Ngày nay, việc nghiên cứu đề tài về sự phát triển quan hệ hợp tác kinh
tế thƣơng mại Việt Nam và Hoa Kỳ có lẽ không còn là một điều gì đó mới mẻ
nhƣ trƣớc thời kỳ bình thƣờng hoá quan hệ giữa hai nƣớc. Đã có rất nhiều các
nhà nghiên cứu, nhà kinh tế học, các học giả và cả các sinh viên kinh tế với
những bài nghiên cứu rất sâu sắc về nhiều vấn đề liên quan đến mối quan hệ
kinh tế thƣơng mại Việt Nam và Hoa Kỳ, đƣa ra một bức tranh đầy đủ về
quan hệ song phƣơng ngày càng tăng này.
Nhận thức đƣợc điều đó cùng với mối quan tâm của cá nhân về lĩnh vực
tài chính ngân hàng, tôi cũng muốn trình bày một khía cạnh khác của mối
quan hệ này với đề tài “Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong
lĩnh vực ngân hàng”. Đây là một đề tài chƣa có nhiều nghiên cứu vì một số lí
do khách quan nhƣ trong những nă m trƣớc đây tình hình hợp tác giữa hai
nƣớc trong lĩnh vực này còn chƣa nổi bật cũng nhƣ hạn chế về số liệu phâ n
tích thực tế. Tuy nhiên, trong năm 2007 những sự kiện nổi bật trong ngành
ngân hàng Việt Nam cùng với sự hợp tác ngày càng tăng của Mỹ trong kinh tế
thƣơng mại đã thu hút sự quan tâm của tôi và đƣa tôi đến quyết định nghiên
cứu đề tài không mấy dễ này. Đề tài này đòi hỏi thời gian nghiên cứu cũng
nhƣ thu thập các tài liệu không chỉ về mối quan hệ hợp tác của Việt Nam và
Hoa Kỳ nói chung trong lĩnh vực ngân hàng mà còn cả những nguồn số liệ u
thông tin thực trạng từ các hoạt động của ngân hàng Mỹ tại Việt Nam
117 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1853 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và hoa kỳ trong lĩnh vực ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
-------***-------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
PHÁT TRIỂN QUAN HỆ HỢP TÁC GIỮA VIỆT NAM
VÀ HOA KỲ TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG
Họ và tên sinh viên : Phạm Thị Quỳnh Chi
Lớp : Anh 15
Khoá : 42D – KT&KDQT
Giáo viên hƣớng dẫn : TS. Bùi Ngọc Sơn
Hà Nội - Tháng 11/2007
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, việc nghiên cứu đề tài về sự phát triển quan hệ hợp tác kinh
tế thƣơng mại Việt Nam và Hoa Kỳ có lẽ không còn là một điều gì đó mới mẻ
nhƣ trƣớc thời kỳ bình thƣờng hoá quan hệ giữa hai nƣớc. Đã có rất nhiều các
nhà nghiên cứu, nhà kinh tế học, các học giả và cả các sinh viên kinh tế với
những bài nghiên cứu rất sâu sắc về nhiều vấn đề liên quan đến mối quan hệ
kinh tế thƣơng mại Việt Nam và Hoa Kỳ, đƣa ra một bức tranh đầy đủ về
quan hệ song phƣơng ngày càng tăng này.
Nhận thức đƣợc điều đó cùng với mối quan tâm của cá nhân về lĩnh vực
tài chính ngân hàng, tôi cũng muốn trình bày một khía cạnh khác của mối
quan hệ này với đề tài “Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong
lĩnh vực ngân hàng”. Đây là một đề tài chƣa có nhiều nghiên cứu vì một số lí
do khách quan nhƣ trong những năm trƣớc đây tình hình hợp tác giữa hai
nƣớc trong lĩnh vực này còn chƣa nổi bật cũng nhƣ hạn chế về số liệu phân
tích thực tế. Tuy nhiên, trong năm 2007 những sự kiện nổi bật trong ngành
ngân hàng Việt Nam cùng với sự hợp tác ngày càng tăng của Mỹ trong kinh tế
thƣơng mại đã thu hút sự quan tâm của tôi và đƣa tôi đến quyết định nghiên
cứu đề tài không mấy dễ này. Đề tài này đòi hỏi thời gian nghiên cứu cũng
nhƣ thu thập các tài liệu không chỉ về mối quan hệ hợp tác của Việt Nam và
Hoa Kỳ nói chung trong lĩnh vực ngân hàng mà còn cả những nguồn số liệu
thông tin thực trạng từ các hoạt động của ngân hàng Mỹ tại Việt Nam.
