tiêu lợi nhuận như
thông báo, rao vặt. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, loại thông tin phục
vụ cho mục tiêu lợi nhuận phổ biến và thường xuyên hơn rất nhiều.
6
Thứ hai, quảng cáo không dành riêng cho một cá nhân cụ thể nào. Các
doanh nghiệp quảng cáo luôn muốn có thật nhiều người chú ý đến sản phẩm
quảng cáo của mình. Một sản phẩm khó có thể phù hợp với tất cả người tiêu
dùng, vì thế một sản phẩm quảng cáo cũng thường chỉ hướng tới những khách
hàng tiềm năng của đối tượng mà nó đang quảng cáo. Tuy nhiên, rõ ràng quảng
cáo không được gửi tới một cá nhân cụ thể nào. Đây là điểm phân biệt quảng cáo
với chào hàng vì khi một thương nhân đưa ra một chào hàng thì anh ta bị ràng
buộc đối với những cam kết mình đưa ra trong thời hạn hiệu lực của chào hàng.
Thứ ba, quảng cáo phải qua phương tiện trung gian. Đặc điểm này được
coi là một thế mạnh rất lớn của quảng cáo. Quảng cáo có thể được tiến hành với
nhiều hình thức, qua nhiều phương tiện khác nhau, nhờ đó có thể tạo được sự tác
động sâu rộng tới nhiều đối tượng. Với cách tiếp cận khách hàng vô cùng phong
phú, quảng cáo mang lại hiệu quả rất lớn.
1.2. Các phƣơng tiện quảng cáo
Các sản phẩm quảng cáo muốn tiếp cận được với khách hàng phải qua một
phương tiện trung gian nhất định. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ
và sự bùng nổ của ngành công nghiệp quảng cáo, ngày càng có nhiều loại
phương tiện quảng cáo mới ra đời, tiếp cận tới mọi ngóc ngách của cuộc sống
con người. Đó chính là lý do mà ngày nay chúng ta phải “sống chung với quảng
cáo”. Tuy đa dạng và rất phong phú nhưng các phương tiện quảng cáo nhìn
chung bao gồm những loại sau:
1.2.1. Quảng cáo qua truyền hình
Không ở đâu lại thể hiện một sự hội tụ lớn như ở truyền hình. Với sự hợp
nhất của các hãng truyền hình, sự kết hợp của công nghệ và việc hợp tác cùng
sản xuất các chương trình, truyền hình đã trở thành một phương tiện thông tin
quảng cáo rất phổ biến.
7
Truyền hình có những ưu điểm lớn mà không một phương tiện thông tin
đại chúng nào có được. Thứ nhất đó là sự phổ biến. Truyền hình có thể tiếp cận
được với một số lượng rất đông đảo công chúng. Theo Otto Kleppner trong
Kleppner’s Avertising Procedure, hơn 98% hộ gia đình ở Mỹ có ít nhất một tivi
và trung bình một gia đình xem truyền hình hơn 7 giờ một ngày. Đặc biệt truyền
hình rất phổ biến với những người độ tuổi từ 18 đến 34, những đối tượng được
hướng tới trước tiên của các nhà quảng cáo. Mặc dù hiện nay số người xem
truyền hình đã giảm đáng kể do sự xuất hiện của nhiều phương tiện thông tin và
giải trí khác, nhưng truyền hình vẫn là lựa chọn số một của các nhà quảng cáo
khi cần tiếp cận với đại đa số công chúng. Một ưu điểm lớn nữa của truyền hình
là có thể đưa ra các thông điệp quảng cáo kết hợp được cả màu sắc, âm thanh và
hành động, nhờ đó các thông điệp quảng cáo trên truyền hình có sự sáng tạo và
sống động. Quảng cáo trên truyền hình có thể mang giọng điệu hài hước, nghiêm
túc hay giật gân. Truyền hình cũng có thể cung cấp các dạng quảng cáo ngắn chỉ
10 giây hay một chương trình dài tới 30 phút. Ngoài ra, một chương trình truyền
hình có thể được phát đi phát lại nhiều lần ở các kênh khác nhau, do đó sử dụng
phương tiện truyền hình, các nhà quảng cáo có thể tiếp cận được với nhiều loại
đối tượng khán giả.
Tuy nhiên, quảng cáo qua truyền hình cũng có những nhược điểm nhất
định. Thứ nhất các thông điệp quảng cáo trên truyền hình rất nhanh chóng bị
quên nếu không được nhắc lại. Trong khi đó đơn giá quảng cáo trên truyền hình
khá cao nên việc quảng cáo nhắc đi nhắc lại này tương đối tốn kém đối với các
doanh nghiệp. Đơn giá cho một chương trình quảng cáo khoảng mấy chục giây
trên Đài truyền hình Việt Nam lên tới vài triệu đồng, đối với các chương trình
được nhiều khán giả theo dõi như phim truyện hay giải trí có thể đến vài chục
triệu đồng. Do đó những doanh nghiệp nhỏ khó có thể chịu được mức phí cao
8
như vậy. Bên cạnh đó, việc xen quá nhiều quảng cáo vào các chương trình truyền
hình như hiện nay có thể gây phản tác dụng đối với người xem. Khi đến chương
trình quảng cáo, họ có thể tắt ti vi đi hoặc chuyển sang một kênh khác. Một
nhược điểm nữa là khán giả xem truyền hình hầu hết thuộc phân đoạn những
người tiêu dùng có thu nhập thấp. Khi thu nhập tăng lên thì thời gian xem truyền
hình hàng ngày của họ có xu hướng giảm đi.
