Thuật ngữ “công nghiệp phụ trợ” mặc dù xuất hiện khá lâu tại các quốc
gia khác nhưng tại Việt Nam, thuật ngữ này chỉ trở nên phổ biến kể từ năm
2003, khi Chính phủ chỉ đạo các công đoạn chuẩn bị để tiến tới ký kết “Sáng
kiến chung Việt Nam – Nhật Bản nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh
và tăng cường khả năng cạnh tranh của Việt Nam. Trong đó, hạng mục đầu tiên
là nhằm phát triển CNPT ở Việt Nam. Với sự kiện này, CNPT bước đầu đã đạt
được một số thành tựu nhất định.
Mặt khác, trong xu thế tự do hóa thương mại và đầu tư hiện nay, tỷ lệ nội
địa hóa 100% đã trở nên không thích hợp nữa và chính sách này đang dần được
bãi bỏ trước sức ép của toàn cầu hóa. Không một quốc gia nào có thể sản xuất
hoàn toàn trong nước theo kiểu kết hợp chiều dọc như một nền kinh tế đóng. Để
tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh toàn cầu, ngành công nghiệp của Việt
Nam cần phải kết hợp các đầu vào tốt nhất từ khắp nơi trên thế giới. Nhưng câu
hỏi then chốt là làm thế nào để để đạt được tỷ lệ nội địa hóa tối ưu – nên nội địa
hóa bộ phận nào và nên nhập khẩu bộ phận nào? Hay nói khác đi, ngành CNPT
nên được phát triển theo hướng nào để có thể tận dụng được tất cả những lợ i thế
so sánh của Việt Nam và mang lại hiệu quả cao nhất của ngành này?
Câu hỏi này có mối quan hệ chặt chẽ với hành vi mua sắm của các doanh
nghiệp FDI. Ngành CNPT được coi là phát triển khi nó có thể đáp ứng được
những yêu cầu khắt khe của các doanh nghiệp FDI này. Hơn nữa, khi xem xét
trên quan điểm “động cơ nội địa hóa” của các doanh nghiệp FDI thì các doanh
nghiệp này đều thể hiện mong muốn có thể thu mua các linh – phụ kiện nội địa
nhằm giảm chi phí sản xuất, chi phí hậu cần, từ đó giảm giá thành sản phẩm,
nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm. Do vậy, phát triển CNPT nhằm đáp ứng
nhu cầu doanh nghiệp lắp ráp, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI, từ đó tăng
cường thu hút FDI là một hướng đi đúng đắn. Xuất phát từ những lí do trên, em
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp
5
đã chọn đề tài “Phát triển Công nghiệp phụ trợ nhằm tăng cƣờng thu hút
vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam” làm nội dung nghiên cứu cho
khóa luận tốt nghiệp của mình.
113 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1894 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phát triển công nghiệp phụ trợ nhằm tăng cờng thu hút đầu tư trực tiếp nớc ngoài vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp
TRỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
-------***-------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ NHẰM
TĂNG CỜNG THU HÚT ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NỚC
NGOÀI VÀO VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Phương Thảo
Lớp : Anh 12
Khóa : 43C - KT&KDQT
Giáo viên hƣớng dẫn : ThS. Trần Thị Ngọc Quyên
Hà Nội – 06/2008
1
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp
Danh mục các chữ viết tắt
Chữ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN
ASEAN Association of Southeast Hiệp hội các quốc gia
Asian Nations Đông Nam Á
FDI Foreign direct investment Đầu tư trực tiếp nước
ngoài
MNC Multinational Coporation Công ty đa quốc gia
SMEs Small and medium-sized Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Enterprises
CNH-HĐH Công nghiệp hóa – Hiện
đại hóa
CNPT Công nghiệp phụ trợ
DN Doanh nghiệp
ĐTNN Đầu tư nước ngoài
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
VN Việt Nam
2
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp
Danh mục bảng biểu
Bảng 1: 20 mặt hàng có kim ngạch xuất – nhập khẩu nhiều nhất của ASEAN
....................................................................................................... 13
Bảng 2: Cơ cấu mua sắm các linh phụ kiện của các nhà lắp ráp xe máy Nhật
Bản (tính đến năm 2007) ............................................................... 46
Bảng 3: Số lượng các doanh nghiệp thuộc ngành dệt và may mặc phân loại theo
loại hình sở hữu. ................................................................................. 69
Bảng 4: Đặc thù của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam ........................ 69
Bảng 5: Tình hình phát triển của ngành xe máy .......................................... 71
Bảng 6: Tình hình sản xuất và thực hiện nội địa hóa của Honda VN .......... 72
Bảng 7: Thị phần các nhà lắp ráp xe máy .................................................... 73
Bảng 8: Danh sách các doanh nghiệp liên doanh sản xuất FDI ........................ 74
Bảng 9: Tổng giá trị sản xuất các sản phẩm điện, điện tử của một số nền kinh tế
82
3
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp
Lời mở đầu
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Thuật ngữ “công nghiệp phụ trợ” mặc dù xuất hiện khá lâu tại các quốc
gia khác nhưng tại Việt Nam, thuật ngữ này chỉ trở nên phổ biến kể từ năm
2003, khi Chính phủ chỉ đạo các công đoạn chuẩn bị để tiến tới ký kết “Sáng
kiến chung Việt Nam – Nhật Bản nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh
và tăng cường khả năng cạnh tranh của Việt Nam. Trong đó, hạng mục đầu tiên
là nhằm phát triển CNPT ở Việt Nam. Với sự kiện này, CNPT bước đầu đã đạt
được một số thành tựu nhất định.