Tuy nhiên, cùng với nỗ lực và mối quan tâm sâu sắc đến lĩnh vực này,
em cũng xin đƣợc trình bày trong khoá luận của mình hai vấn đề chính là:
thực trạng của quan hệ hợp tác này và từ đó đƣa ra giải pháp nhằm phát triển
quan hệ hợp tác Việt - Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng, giúp cho ngƣời nghiên
cứu và ngƣời quan tâm đến lĩnh vực ngân hàng cũng nhƣ mối quan hệ thƣơng
1
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng
mại Việt Mỹ hiểu rõ thêm về việc đầu tƣ của hai bên trong ngành ngân hàng
và cung cấp những tài liệu với những số liệu thống kê có ích.
Khoá luận đƣợc trình bày qua ba chƣơng chính:
Chƣơng 1: Vai trò và các điều kiện phát triển quan hệ hợp tác giữa
Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng
Chƣơng 2: Thực trạng hợp tác phát triển giữa Việt Nam và Mỹ trong
lĩnh vực ngân hàng
Chƣơng 3: Những định hƣớng và giải pháp thúc đẩy sự hợp tác phát
triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo TS. Bùi
Ngọc Sơn, Giáo viên hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn thành khoá
luận này.
Tác giả
Phạm Thị Quỳnh Chi
2
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VAI TRÒ VÀ CÁC ĐIỀU
KIỆN PHÁT TRIỂN QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT MỸ TRONG
LĨNH VỰC NGÂN HÀNG
I. VAI TRÒ CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN QUAN HỆ HỢP TÁC GIỮA VIỆT NAM VÀ
HOA KỲ TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG
1. Vị trí của Mỹ trong quan hệ hợp tác ngân hàng với Việt Nam
1.1. Vị trí của Mỹ trong quan hệ thương mại đầu tư nói chung với Việt
Nam
Hơn một thập kỷ, kể từ khi Việt Nam và Mỹ thiết lập quan hệ ngoại
giao, là khoảng thời gian không dài nhƣng lại là một chặng đƣờng đầy ý nghĩa
trong mối bang giao giữa hai quốc gia vốn ở hai bên chiến tuyến. Sau thời
điểm thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 12 tháng 7 năm 1995, cả Việt Nam và
Mỹ đều rất nỗ lực phát triển và mở rộng hợp tác trong nhiều lĩnh vực.
Từ sự hợp tác ban đầu còn nhỏ lẻ, bó hẹp trong vấn đề nhân đạo, mối
quan hệ đã mở rộng sang các lĩnh vực kinh tế, chính trị, giáo dục, y tế, khoa
học công nghệ và cả những lĩnh vực chƣa từng có trong lịch sử quan hệ hai
nƣớc nhƣ tiếp xúc quốc phòng, hợp tác chống khủng bố, ma tuý, tội phạm
xuyên quốc gia trong những năm gần đây.