1.2.2. Quảng cáo qua rađiô
Rađiô là một phương tiện thích hợp cho thị trường của các nước đang phát
triển. Với rất nhiều dạng chương trình và hàng loạt các đài phát sóng, thậm chí
chỉ ở trong một thành phố nhỏ, các nhà quảng cáo có nhiều lựa chọn để tiếp cận
với những phân đoạn thị trường rất đa dạng đã được xác định. Nhìn chung, rađiô
cũng là một trong những phương tiện truyền thông khá phổ biến.
Theo Cục Marketing qua Rađiô của Hoa Kỳ thì rađiô có những ưu điểm
mà nhiều phương tiện khác truyền thông khác không có. Một trong những điểm
mạnh nhất của rađiô là nó có thể truyền quảng cáo tới một nhóm nhỏ người nghe
đã được xác định. Chúng ta có thể dễ dàng tìm được một chương trình phát sóng
nào đó đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu, sở thích của một phân đoạn thị trường đã
được lựa chọn. Một điểm nữa là quảng cáo qua rađiô có thể tác động mạnh tới
người tiêu dùng vào thời điểm họ đang đi tới quyết định mua hàng. Rađiô cũng
có thể kết hợp hiệu quả với các phương tiện khác như một phương tiện thứ cấp.
Ví dụ, những người ít xem ti vi thường dành thời gian để nghe rađiô nhiều gấp
hai lần thời gian họ xem ti vi. Đặc biệt, thanh thiếu niên nghe rađiô khá nhiều.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng thanh thiếu niên thường đặc biệt trung thành với một
số đài phát thanh nào đó. Do đó, các nhà quảng cáo có thể tiếp cận tới một số
lượng đông đảo tầng lớp trẻ thông qua một vài chương trình dành cho thanh
thiếu niên được yêu thích. Ngoài ra, khi các nhà quảng cáo ngày càng chú ý đến
9
tính hiệu quả về chi phí thì rađiô càng phát huy những ưu điểm của nó. Trừ
phương tiện quảng cáo ngoài trời thì chi phí quảng cáo trên số lượng khách hàng
có thể tiếp cận được của rađiô rẻ hơn bất kỳ một phương tiện nào khác. Thêm
vào đó, quảng cáo qua rađiô có khả năng phản ứng nhanh nhạy với những thay
đổi của điều kiện thị trường. Đó là nhờ quá trình sản xuất ra một sản phẩm quảng
cáo trên rađiô tương đối ngắn, do đó rađiô là phương tiện hiệu quả cho các doanh
nghiệp nắm bắt những cơ hội thị trường chớp nhoáng.
Cũng giống như các phương tiện quảng cáo khác, rađiô cũng có những
điểm yếu mà các nhà quảng cáo phải xem xét khi đưa ra quyết định lựa chọn
phương tiện cho kế hoạch quảng cáo của mình. Thứ nhất, đó là sự chia nhỏ đối
tượng khách hàng. Chính sự phân đoạn người nghe của các chương trình phát
thanh đôi khi dẫn tới việc chia thị trường thành những đoạn quá nhỏ. Đối với
những nhóm sản phẩm mà có thị trường tiềm năng rộng thì khó mà đạt được sự
hiệu quả trừ khi là phải phát quảng cáo trên một vài đài phát sóng có uy tín lớn.
Bên cạnh đó, cũng giống như truyền hình, việc tăng thời lượng cũng như số
lượng của các chương trình quảng cáo trên rađiô đã gây ra phản tác dụng đối với
người nghe đài. Một nhược điểm rất lớn nữa của rađiô là thiếu yếu tố hình ảnh.
Nhược điểm này đặc biệt gây khó khăn cho các nhà quảng cáo khi muốn quảng
bá cho hình ảnh của một nhãn hiệu và xây dựng sự nhận thức của người tiêu
dùng đối với sản phẩm.
1.2.3. Quảng cáo trên báo chí
Báo chí chỉ đứng sau truyền hình xét về phương diện doanh thu quảng
cáo. Báo chí có nhiều loại: báo quốc gia, báo địa phương, báo chuyên ngành.
Mỗi loại đều thu hút được đối tượng người đọc phù hợp.