Mặt khác, trong xu thế tự do hóa thương mại và đầu tư hiện nay, tỷ lệ nội
địa hóa 100% đã trở nên không thích hợp nữa và chính sách này đang dần được
bãi bỏ trước sức ép của toàn cầu hóa. Không một quốc gia nào có thể sản xuất
hoàn toàn trong nước theo kiểu kết hợp chiều dọc như một nền kinh tế đóng. Để
tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh toàn cầu, ngành công nghiệp của Việt
Nam cần phải kết hợp các đầu vào tốt nhất từ khắp nơi trên thế giới. Nhưng câu
hỏi then chốt là làm thế nào để để đạt được tỷ lệ nội địa hóa tối ưu – nên nội địa
hóa bộ phận nào và nên nhập khẩu bộ phận nào? Hay nói khác đi, ngành CNPT
nên được phát triển theo hướng nào để có thể tận dụng được tất cả những lợi thế
so sánh của Việt Nam và mang lại hiệu quả cao nhất của ngành này?
Câu hỏi này có mối quan hệ chặt chẽ với hành vi mua sắm của các doanh
nghiệp FDI. Ngành CNPT được coi là phát triển khi nó có thể đáp ứng được
những yêu cầu khắt khe của các doanh nghiệp FDI này. Hơn nữa, khi xem xét
trên quan điểm “động cơ nội địa hóa” của các doanh nghiệp FDI thì các doanh
nghiệp này đều thể hiện mong muốn có thể thu mua các linh – phụ kiện nội địa
nhằm giảm chi phí sản xuất, chi phí hậu cần, từ đó giảm giá thành sản phẩm,
nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm. Do vậy, phát triển CNPT nhằm đáp ứng
nhu cầu doanh nghiệp lắp ráp, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI, từ đó tăng
cường thu hút FDI là một hướng đi đúng đắn. Xuất phát từ những lí do trên, em
4
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp
đã chọn đề tài “Phát triển Công nghiệp phụ trợ nhằm tăng cƣờng thu hút
vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam” làm nội dung nghiên cứu cho
khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của nghiên cứu của khóa luận:
Mục tiêu của khóa luận là chỉ ra con đường nào và đề xuất các giải pháp
phát triển CNPT nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam. Để thực hiện được mục tiêu trên, khóa luận cần phải thực hiện các nhiệm
vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về ngành CNPT ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng phát triển CNPT và khả năng đáp ứng nhu cầu về
sản phẩm phụ trợ đối với các doanh nghiệp FDI của Việt Nam trong
thời gian vừa qua.
- Trên cơ sở những phân tích trên, đề xuất một số giải pháp phát triển
CNPT từ đó tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Ngành CNPT ở Việt Nam trong mối liên hệ với
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu ngành CNPT từ những
năm 1990, khi CNPT bắt đầu trở nên phổ biến tại các nước Đông Á.
+ Về không gian: Ngành CNPT ở Việt Nam., cụ thể là ngành sản xuất ô
tô, ngành xe máy, ngành điện – điện tử, và ngành dệt may.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để làm rõ những nội dung cơ bản đã đặt ra của khóa luận, trong quá trình
nghiên cứu, tác giả đã sử dụng một số phương pháp: kết hợp điều tra, thống kê,
tổng hợp, so sánh, và dự báo trong quá trình nghiên cứu.