Trong quan hệ hai nƣớc, hợp tác kinh tế, thƣơng mại luôn là lĩnh vực
trọng tâm và cũng là lĩnh vực đạt nhiều kết quả tích cực nhất. Hiệp định
thƣơng mại Việt Mỹ đƣợc kí kết vào tháng 7 năm 2000 và có hiệu lực vào
tháng 12/2001 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thúc đẩy quan hệ
hợp tác kinh tế-thƣơng mại đầu tƣ. Cụ thể nhƣ kim ngạch xuất nhập khẩu
buôn bán hai chiều1 năm 2005 đạt 8,7 tỷ USD, tăng gấp 5 lần năm 2001
(91,5 tỷ USD) và chỉ một năm sau đó đã đạt 9,7 tỷ USD. Hiện nay Hoa Kỳ
đang là thị trƣờng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Đầu tƣ của Hoa Kỳ vào
1 Nguồn: Báo cáo tình hình thƣơng mại năm 2005, 2006, 2007 của trang web Bộ Công thƣơng
(www.mot.gov.vn)
3
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng
Việt Nam2 đến tháng 4 năm 2007 đã đạt hơn 2,3 tỷ USD, xếp thứ 8 trong các
quốc gia và vùng lãnh thổ nƣớc ngoài đầu tƣ vào Việt Nam (nếu tính cả đầu
tƣ qua nƣớc thứ 3 là 4,3 tỷ USD). Theo số liệu của Phòng Công nghiệp Hoa
Kỳ, hiện nay ở Hà Nội có hơn 1.000 doanh nghiệp Hoa Kỳ đang hoạt động
tại Việt Nam. Bên cạnh đó, hai quốc gia này cũng đang từng bƣớc thúc đẩy
hợp tác về các vấn đề nhân đạo sau chiến tranh. Việt Nam đã và đang hợp tác
chặt chẽ với Hoa Kỳ trong việc giải quyết vấn đề tìm kiếm ngƣời Mỹ mất
tích trong chiến tranh. Đến nay, hai nƣớc đã tiến hành 89 đợt tìm kiếm hỗn
hợp và phía Việt Nam đã trao cho Mỹ hơn 850 bộ hài cốt. Phía Hoa Kỳ cũng
đang từng bƣớc hợp tác với Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề hậu
quả chiến tranh ở Việt Nam nhƣ cung cấp các thông tin liên quan tới việc tìm
kiếm ngƣời Việt Nam bị mất tích trong chiến tranh, tổ chức hội nghị về
nghiên cứu hậu quả chất độc da cam, thực hiện các chƣơng trình rà phá bom
mìn, trồng cây xanh, trợ giúp nạn nhân.
Việc giải quyết hậu quả chất độc da cam cũng đã có những tiến triển
bƣớc đầu. Ngày 25/5/2007, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua khoản chi 3 triệu
USD hỗ trợ bảo vệ môi trƣờng và chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam.
Ngoài ra, hai bên cũng đang thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực giáo
dục - đào tạo, y tế và lao động.
Trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ George Bush vào
tháng 11/2006, hai bên đã ra tuyên bố chung trong đó khẳng định quyết tâm
bảo đảm cho quan hệ song phƣơng ổn định, xây dựng, có nền tảng rộng lớn
và đƣợc tiến hành trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền và cùng có lợi.
Hoạt động thƣơng mại hai chiều cũng nhƣ đầu tƣ của Mỹ vào Việt
Nam đƣợc cho là sẽ còn tăng mạnh vì Tổng thống Mỹ George Bush đã ký ban
hành đạo luật thiết lập Quy chế Quan hệ thƣơng mại bình thƣờng vĩnh viễn
2 Nguồn: Số liệu đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam trong trang web của Bộ kế hoạch và đầu tƣ
(www..mpi.gov.vn)
4
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng
(PNTR) với Việt Nam hồi tháng 12 năm ngoái và sau đó Việt Nam đã chính
thức trở thành thành viên Tổ chức Thƣơng mại Thế giới.
*Một số mốc quan trọng trong quan hệ Việt Mỹ
- Tháng 8/1995: Việt Nam và Mỹ khai trƣơng đại sứ quán Washington
DC tại Hà Nội.
- Ngày 14/7/2000: Tại Washington, đại diện hai nƣớc ký Hiệp định
Thƣơng mại song phƣơng sau nhiều năm đàm phán.
- Từ ngày16 đến ngày 19/11/2000: Tổng thống Bill Clinton thăm chính
thức Việt Nam.
- Từ ngày19 đến 22/6/2005, Thủ tƣớng Phan Văn Khải thăm Mỹ. Hai
bên đã ra Tuyên bố chung khẳng định mong muốn xây dựng quan hệ
hợp tác hữu nghị hợp tác nhiều mặt, ổn đinh lâu dài.
- Từ ngày 17 đến ngày 20/11/2006: Tổng thống George W.Bush thăm
chính thức Việt Nam nhân dịp tham dự Hội nghị APEC.