Quảng cáo trên báo mang lại rất nhiều ưu điểm cho doanh nghiệp, từ các
tập đoàn lớn cho đến những người bán hàng nhỏ. Các dạng quảng cáo trên báo
10
rất đa dạng. Nhà quảng cáo mua không gian trên báo rộng hẹp tùy theo yêu cầu
của mình, có thể là nguyên một trang hay chỉ là một thông báo nhỏ ở một góc
báo. Báo chí đặc biệt hữu ích trong việc tiếp cận với những người đọc thuộc tầng
lớp cao, đặc biệt là những người từ 35 tuổi trở lên. Với các hình thức như tặng
phiếu dự thưởng hay phiếu nhận xét thì việc đánh giá tỷ lệ trả lời lại của người
tiêu dùng qua báo cũng dễ hơn qua các phương tiện thông tin khác. Cuối cùng,
báo chí tạo ra sự tin tưởng và gần gũi đối với người tiêu dùng mà không một loại
phương tiện nào có thể sánh được. Một số cuộc điều tra đã cho thấy người tiêu
dùng coi quảng cáo trên báo là một nguồn thông tin quan trọng và đáng tin cậy.
Mặc dù vậy, quảng cáo trên báo chí cũng có nhiều bất lợi riêng. Hình ảnh
quảng cáo trên báo không được sinh động như trên truyền hình. Và các báo ngày
càng tăng số trang quảng cáo cũng đồng nghĩa với việc có rất nhiều mục quảng
cáo trên báo bị người đọc bỏ qua không xem tới. Ngày nay, với sự phổ biến của
mạng Internet thì văn hóa đọc cũng có nhiều thay đổi. Người ta ngày càng ít
dành thời gian đọc báo, đặc biệt là giới trẻ. Điểm nữa là chi phí quảng cáo trên
báo cũng tăng mạnh trong những năm qua làm cho hiệu quả của quảng cáo về
mặt chi phí bị giảm đi.
1.2.4. Quảng cáo trên tạp chí
Thời đại của tạp chí xuất bản hàng loạt cho tất cả mọi người đã qua. Ngày
nay những tạp chí thành công là những tạp chí phù hợp với một loại đối tượng
người đọc nào đó, đặc biệt là những người có giá trị đối với các nhà quảng cáo.
Ưu điểm trước hết của tạp chí là các tạp chí chuyên ngành cho phép nhà
quảng cáo có thể tiếp cận với một phân đoạn thị trường phù hợp đã được xác
định. Không giống các thông điệp quảng cáo được phát sóng dễ bị lãng quên hay
các báo ngày, tạp chí thường được giữ và tham khảo đến trong một thời gian dài,
thậm chí còn được độc giả truyền tay nhau. Theo MRI, một hãng nghiên cứu về
11
tạp chí hàng đầu thì trung bình một tờ tạp chí có 4 người đọc. Tạp chí đặc biệt
thích hợp với các bài quảng cáo dài, vì thế quảng cáo xe ô tô, thiết bị và các dịch
vụ tài chính thường được đăng trên tạp chí. Khác với nhiều phương tiện quảng
cáo khác, tạp chí có sự tham gia ở mức độ cao của người đọc. Tạp chí thường
được nhiều độc giả coi như là nơi chia sẻ ý kiến và thông tin về những chủ đề
như ô tô, thời trang hay sức khỏe. Chính sự liên kết giữa độc giả và tạp chí đã
đưa tới sự liên kết giữa người đọc và nhà quảng cáo.
Tuy nhiên tạp chí nói chung là phương tiện quảng cáo đắt nhất nếu tính về
chi phí quảng cáo trên số lượng khách hàng có thể tiếp cận được [28]. Một vấn
đề nữa là vì tạp chí thường chỉ dành cho một số người đọc nhất định nên nhà
quảng cáo phải sử dụng một vài tạp chí để có thể tiếp cận được tất cả khách hàng
mục tiêu của mình. Điều đó có thể dẫn tới sự trùng lặp phân đoạn người đọc, và
làm tăng thêm chi phí quảng cáo trên đầu người. Ngoài ra, do quá trình xuất bản
kéo dài mà hầu hết các quảng cáo trên tạp chí phải được chuẩn bị kỹ trước khi
xuất bản. Vì thế, tạp chí không linh hoạt như rađiô và báo ngày khi các điều kiện
thị trường thay đổi. Và cũng giống như các phương tiện quảng cáo khác, việc
ngày càng có quá nhiều nội dung quảng cáo trên tạp chí khiến cho người đọc
thường lướt qua các nội dung này.
1.2.5. Quảng cáo ngoài trời
Quảng cáo ngoài trời, với màu sắc rực rỡ, khẩu hiệu gây ấn tượng và kích
thước lớn, đang ngày càng trở thành một phương tiện được chú ý. Đặc biệt là
ngày nay khi con người phải thường xuyên di chuyển thì quảng cáo ngoài trời
càng phát huy tác dụng.
Không có một phương tiện quảng cáo nào rẻ như quảng cáo ngoài trời nếu
tính về chi phí quảng cáo trên số lượng khách hàng có thể tiếp cận được. Nhờ
mức chi phí hợp lý mà quảng cáo ngoài trời là một phương tiện lý tưởng để lấp
12
đầy chỗ trống của những phân đoạn thị trường bị bỏ qua hoặc những phân đoạn
mà các phương tiện khác chưa khai thác đầy đủ. Mặc dù thị trường ngày nay
được phân nhỏ nhưng vẫn có những loại hàng hóa hoặc những s