5
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp
5. Bố cục luận văn:
Luận văn được cấu trúc thành 3 chương với phần mở đầu, kết luận, danh
mục bảng biểu, chữ viết tắt, tài liệu tham khảo và mục lục.
Chương I: Tổng quan về ngành CNPT và đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương II: Thực trạng phát triển ngành CNPT nhằm tăng cường thu
hút FDI tại Việt Nam
Chương III: Giải pháp phát triển ngành CNPT nhằm thu hút FDI tại
Việt Nam trong thời gian tới
Do kiến thức còn nhiều hạn chế, nên trong quá trình tìm hiểu và nghiên
cứu, khóa luận không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến quý báu của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn Th.S Trần Thị Ngọc Quyên đã tận tình hướng
dẫn giúp em hoàn thành luận văn này.
6
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp
Chƣơng I: Tổng quan ngành công nghiệp phụ trợ và
đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
1.1 Tổng quan về ngành công nghiệp phụ trợ
1.1.1 Khái niệm CNPT:
1.1.1.1. Sự ra đời của thuật ngữ CNPT:
“CNPT”-“Supporting Industries” là một thuật ngữ tiếng Anh do người
Nhật Bản nghĩ ra và được các doanh nghiệp Nhật Bản sử dụng đầu tiên rất lâu
trước khi trở thành một thuật ngữ chính thức. “CNPT” trở nên phổ biến ở Nhật
Bản vào giữa những năm của thập niên 1980 khi thuật ngữ này được sử dụng
trong một văn bản chính thức là “Sách trắng về hợp tác kinh tế 1985” (“White
Paper on Economic Cooperation 1985”) của Bộ Công Nghiệp và Thương mại
quốc tế Nhật Bản. Theo đó, thuật ngữ “Công nghiệp phụ trợ” được sử dụng để
đề cập đến “các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp vào việc củng cố cơ sở hạ
tầng công nghiệp tại các nước châu Á trong trung và dài hạn”, hoặc có thể được
đề cập theo một nghĩa khác là “các doanh nghiệp sản xuất các bộ phận hoặc
thành phần”. Mục đích của Bộ Công nghiệp và Thương mại Nhật Bản lúc đó là
nhằm đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa và sự phát triển của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại các nước ASEAN, đặc biệt là các quốc gia trong ASEAN 4 (In-
đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Philipines, và Thái Lan).
Hai năm sau, Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế Nhật Bản lại một
lần nữa giới thiệu thuật ngữ này tới các nước ASEAN thông qua Kế hoạch Phát
triển Công nghiệp Châu Á mới. Kế hoạch là sự hợp tác kinh tế toàn diện dựa trên
ba lĩnh vực: viện trợ, đầu tư và thương mại. Trong khuôn khổ bản Kế hoạch,
Chương trình phát triển CNPT Châu Á đã được công bố trong năm 1993 nhằm
giải quyết sự mất cân bằng thương mại, cơ sở hạ tầng còn chưa phát triển, sự
thiếu hụt nguồn nhân lực có chuyên môn tại các quốc gia thuộc ASEAN 4 và đẩy
mạnh hợp tác công nghiệp giữa Nhật Bản và các quốc gia này. Theo Chương
7
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp
trình này, phạm vi của ngành CNPT được mở rộng từ các doanh nghiệp vừa và
nhỏ sang thành một ngành công nghiệp sản xuất các sản phẩm trung gian và máy
móc, trang thiết bị cho ngành công nghiệp lắp ráp mà không đề cập đến quy mô
công ty.
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao thuật ngữ này xuất hiện ở Nhật Bản mà
không phải là một quốc gia nào khác, và vào giữa những năm 1980 mà không
phải là một thời điểm sớm hơn hay muộn hơn. Sự kiện đồng Yên lên giá và nỗ
lực phát triển nền tảng công nghiệp của Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế
Nhật Bản nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại các nước
châu Á có thể coi là sự giải đáp cho câu hỏi này. Đồng Yên đã lên giá một cách
đột ngột sau Hiệp ước Plaza vào tháng 9 năm 1985, từ mức giá 240 Yên đổi một
Đô là Mỹ vào tháng 9 năm 1985 đã lên mức 160 Yên đổi một Đô la Mỹ. Chính
điều này đã có ảnh hưởng to lớn lên các doanh nghiệp xuất khẩu Nhật Bản.