- Từ ngày 18 đến ngày 23/6 /2007: Chủ tịch nƣớc Nguyễn Minh Triết
sang thăm Mỹ và ký kết Hiệp đinh khung về thƣơng mại và đầu tƣ
TIFA.
1.2. Vị trí của Mỹ trong quan hệ hợp tác ngân hàng với Việt Nam
Trên đây là bức tranh toàn cảnh về hợp tác quan hệ hợp tác Việt Mỹ
trong thời gian qua. Tuy nhiên, trong tƣơng lai, theo các Hiệp định song
phƣơng và đa phƣơng mà Việt Nam đã cam kết, cùng với việc Việt Nam là
thành viên của Tổ chức Thƣơng mại Quốc tế WTO thì Việt Nam phải cam
kết và dần dần dỡ bỏ các rào cản đối với việc gia nhập và hoạt động của các
nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tại thị trƣờng trong nƣớc về Thƣơng mại dịch vụ - một
mảng lớn mà ở Việt Nam hiện còn chƣa phát triển. Theo Hiệp định thƣơng
mại song phƣơng Việt - Mỹ (BTA, Thƣơng mại dịch vụ đƣợc chia thành các
lĩnh vực dịch vụ cụ thể sau:
1. Dịch vụ kinh doanh
5
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng
2. Dịch vụ thông tin liên lạc
3. Dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật đồng bộ có liên quan
4. Dịch vụ phân phối
5. Dịch vụ giáo dục
6. Dịch vụ tài chính
7. Dịch vụ y tế, lữ hành.
Trong đó, các dịch vụ tài chính bao gồm dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ
ngân hàng và tài chính khác. Hoà cùng xu hƣớng hội nhập hiện nay, ngành tài
chính sẽ phải đƣợc tự do hoá để hội nhập vào thị trƣờng tài chính quốc tế, mỗi
quốc gia phải tự chọn cho mình một lộ trình tự do hoá tài chính riêng, tuỳ
thuộc vào đặc điểm kinh tế và chính trị của mình.
Dịch vụ ngân hàng đƣợc hiểu là các nghiệp vụ ngân hàng về vốn, tiền
tệ, thanh toán,… mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng đáp ứng nhu cầu
kinh doanh, sinh lời, sinh hoạt cuộc sống, cất trữ tài sản,… và ngân hàng thu
chênh lệch lãi suất, tỷ giá hay thu phí thông qua dịch vụ ấy. Trong xu hƣớng
phát triển ngân hàng tại các nền kinh tế phát triển hiện nay, ngân hàng đƣợc
coi nhƣ một “siêu thị dịch vụ, một bách hoá tài chính” với hàng trăm, thậm
chí hàng nghìn dịch vụ khác nhau tuỳ theo cách phân loại và tuỳ theo trình độ
phát triển của ngân hàng.
Trên thực tế, lĩnh vực tài chính ngân hàng giữa hai nƣớc trƣớc năm
2006 vẫn chƣa có nét gì nổi bật. Tại nƣớc Mỹ có 7.540 ngân hàng vào cuối
năm 2005 và 75.000 chi nhánh trên toàn thế giới 3. Trong tổng số các ngân
hàng đó, các ngân hàng của Mỹ nhƣ Citibank, Bank of America, JP Morgan
Chase Bank... luôn luôn đứng đầu trong bảng xếp hạng top mƣời Ngân hàng
lớn nhất thế giới. Nhƣng kể từ khi hai nƣớc thiết lập quan hệ hợp tác với nhau
đến nay chỉ có 3 chi nhánh và bốn văn phòng đại diện của ngân hàng lớn của
Mỹ đặt tại Việt Nam. Việc ngân hàng Mỹ đầu tƣ khiêm tốn nhƣ vậy cũng
3 Nguồn: Thống kê của Bộ tài chính Mỹ tại website: www.treas.gov
6
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng
không phải là điều đáng ngạc nhiên khi thị trƣờng Việt Nam sự tham gia hoạt
động và kinh doanh của các ngân hàng nƣớc ngoài còn chƣa nổi bật và mới
chỉ ở dạng tiềm năng.
