Khóa luận Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thắng lợi quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước đã có nhiều khởi sắc, được nhân dân ta và quốc tế đánh giá cao. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu rõ: “Nghiên cứu để tiến tới áp dụng một khung pháp luật thống nhất chung cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tạo mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước là một trong những quy luật khách quan của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Theo lời của Thủ tướng Phan Văn Khải, thì “.Cái chính là mặt bằng pháp luật, mặt bằng cơ chế chính sách”. Nếu không có một “hành lang pháp lý” vững chắc, bảo đảm sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước trong mọi quá trình của hoạt động đầu tư từ khẩu tìm hiểu đầu tư đến khâu thành lập, triển khai, mở rộng hoặc thu hẹp và chấm dứt dự án đầu tư thì sẽ không theo kịp với tiến trình hội nhập. Có thể nói, sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước hiện nay được coi là một trong những hạn chế ảnh hưởng tới tính hấp dẫn, tính cạnh tranh của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong những năm qua, chúng ta có nhiều cố gắng trong việc đưa các quy định của pháp luật đầu tư nước ngoài và các quy định về đầu tư trong nước xích lại gần nhau. Một khi còn tồn tại hai hệ thống quy phạm pháp luật riêng điều chỉnh đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, thì không thể có khái niệm “sân chơi” bình đẳng cho hoạt động đầu tư trong nước, bất kể đó là đầu tư nước ngoài hay đầu tư trong nước. Tất nhiên, do hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ mạnh, nên nếu phải vào cùng một “sân chơi”, trong cùng một “mặt bằng” với các nhà đầu tư nước ngoài, có tiềm lực kinh tế, giàu kinh nghiệm, có công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại hơn hẳn chúng ta, thì các doanh nghiệp Việt Nam không thể cạnh tranh nổi. Chính vì vậy, trước mắt vẫn cần phải có hành lang pháp lý riêng cho từng loại đối tượng. Nhưng do xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế đang trở thành vấn đề bức xúc và do yêu cầu của việc hội nhập, các quốc gia đang dần xoá bỏ sự khác biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Việt Nam muốn hoà vào xu thế chung đó thì không có cách nào khác là phải từng bước tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Chúng ta phải tính toán để đưa ra những bước đi thích hợp với trình độ, hoàn cảnh và đặc điểm của Việt Nam. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài “Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” hiện nay mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn đòi hỏi thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại Việt Nam.

doc89 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1970 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TIẾN TỚI MẶT BẰNG PHÁP LÝ CHUNG CHO ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM Sinh viên thực hiện : Vũ Huyền Bảo Linh Lớp : Anh 11, K38 D KTNT Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS Vũ Chí Lộc Hà nội, năm 2003 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện khóa luận, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong Khoa Kinh tế Ngoại thương - Trường Đại học Ngoại thương Hà nội, đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Vũ Chí Lộc - người đã trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện bản khóa luận này. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với các thầy giáo, cô giáo Khoa Kinh tế Ngoại thương – Trường Đại học Ngoại thương Hà nội, đã dạy dỗ và giúp đỡ tôi trong suốt bốn năm học tập; bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến các bạn cùng lớp đã động viên, khích lệ tôi hoàn thành khóa luận này. Tuy nhiên, do thời gian và trình độ có hạn, khóa luận này chắc chắn không tránh khỏi một số thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy giáo, cô giáo và các bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 12 năm 2003. Sinh viên thực hiện Vũ Huyền Bảo Linh MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM Sự cần thiết phải điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài bằng pháp luật3 Khái niệm và đặc trưng cơ bản của pháp luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài 5 Đặc trưng cơ bản của pháp luật đầu tư nước ngoài 13 Vai trò của pháp Luật Đầu tư nước ngoài 17 CHƯƠNG 2: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM Giới thiệu về hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài 22 Sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài qua các giai đoạn lịch sử. Giai đoạn thứ nhất (từ năm 1975 đến năm 1987) 28 Giai đoạn thứ hai (từ năm 1987 đến năm 1996) 29 Giai đoạn thứ ba (từ năm 1996 đến nay) 31 Sự hình thành và phát triển một số chế định pháp lý chủ yếu của pháp luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Chủ thể tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài 33 Hình thức đầu tư và phương thức đầu tư 35 Các biện pháp bảo đảm đầu tư 37 Các biện pháp khuyến khích đầu tư 39 Quản lý tài chính và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Giải quyết tranh chấp, giải thể, thanh lý, phá sản doanh nghiệp49 Thủ tục đầu tư 50 Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài 51 Đánh giá về sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Ưu điểm của pháp luật đầu tư nước ngoài 51 Những hạn chế của pháp luật đầu tư nước ngoài 53 Nguyên nhân của những nhược điểm 55 CHƯƠNG 3: XU HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam58 Các nguyên tắc tiếp tục hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Giải pháp hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 65 Giải pháp chung về sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài 65 Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài trong từng vấn đề cụ thể KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO LỜI NÓI ĐẦU Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thắng lợi quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước đã có nhiều khởi sắc, được nhân dân ta và quốc tế đánh giá cao. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu rõ: “Nghiên cứu để tiến tới áp dụng một khung pháp luật thống nhất chung cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tạo mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước là một trong những quy luật khách quan của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Theo lời của Thủ tướng Phan Văn Khải, thì “..Cái chính là mặt bằng pháp luật, mặt bằng cơ chế chính sách”. Nếu không có một “hành lang pháp lý” vững chắc, bảo đảm sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước trong mọi quá trình của hoạt động đầu tư từ khẩu tìm hiểu đầu tư đến khâu thành lập, triển khai, mở rộng hoặc thu hẹp và chấm dứt dự án đầu tư thì sẽ không theo kịp với tiến trình hội nhập. Có thể nói, sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước hiện nay được coi là một trong những hạn chế ảnh hưởng tới tính hấp dẫn, tính cạnh tranh của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong những năm qua, chúng ta có nhiều cố gắng trong việc đưa các quy định của pháp luật đầu tư nước ngoài và các quy định về đầu tư trong nước xích lại gần nhau. Một khi còn tồn tại hai hệ thống quy phạm pháp luật riêng điều chỉnh đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, thì không thể có khái niệm “sân chơi” bình đẳng cho hoạt động đầu tư trong nước, bất kể đó là đầu tư nước ngoài hay đầu tư trong nước. Tất nhiên, do hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ mạnh, nên nếu phải vào cùng một “sân chơi”, trong cùng một “mặt bằng” với các nhà đầu tư nước ngoài, có tiềm lực kinh tế, giàu kinh nghiệm, có công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại hơn hẳn chúng ta, thì các doanh nghiệp Việt Nam không thể cạnh tranh nổi. Chính vì vậy, trước mắt vẫn cần phải có hành lang pháp lý riêng cho từng loại đối tượng. Nhưng do xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế đang trở thành vấn đề bức xúc và do yêu cầu của việc hội nhập, các quốc gia đang dần xoá bỏ sự khác biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Việt Nam muốn hoà vào xu thế chung đó thì không có cách nào khác là phải từng bước tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Chúng ta phải tính toán để đưa ra những bước đi thích hợp với trình độ, hoàn cảnh và đặc điểm của Việt Nam. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài “Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” hiện nay mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn đòi hỏi thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại Việt Nam. CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 1.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM Trong đời sống xã hội, pháp luật luôn là một phương tiện quan trọng không thể thay thế để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tổ chức, quản lý đời sống xã hội, bảo đảm cho xã hội ổn định, phát triển, phù hợp với những mục đích mà Nhà nước và xã hội đặt ra. Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X đã ban hành Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, trong đó quy định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân"; Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN ". Quản lý kinh tế nói chung, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng, là chức năng cơ bản của Nhà nước ta trong điều kiện cụ thể hiện nay. Để thực hiện chức năng này, chúng ta phải nhận thức đúng đắn các quy luật kinh tế – xã hội khách quan, khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước và các điều kiện quốc tế, xây dựng chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, sử dụng đồng bộ và hợp lý các công cụ kế hoạch, chính sách và các đòn bẩy kinh tế. Trong hệ thống các công cụ và biện pháp quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng, được thể hiện ở một số nội dung sau đây: Thứ nhất, để điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, Nhà nước có thể và cần phải sử dụng nhiều công cụ, biện pháp và hình thức khác nhau như chính sách, kế hoạch đầu tư trực tiếp nước ngoài, đòn bẩy kinh tế, pháp luật đầu tư nước ngoài... Tuy nhiên, trong số các công cụ, biện pháp đó, pháp luật đầu tư nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi lẽ với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của Nhà nước một cách nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô toàn xã hội. Thứ hai, pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nước, luôn luôn gắn liền với Nhà nước và chỉ Nhà nước mới sử dụng công cụ này. Nhà nước điều chỉnh mọi quá trình xảy ra trong xã hội và hành vi của con người, trong đó có hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước được thực hiện bằng một cơ chế thực thi pháp luật và nhờ có quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị thực hiện ý chí của mình, buộc cả xã hội phải tuân theo và phục tùng bằng cách đề ra pháp luật và thực hiện pháp luật trên thực tế. Nhà nước điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật. Do đó chỉ có điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật thì quyền lực nhà nước mới có ý nghĩa và mới đem lại hiệu quả thiết thực. Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, nên cũng có thể khẳng định, pháp luật đầu tư nước ngoài ra đời từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của nhân dân, trong đó có lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị. Thứ ba, sự phát sinh, phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, sau khi pháp luật đầu tư nước ngoài đã được ban hành, các cơ quan nhà nước phải triệt để tuân thủ trong quá trình thực hiện chức năng quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây cũng là một trong những nội dung cơ bản của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay. Thứ tư, trong nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN, sự tồn tại của pháp luật là một nhu cầu khách quan bắt nguồn từ những đòi hỏi của các quan hệ kinh tế. Đây là điểm khác biệt so với thời kỳ quan liêu, bao cấp, vì ở thời kỳ này, sự tồn tại của pháp luật như một nhu cầu chủ quan bắt nguồn từ những đòi hỏi của Nhà nước, là một phương tiện trong tay Nhà nước để kìm hãm, xóa bỏ những quan hệ kinh tế nào đó một cách duy ý chí. Đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, pháp luật đầu tư nước ngoài được hình thành trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài, tồn tại như một quan hệ nội tại của sự vận động, phát triển kinh tế đối ngoại. Pháp luật đầu tư nước ngoài là hệ thống các quy phạm, chuẩn mực, mà dựa vào đó các nhà đầu tư nước ngoài tìm được "sân chơi", các nhà quản lý có phương tiện để điều khiển "cuộc chơi". Pháp luật đầu tư nước ngoài là mực thước để phân định đúng, sai, kiểm nghiệm và điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phù hợp với nhu cầu xã hội. Sự điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật phải bảo đảm cho hoạt động này vận động theo đúng những quy luật khách quan, không thể áp đặt bằng ý chí chủ quan, duy ý chí. Bằng pháp luật, Nhà nước tạo môi trường và hành lang pháp lý để những nhà đầu tư nước ngoài có thể tự chủ sản xuất kinh doanh, tự bảo vệ lợi ích của mình, đồng thời không làm tổn hại đến lợi ích của các chủ thể khác và toàn xã hội. Thứ năm, trong việc điều chỉnh quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài, pháp luật quy định cho các bên tham gia một số quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định, đồng thời thiết lập cơ chế đảm bảo cho các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó được thực hiện. Vì vậy, khi tham gia vào các quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài do pháp luật điều chỉnh, các chủ thể phải có hành vi phù hợp với các yêu cầu của pháp luật. Tuy nhiên, việc điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật, không chỉ tác động tới các hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà còn tác động đối với toàn xã hội nói chung. 