Đồng Yên lên giá làm cho các doanh nghiệp Nhật Bản giảm xuất khẩu các sản
phẩm hoàn thiện và chuyển việc sản xuất sang các quốc gia có mức chi phí lao
động thấp hơn. Mặc dù vậy, các nhà máy của Nhật Bản tại nước ngoài phải nhập
khẩu bộ phận và thành phần từ các nhà thầu phụ của họ tại Nhật Bản vì các nhà
cung cấp các bộ phận và thành phần thiết yếu không có sẵn tại các nước đang
phát triển, bao gồm các nước ASEAN 4. Theo đó, thuật ngữ “CNPT” được sử
dụng để chỉ sự thiếu hụt của các ngành công nghiệp này tại các quốc gia đó. Có
thể nói, sự lên giá của đồng Yên và nỗ lực của Bộ Công nghiệp và Thương mại
quốc tế Nhật Bản là điều kiện cần và đủ cho sự ra đời của thuật ngữ CNPT tại
Nhật Bản và các nước Châu Á.
1.1.1.2. Khái niệm Công nghiệp phụ trợ:
“Supporting Industries” theo nghĩa tiếng Việt có nghĩa là “Công nghiệp
phụ trợ”. Mặc dù thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia, nhưng
vẫn còn rất mơ hồ và không có đồng nhất trong định nghĩa. Việc “CNPT” được
hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm tất cả các ngành công nghiệp sản xuất các thành
phần và bộ phận của một sản phẩm hay là được hiểu theo nghĩa hẹp là các ngành
8
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp
công nghiệp chỉ cung cấp các bộ phận, thành phận và các dụng cụ cho các ngành
công nghiệp nhất định phụ thuộc nhiều vào cách hiểu của người sử dụng thuật
ngữ.
Tuy nhiên, trên thực tế, mỗi quốc gia có một cách hiểu khác nhau và
không thống nhất về khái niệm CNPT.
Tại Thái Lan, người ta định nghĩa CNPT là các doanh nghiệp sản xuất các
thành phần và bộ phận được sử dụng trong quá trình lắp ráp cuối cùng của ngành
công nghiệp ô tô, máy móc và sản xuất điện tử (Nguồn Ratana, 1999:2). Trong
khi khái niệm “CNPT” của Thái Lan chỉ bó hẹp trong một số ngành công nghiệp
nhất định, Phòng Năng lượng của Mỹ định nghĩa CNPT là ngành công nghiệp
cung cấp nguyên liệu cần thiết để hình thành hoặc chế tạo nên các sản phẩm
trước khi được tung ra thị trường bán cho người tiêu dùng.
Ngoài ra còn có một cách hiểu khác về CNPT mang tính tổng quát nhất.
Nhìn hình 1 ta thấy khái niệm ngành CNPT có 3 phạm vi:
Phạm vi cốt lõi là phạm vi nhỏ nhất;
Phạm vi rộng 1 bao gồm phạm vi cốt lõi và các dịch vụ sản xuất;
Phạm vi rộng 2 bao gồm phạm vi cốt lõi và máy móc, nguyên vật
liệu
9
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp
Hình 1: Phạm vi ngành công nghiệp phụ trợ
Nguồn: “Tổng quan về khái niệm và sự phát triển ngành CNPT”- Nguyễn Thị
Xuân Thủy thực hiện (2006)
Theo cách hiểu này, khái niệm cốt lõi định nghĩa CNPT là ngành công
nghiệp cung cấp bộ phận (parts), thành phần (components) và dụng cụ (tools) để
sản xuất ra hàng hóa cuối cùng (Assembly/Sub-assembly). Có hai phạm vi khái
niệm rộng hơn:
i) Khái niệm rộng 1 (broad scope 1): theo khái niệm này thì CNPT
được định nghĩa là ngành cung cấp các bộ phận, thành phần, dụng cụ
để sản xuất ra các bộ phận và thành phần đó, và các dịch vụ sản xuất
như dịch vụ hậu cần, dự trữ, phân phối và bảo hiểm.
ii) Khái niệm rộng 2 (broad scope 2): CNPT là ngành công nghiệp bao
gồm tất cả các đầu vào mang tính vật chất, bao gồm các bộ phận,
thành phần, dụng cụ, máy móc và nguyên vật liệu. Khái niệm này
10
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp
giống như khái niệm mà Nhật Bản đã đưa ra trong Chương trình phát
triển CNPT tại các quốc gia châu Á vào năm 1993.