2. Lợi ích của việc phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
trong lĩnh vực ngân hàng
Lợi ích luôn là mục đích cuối cùng của bất kỳ một hoạt động nào,
chẳng hạn nhƣ đối với các nhà kinh doanh đầu tƣ vào bất kỳ ngành hay lĩnh
vực nào thì lợi ích đƣợc hiểu chung đó là lợi nhuận của họ đạt đƣợc trên mỗi
đơn vị doanh thu đƣợc thu về, lợi ích của các tổ chức phi chính phủ muốn đạt
đƣợc đó là thành công của mục tiêu, tuyên ngôn hoạt động riêng của mình.
Trong hợp tác phát triển giữa hai quốc gia trong một lĩnh vực thì lợi ích thể
hiện qua những gì mà mỗi quốc gia thu đƣợc mà không làm phƣơng hại đến
lợi ích khác của nhau, dựa trên nguyên tắc bình đẳng.
2.1. Đối với Việt Nam:
Hợp tác trên lĩnh vực ngân hàng giúp Việt Nam:
- Thu hút nhiều nhà đầu tƣ của Mỹ vào Việt Nam để hoạt động và
kinh doanh.
Ngân hàng Mỹ sẽ làm cầu nối cho các nhà đầu tƣ Mỹ vào thị trƣờng và
các doanh nghiệp Việt Nam. Đây rõ ràng sẽ là lợi ích nổi bật của cả hai phía.
Hiện nay, có ba chi nhánh ngân hàng và bốn văn phòng đại diện của Mỹ tại
Việt Nam. Các chi nhánh và văn phòng đại diện này đều đóng vai trò cầu nối
tích cực cho các nhà đầu tƣ kinh doanh của Mỹ. Nó đã góp phần hỗ trợ khách
hàng của ngân hàng mẹ trong việc nghiên cứu thị trƣờng nhằm cải thiện đầu
tƣ và thiết lập các mối quan hệ với các chủ thể của nền kinh tế Việt Nam.
Những thông tin hữu ích trao đổi giữa các bên cũng làm cho các ngân hàng
mẹ (ngân hàng Mỹ) hiểu rõ hơn tình hình kinh tế của Việt Nam, trở thành cơ
sở đánh giá tích cực và chính xác hơn. Chính điều này có thể giúp cho các
nhà đầu tƣ Hoa Kỳ tìm đến Việt Nam nhiều hơn khi đã có một hệ thống ngân
7
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng
hàng Mỹ đáng tin cậy và phát triển tại thị trƣờng Việt Nam. Nhƣ vậy, lợi ích
đối với Việt Nam là sẽ gia tăng sự đầu tƣ của các doanh nghiệp cũng nhƣ các
ngân hàng thƣơng mại Mỹ nói riêng vào Việt Nam.
- Đầu tƣ của Mỹ vào lĩnh vực ngân hàng sẽ là kênh dẫn truyền vào
Việt Nam những công nghệ hiện đại, những thông lệ tốt nhất, và là nguồn tài
chính bổ sung cho thị trƣờng tiềm năng Việt Nam.
Với lợi thế về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của mình, các
ngân hàng Mỹ sẽ là ngƣời tiên phong trong việc áp dụng và phát triển những
công nghệ hiện đại, các dịch vụ ngân hàng mới tại thị trƣờng Việt Nam. Điển
hình là chi nhánh ngân hàng Mỹ Citibank trở thành ngân hàng đầu tiên áp
dụng dịch vụ ngân hàng điện tử (e-banking) tại Việt Nam. Đây là dịch vụ
ngân hàng thực hiện hoàn toàn thông qua mạng Internet, nó giúp cho khách
hàng tiết kiệm đƣợc thời gian, không cần phải đến ngân hàng mà vẫn giám sát
đƣợc các giao dịch phát sinh trên tài khoản, thực hiện giao dịch, cập nhật
thông tin tài chính ngân hàng thông qua mạng internet, điện thoại cố định hay
di động. Những dịch vụ này đòi hỏi sự phát triển cao của công nghệ thông tin,
đầu tƣ lớn. Chính vì thế, các ngân hàng Việt Nam thƣờng khó đi tiên phong
trong những lĩnh vực dịch vụ này mà phải cần đến sự hỗ trợ của các ngân
hàng nƣớc ngoài. Trong đó, ngân hàng Mỹ lại nổi tiếng trên toàn thế giới về
lĩnh vực phát minh và ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực.