1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 1.2.1. Khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài Để làm sáng tỏ khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài, cần làm rõ khái niệm đầu tư, đầu tư nước ngoài, các hình thức, phương thức đầu tư nước ngoài, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài. 1.2.1.1. Khái niệm đầu tư, đầu tư nước ngoài, hình thức, phương thức đầu tư nước ngoài Khái niệm “đầu tư nước ngoài” Để làm sáng tỏ khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài, trước hết cần làm rõ khái niệm đầu tư. Theo Đại từ điển tiếng Việt, đầu tư là: "Bỏ vốn vào sản xuất, kinh doanh để được hưởng phần lời lãi"1 Xem: Nguyễn Như Ý (chủ biên): Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội, 1998, tr. 610.. . Dưới góc độ khoa học, đầu tư (investment) là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra năng lực sản xuất lớn hơn. Nói cách khác, đầu tư là việc đưa vốn vào một hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lợi nhuận. Vốn đầu tư bao gồm tiền và các tài sản khác như động sản, bất động sản, tài sản hữu hình, tài sản vô hình… Như vậy, có thể đưa ra khái niệm đầu tư như sau: đầu tư là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền hoặc tài sản khác để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận. Về khái niệm đầu tư nước ngoài, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) đã đưa ra định nghĩa: "đầu tư nước ngoài được hiểu là tất cả những loại giá trị vật chất mà nhà đầu tư đưa từ nước ký kết này sang nước ký kết hữu quan theo pháp luật của nước sử dụng đầu tư". Ở khái niệm này, đầu tư nước ngoài được hiểu với nghĩa rất hẹp chỉ bao gồm các giá trị vật chất, còn các loại tài sản vô hình thì lại chưa được đề cập đến. Trong báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 1996: "Đầu tư thương mại và các thỏa thuận chính sách quốc tế", có đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài: "là một khoản đầu tư liên quan đến các quan hệ dài hạn và phản ánh một lợi ích lâu dài và sự kiểm soát một thực thể trong một nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hay công ty mẹ) thông qua một doanh nghiệp thuộc về một nền kinh tế khác, nền kinh tế của nước có nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài". Ở nước ta, ngay từ năm 1977, khái niệm đầu tư nước ngoài đã chính thức được ghi nhận trong Điều lệ Đầu tư của nước ngoài được ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977 (sau đây gọi tắt là Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977): “ Được coi là đầu tư của nước ngoài ở Việt Nam việc đưa vào sử dụng ở Việt Nam những tài sản và vốn sau đây, nhằm xây dựng những cơ sở mới hoặc đổi mới trang bị kỹ thuật, mở rộng các cơ sở hiện có: - Các loại thiết bị, máy móc, dụng cụ (gồm cả những thứ dùng cho việc thí nghiệm), phương tiện vận tải, vật tư kỹ thuật… cần thiết cho mục đích nói trên; - Các quyền sở hữu công nghiệp, bằng sáng chế, phát minh, phương pháp công nghệ, bí mật kỹ thuật (know - how), nhãn hiệu chế tạo… - Vốn bằng ngoại tệ hoặc vật tư có giá trị ngoại tệ, nếu phía Việt Nam thấy cần thiết..” Phân tích khái niệm trên cho thấy, không phải bất cứ sự vận động vốn (tư bản) nào từ nước ngoài vào Việt Nam đều được coi là đầu tư nước ngoài, mà chỉ những tài sản và vốn được quy định tại Điều 2 Điều lệ đầu tư nước ngoài, được đưa vào sử dụng ở Việt Nam mới được coi là đầu tư nước ngoài. Trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành năm 1987, khái niệm đầu tư nước ngoài đã được ghi nhận tại khoản 3 Điều 2 như sau: "Đầu tư nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này". Có thể nói, với quy định mới này, khái niệm đầu tư nước ngoài đã được mở rộng hơn so với khái niệm đầu tư nước ngoài trong Điều lệ đầu tư nước ngoài năm 1977. Trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, khái niệm đầu tư được hiểu theo một nghĩa rộng hơn: "là mọi hình thức đầu tư trên lãnh thổ của một Bên do các công dân hoặc công ty của Bên kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp, bao gồm các hình thức: một công ty hoặc một doanh nghiệp; cổ phần, cổ phiếu và các hình thức góp vốn khác, trái phiếu, giấy ghi nợ và các quyền lợi đối với các khoản nợ dưới các hình thức khác trong công ty; các quyền theo hợp đồng như quyền theo các hợp đồng chìa khóa trao tay, hợp đồng xây dựng hoặc hợp đồng quản lý, các hợp đồng sản xuất hoặc hợp đồng phân chia doanh thu, tô nhượng hoặc các hợp đồng tương tự khác…”. Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm đầu tư nước ngoài như sau: đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư của nước này đưa vốn bằng tiền hoặc tài sản khác vào nước khác để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Trong khái niệm này, yếu tố nước ngoài được thể hiện bằng hai dấu hiệu đặc trưng chính, đó là: có sự tham gia của chủ thể nước ngoài và có sự di chuyển vốn từ nước này sang nước khác. Đầu tư nước ngoài được phân làm hai loại: đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình kinh doanh, trong đó nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn thiết lập ra cơ sở sản xuất, kinh doanh cho riêng mình, tự đứng ra làm chủ sở hữu, tự quản lý hoặc thuê người quản lý cơ sở này (đầu tư 100% vốn), hoặc hợp tác với một hay nhiều doanh nghiệp của nước sở tại thành lập một doanh nghiệp liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh, cùng làm chủ sở hữu, cùng quản lý cơ sở sản xuất, kinh doanh này. Đầu tư gián tiếp nước ngoài là loại hình đầu tư, trong đó nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của cơ sở kinh tế, nhưng không tham gia điều hành cơ sở kinh tế đó. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ là một trong bốn nguồn tài chính nước ngoài được đưa vào một quốc gia, đó là: 1) Viện trợ phát triển chính thức (ODA) và phi chính phủ (NGO); 2) Tín dụng thương mại; 3) Tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu; 4) Vốn đầu tư trực tiếp. Bốn nguồn vốn này có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau, nguồn vốn này là tiền đề để thu hút nguồn vốn khác và tạo điều kiện để trả nợ nguồn vốn khác. Nếu một quốc gia đang phát triển không nhận được vốn ODA đủ mức cần thiết để hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, thì khó có thể thu hút được nguồn vốn FDI và các nguồn vốn tín dụng khác. Nhưng nếu chỉ chú trọng nguồn vốn ODA, mà không tìm cách thu hút nguồn vốn FDI và các nguồn vốn tín dụng khác, thì quốc gia đó sẽ không thể có khả năng để trả nợ vốn ODA. Hình thức đầu tư Thực tiễn đầu tư nước ngoài của nhiều nước trên thế giới cho thấy, có rất nhiều hình thức đầu tư phong phú như: hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hình thức liên doanh, hình thức công ty cổ phần, công ty quản lý vốn, chi nhánh công ty nước ngoài, hình thức gia công, lắp ráp... Ở nước ta, đầu tư trực tiếp nước ngoài được pháp luật đầu tư nước ngoài hiện hành quy định dưới ba hình thức: - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là loại hình đầu tư, trong đó nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh ở nước ta và có tư cách pháp nhân của Việt Nam.. - Doanh nghiệp liên doanh là loại hình đầu tư, trong đó nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước cùng góp vốn thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. - Hợp đồng hợp tác kinh doanh là loại hình đầu tư, trong đó nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước cùng bỏ vốn kinh doanh theo một hợp đồng, mỗi bên giữ tư cách pháp nhân riêng, không thành lập pháp nhân mới. Phương thức đầu tư Có thể hiểu phương thức đầu tư là cách tổ chức đưa vốn vào kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài. Pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định các phương thức sau: - BOT (Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao) là phương thức, trong đó nhà đầu tư nước ngoài ký kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, tự kinh doanh để thu hồi vốn, lợi nhuận trong thời hạn nhất định, sau thời hạn đó chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. - BTO (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh) là phương thức, trong đó nhà đầu tư nước ngoài ký kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. - BT (Hợp đồng xây dựng
Luận văn liên quan