Mặc dù mỗi quốc gia có một cách hiểu khác nhau về CNPT nhưng có một
điểm chung: phạm vi cốt lõi của ngành CNPT là tạo ra các bộ phận, thành phần
cấu tạo trực tiếp nên sản phẩm lắp ráp cuối cùng.
Trong hoàn cảnh hiện tại của Việt Nam, với nguồn vốn đầu tư hạn chế, cơ
sở cho ngành công nghiệp (như hạ tầng cơ sở, nguồn nhân lực, công nghệ-kĩ
thuật…) còn chưa phát triển, sức ép từ phía hội nhập và cạnh tranh quốc tế, khái
niệm cốt lõi phù hợp với mục đích sử dụng để huy động mọi nguồn lực cho sự
phát triển của CNPT. Tuy nhiên, để phục vụ cho việc nghiên cứu và hoạch định
chính sách ở Việt Nam thì cần phải kết hợp một cách linh hoạt hai khái niệm
rộng đã đề cập bên trên. Khi đề cập đến CNPT tại Việt Nam, chúng ta cần phải
đề cập đến sản phẩm vốn (công cụ và máy móc) và các dịch vụ sản xuất (dịch vụ
hậu cần, lưu kho, phân phối và bảo hiểm) vì hai lĩnh vực này còn rất yếu và kém
tính cạnh tranh. Khi hai phạm vi này được bao hàm trong khái niệm CNPT thì
các nhà hoạch định chính sách sẽ cần phải hoàn thiện sản phẩm vốn và các dịch
vụ sản xuất nếu như muốn phát triển ngành CNPT.
Nói một cách khác, CNPT là một thuật ngữ đề cập đến một nhóm các hoạt
động công nghiệp cung cấp các đầu vào trung gian (không phải là nguyên vật
liệu thô và không phải là sản phẩm hoàn thiện). Các đầu vào trung gian này sẽ
được cung cấp cho các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm đầu ra cuối cùng.
Khi đó, CNPT được đặt ở giữa quá trình sản xuất theo chiều dọc. Mặc dù được
gọi là một ngành công nghiệp nhưng CNPT không thể được hiểu như là một
ngành cụ thể giống như ngành điện tử, ô tô, may mặc,...mà ngành CNPT là
ngành có mối liên hệ mật thiết với tất cả các ngành này.
11
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp
Hình 2: CNPT theo ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm đầu ra
Nguồn: Phát triển ngành CNPT trong quá trình công nghiệp hóa tại Việt Nam-
Development of Supporting industries for Vietnam’s industrialization (Submitted
by Junichi Mori)-2003
Trong hình 2, ngành lắp ráp điện tử và ngành lắp ráp xe máy có chung
ngành CNPT là ngành chế biến nhựa và kim loại; ngành may mặc và da giầy
chung ngành CNPT là ngành dệt vải, làm da, và sản xuất phụ tùng; ngành chế
biến thức ăn sử dụng các hàng hóa nông-lâm-ngư nghiệp.
Một điều đáng chú ý nữa là phạm vi của CNPT không đề cập chính xác
tới quy mô của các doanh nghiệp trong ngành, chế độ sở hữu hoặc kiến trúc nền
sản xuất.
Hình 3: Ngành CNPT theo quy mô và chế độ sở hữu
DN nƣớc ngoài & DN liên doanh Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DN xuất khẩu, DN lắp ráp và các Doanh nghiệp vừa và nhỏ khác
DN nƣớc ngoài khác
DN nhà
Doanh nghiệp nước ngoài nước
và liên doanh trong ngành trong DN vừa DN và nhỏ trong ngành
CNPT ngành và nhỏ CNPT
CNPT trong
ngành
CNPT
Nguồn: “Tổng quan về khái niệm và sự phát triển ngành CNPT”- Nguyễn Thị
Xuân Thủy (2006)
12
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp
Các doanh nghiệp này có thể là các doanh nghiệp trong nước, doanh
nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, các doanh nghiệp tư nhân lớn
mạnh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Vì mục đích của CNPT là nâng
cao tính cạnh tranh của ngành công nhiệp nên CNPT thường chỉ bao gồm những
công ty có thể thỏa mãn tiêu chuẩn cao về chất lượng, chi phí và phân phối.