- Sự tham gia hợp tác của các ngân hàng Mỹ vào thị trƣờng Việt
Nam còn là động lực thúc đẩy các ngân hàng Việt Nam đổi mới hoạt động tốt
hơn và nâng cao sức cạnh tranh của mình
Hợp tác và cạnh tranh là hai mặt của một vấn đề, nó tồn tại song song
với nhau nhƣ một tất yếu. Tuy nhiên cạnh tranh không phải luôn là tiêu cực
bởi vì cạnh tranh sẽ khiến cho các ngân hàng Việt Nam phải hoạt động tốt
hơn. Nhƣ vậy, khách hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung cũng sẽ đƣợc
hƣởng lợi. Sự tham gia của ngân hàng Mỹ sẽ tăng lên cùng với tự do hoá dịch
8
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng
vụ ngân hàng ở Việt Nam thông qua việc nắm giữ cổ phần của ngân hàng nội
địa hoặc tăng vốn của chi nhánh Mỹ, mà thực chất sẽ bơm thêm vốn vào nền
kinh tế và gây áp lực cạnh tranh cho các ngân hàng Việt Nam. Ký kết Hiệp
định Thƣơng mại Việt Mỹ và tham gia vào Tổ chức Thƣơng mại Thế giới,
Việt Nam đã tạo nên những tín hiệu rất tích cực đối với các ngân hàng trong
nƣớc. Từ năm 2003 đến nay, các ngân hàng trong nƣớc, đặc biệt là các ngân
hàng thƣơng mại cổ phần mạnh đã tỏ ra khá quyết liệt trong việc phát triển
mạng lƣới tiếp thị và giới thiệu các dịch vụ ngân hàng của mình. Nhờ đó
khách hàng trong nƣớc có cơ hội đƣợc chọn lựa nhiều sản phẩm và dịch vụ
cao hơn. Đây là kết quả đổi mới đáng khích lệ và sẽ còn tiếp tục trong tƣơng
lai khi sự hợp tác ngày càng cao.
Ngoài ra hợp tác với các ngân hàng Mỹ còn giúp cho các ngân hàng
thƣơng mại Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh của mình trong quá trình hội
nhập bằng cách nâng cao năng lực tài chính của mình. Hiện nay ngành ngân
hàng Việt Nam đang nổi lên ba xu hƣớng hợp tác chính với các ngân hàng
nƣớc ngoài, đó là: cho các ngân hàng nƣớc ngoài mua cổ phần của mình để
cùng quản lý kinh doanh, tăng cƣờng hợp tác dịch vụ ngân hàng với ngân
hàng nƣớc ngoài và thứ ba là thành lập các liên doanh ngân hàng tài chính.
Chính vì vậy, tiến tới trong tƣơng lai, khi các ngân hàng Mỹ vào Việt Nam,
ngoài hình thức đóng góp cổ phần trong các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam,
thành lập chi nhánh hay công ty 100% vốn nƣớc ngoài thì có thể còn có diễn
ra sự mua lại và sát nhập tạo ra quy mô ngân hàng trong nƣớc lớn hơn và
năng lực cạnh tranh của các ngân hàng cũng tăng lên. Khi các hạn chế về sở
hữu của nƣớc ngoài trong các ngân hàng đƣợc xóa bỏ nhƣ trong cam kết Hiệp
định Thƣơng mại Việt Mỹ, các ngân hàng Mỹ nổi tiếng (thực tế các ngân
hàng nổi tiếng của Mỹ trên toàn thế giới nhƣ Citibank, JP Morgan Chase
Bank, Wachovia, Bank of America,… thƣờng hƣớng đầu tƣ ra nƣớc ngoài ở
những thị trƣờng mới nổi) có thể mua cổ phần của các ngân hàng Việt Nam
9
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng
lớn hơn và trở thành cổ đông chiến lƣợc. Điều này giúp cho các ngân hàng
Việt Nam nâng cao tiềm lực tài chính vốn xuất phát điểm thấp và cạnh tranh
hơn. Việc mua cổ phần hoá cũng là cách nhanh nhất, hiệu quả nhất để học hỏi
và bổ sung lẫn nhau.