1.1.2. Đặc điểm của ngành CNPT
1.1.2.1. Là một ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn:
Trên thực tế, ngành CNPT đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn hơn ngành lắp ráp
cuối cùng. Trong khi các quy trình lắp ráp cuối cùng đòi hỏi nhiều nhân công thì
ngành CNPT lại đòi hỏi nhiều máy móc hơn và ít nhân lực hơn. Trong ngành sản
xuất bộ phận ô tô, sơn là một trong số hàng ngàn các bộ phận khác cấu tạo nên
một chiếc ô tô hoàn chỉnh. Sơn tưởng như là một khâu đơn giản, phụ thuộc chủ
yếu vào chất lượng sơn và không tốn kém về mặt máy móc và công nghệ, nhưng
trên thực tế, khi trả lời báo Vietnamnet, công ty Xuân Kiên cho biết họ đã phải
chi ra 120 tỷ đồng cho công nghệ sơn điện li. Ngoài ra, chi phí chuyển giao công
nghệ cho mỗi mẫu xe cũng có thể lên đến hàng trăm nghìn USD. Hơn nữa,
những máy móc trong ngành này lại không thể chia nhỏ được (một công ty
không thể mua 1/5 chiếc máy để tiết kiệm chi phí được). Một khi những máy
móc này được lắp đặt, chi phí vốn cho nhà máy sẽ không thay đổi dù cho chúng
có được hoạt động 24 tiếng một ngày và 365 ngày một năm, hay chỉ là trong một
khoảng thời gian nhỏ.
1.1.2.2. Đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao:
Nếu nhân công trong ngành lắp ráp, chế biến hay may mặc có thể là các
lao động phổ thông vì công việc lắp ráp hay may mặc là những công việc đơn
giản và có tính tuần hoàn, nhưng nhân công làm việc trong ngành CNPT hoàn
toàn khác. Trong các ngành CNPT có sử dụng đến máy móc thì nhân công chủ
yếu là những người vận hành máy móc, giám sát chất lượng, kĩ thuật viên hoặc
kĩ sư. Tất cả họ đều phải trải qua trường lớp đào tạo để có thể có đủ năng lực làm
việc với máy móc. Trong một số ngành như đúc, chế biến kim loại và phun
13
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp
nhựa, một số khâu còn đòi hỏi các nhân công có trình độ tay nghề cao và có
thậm chí phải khả năng tưởng tượng tốt.Cùng với sự phát triển của công nghệ -
kĩ thuật thì nguồn nhân lực cũng cần phải có sự tiến bộ về năng lực để có thể bắt
kịp được với sự phát triển đó. Chính vì đòi hỏi vốn lớn và nhân công có trình độ
nên ngành CNPT tại các nước đang phát triển có xu hướng kém cạnh tranh. Các
nước này không đủ vốn hoặc nhân công không có đủ năng lực để có thể hoạt
động tốt các máy móc sản xuất này.
1.1.2.3. Là ngành bao cung cấp đầu vào và máy móc, thiết bị cho các
ngành công nghiệp khác
Một sản phẩm lắp ráp hoàn thiện là kết quả của một quá trình sản xuất
phức tạp bao gồm nhiều bộ phận khác nhau. Mỗi bộ phận lại mang những đặc
điểm khác nhau, thuộc các ngành công nghiệp khác nhau. Chính vì vậy, thật dễ
hiểu khi nói rằng ngành CNPT là một ngành bao trùm một lượng lớn các ngành
công nghiệp khác. Trên thực tế, ngành công nghiệp điện tử, xe máy hoặc ô tô có
chung ngành CNPT như ngành phun nhựa, ép kim loại,…Các sản phẩm điện dân
dụng và xe máy đều sử dụng các bộ phận bằng nhựa được sản xuất thông qua
một quy trình sản xuất giống nhau được gọi là quá trình ép phun. Các bộ phận
kim loại nén được sử dụng cho các hàng hóa điện tử, xe máy và ô tô. Do đó
ngành CNPT có thể là một nguồn cung cấp ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của
các ngành sản xuất khác.
Hình 4: Những ngành CNPT cơ bản bao trùm nhiều ngành công nghiệp
14
Nguyễn Thị Phương Thảo Khóa luận tốt nghiệp
Trong hình vẽ trên, các bộ phận sản phẩm như: phụ tùng và linhh kiện,
đúc, rèn, khuôn nhựa và nguyên liệu là những sản phẩm trung gian thuộc ngành
CNPT và chúng là sản phẩm đầu vào trong nhiều ngành công nghiệp sản xuất
khác nhau: ô tô, điện tử, điện. Những sàn phẩm phụ trợ kể trên được coi là các
sản phẩm phụ trợ cơ bản vì chúng là sản phẩm đầu vào cho một số lượng lớn các
ngành công nghiệp khác.
1.1.