2.2. Đối với Mỹ
Hoa Kỳ là nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển nhất trên thế giới
trong khi Việt Nam chỉ đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trƣờng. Điều đó khiến chúng ta dễ hiểu về sự khác biệt và bất đồng trong hệ
thống chính sách thƣơng mại, đầu tƣ, hợp tác của hai bên. Tuy nhiên cả Hoa
Kỳ và Việt Nam có chung mục tiêu với nền tảng cơ bản là thúc đẩy kinh tế
thƣơng mại làm chính, tạo mọi cơ hội tham gia vào thị trƣờng của nhau trên
cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Đều cùng là những nền kinh tế thị trƣờng nhƣng
ở trình độ phát triển khác nhau nên Việt Nam và Hoa Kỳ có thể bổ sung cho
nhau mà không làm phƣơng hại đến lợi ích của nhau. Do vậy việc hợp tác
trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng cũng đã đem lại cho Mỹ những lợi ích cơ
bản sau:
- Đem lại cho các nhà đầu tƣ (bao gồm cả các ngân hàng) của Mỹ
cơ hội kinh doanh và mở rộng thị trƣờng của mình.
Hiện nay ở Việt Nam trong lĩnh vực tài chính ngân hàng đang nổi lên
xu hƣớng hợp tác đó là các ngân hàng ngoại mua lại cổ phần của các ngân
hàng Việt Nam. Việc ngân hàng Mỹ mua cổ phần sẽ giúp cho Mỹ không tốn
kém chi phí mở chi nhánh mới, có sẵn mạng lƣới, cơ sở vật chất kỹ thuật,
nguồn nhân lực và số lƣợng khách hàng đông đảo tại các ngân hàng thƣơng
mại Việt Nam. Trên thực tế hiện nay, chi nhánh ngân hàng của Mỹ tại Việt
Nam là Citibank Mỹ đang đeo đuổi tìm kiếm cơ hội mua cổ phần để trở thành
cổ đông chiến lƣợc trong một số ngân hàng thƣơng mại của Việt Nam. Ngoài
ra các ngân hàng của Mỹ còn có lợi khi tăng cƣờng hợp tác dịch vụ ngân hàng
với các ngân hàng trong nƣớc. Citibank đã ký hợp đồng hợp tác với Ngân hàng
10
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng
Thƣơng mại cổ phần Đông Á - EAB về phát triển dịch vụ ngân hàng, theo đó
Citibank hỗ trợ đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ của EAB về dịch vụ ngân
hàng bán lẻ, dịch vụ phục vụ kinh doanh doanh nghiệp và kết nối hệ thống
thanh toán thẻ của EAB với hệ thống thẻ của Citibank. Với sự hợp tác này,
Citibank có điều kiện mở rộng dịch vụ ngân hàng hiện đại và tiện ích tại Việt
Nam.
- Giúp Mỹ củng cố vị trí vai trò và ảnh hƣởng tài chính của mình
tại Châu Á
Châu Á đang nổi lên là khu vực kinh tế phát triển cao và năng động
nhất thế giới và Mỹ và EU cũng đang có chính sách bành trƣớng và cạnh
tranh nhau mạnh mẽ tại thị trƣờng Châu Á. Đặc biêt, các nƣớc Đông Nam Á
(ASEAN), bằng thực lực kinh tế của mình đang tích cực tạo ra sự độc lập và
ngày càng bình đẳng hơn đối với Mỹ. Nhờ vào sự phát triển nhanh trong một
thời gian dài ổn định, ASEAN đang nổi lên là một khu vực quan trọng đối
với Mỹ và Liên Minh Châu Âu. Trong khi đó, Việt Nam đã gia nhập khối
ASEAN, nay lại gia nhập WTO, Việt Nam đã đƣợc Mỹ đƣa vào danh sách
các nƣớc có thị trƣờng lớn mới nổi và tìm mọi cách cải