Khóa luận Quan hệ giữa hiện tượng bị bắt nạt và nhận thức bản thân ở học sinh trung học phổ thông

Bắt nạt là hành vi cố ý gây tổn thương về mặt tinh thần hay thể xác diễn ra trong một mối quan hệ. Bắt nạt được xem là vấn đề nghiêm trọng về mặt cá nhân, xã hội và học đường, ảnh hưởng tới số lượng không nhỏ học sinh. Hiện tượng bắt nạt có thể khiến môi trường học đường kém thân thiện, thậm chí kém an toàn cho học sinh. Bắt nạt cũng có thể có những hậu quả lâu dài, cho cả nạn nhân (học sinh bị bắt nạt) và thủ phạm (học sinh đi bắt nạt). Ở độ tuổi từ 9 đến dậy thì, nhận thức phát triển mạnh mẽ và phân thành hai loại chính là nhận thức tích cực và nhận thức tiêu cực ngày càng rõ rệt (Harter, 1990). Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy mối liên hệ rõ rệt giữa việc bị bắt nạt và sự phát triển của các mẫu nhận thức tiêu cực về bản thân ở độ tuổi 9 đến dậy thì (ví dụ như nghiên cứu của Cole, Maxwell, Dukewich, & Yosick, 2010 trên trẻ em Mỹ; nghiên cứu của Phạm Thị Ánh & Nguyên Thị Si, 2011 trên trẻ em Việt Nam). Tuy vậy chưa có nghiên cứu về mối liên hệ này ở vị thành niên và thanh niên, đặc biệt là lứa tuổi sau dậy thì (khoảng 15 đến 18 tuổi). Nhận thức bản thân có thể được định nghĩa là một hệ thống phức tạp, năng động, có tính tổ chức về những niềm tin, thái độ và quan niệm học được. Ví dụ một đứa trẻ tin mình là vô dụng, đứa trẻ đó sẽ nghĩ rằng mình không thể tự làm được gì, và chỉ tập trung vào những điểm yếu và thất bại của mình, và phủ nhận những gì mình làm được. Rất nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc bị bắt nạt có mối quan hệ chặt chẽ tới nhiều loại hình nhận thức khác nhau. Cụ thể là, bắt nạt có liên hệ với những sự gán ghép tiêu cực đối với nạn nhân của nó. Khi một đứa trẻ bị trêu chọc, và thủ phạm liên tục dùng những lời lẽ hoặc ám chỉ nạn nhân như là một kẻ xấu xa, yếu, điên, hâm, đần độn, ngu dốt, ngớ ngẩn v.v, từ đó sẽ ảnh hưởng tới cách nạn nhân nhìn nhận về chính bản thân mình. Trong trường hợp này, nhận thức tiêu cực sẽ tăng lên và nhận thức tích cực giảm xuống. Các kết quả nghiên cứu cắt dọc hoặc cắt ngang (dài hạn) đều chứng minh mối liên hệ trên là đúng (Callaghan and Joseph, 1995; Neary & Joseph, 1994; Graham and Juvonen, 1998) [12, tr. 5].

doc97 trang | Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 2684 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Quan hệ giữa hiện tượng bị bắt nạt và nhận thức bản thân ở học sinh trung học phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH SÁCH BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1. Số phiếu đạt yêu cầu và số phiếu không đạt yêu cầu. 36 Biểu đồ 2.2. Tỉ lệ phần trăm học sinh điều tra ở 3 trường trung học phổ thông 37 Biểu đồ 2.3. Tỉ lệ phần trăm học sinh nam và nữ. 37 Biểu đồ 2.4. Tỉ lệ học sinh 3 khối lớp 10 – 11 – 12. 37 Biểu đồ 2.5. Tỉ lệ phần trăm học lực của học sinh. 38 Biểu đồ 2.6 : Tỉ lệ phần trăm học sinh bị bắt nạt ở 4 mức độ. 43 Biểu đồ 2.7 . Tỉ lệ phần trăm học sinh bị bắt nạt ở các hình thức khác nhau 48 Biểu đồ 2.8: Tỉ lệ phần trăm bắt nạt ở nam và nữ về từng lĩnh vực bắt nạt. 49 Biểu đồ 2.9. Điểm trung bình của bắt nạt tổng và các hình thức bắt nạt ở nam và nữ. 51 Biểu đồ 2.10. Điểm trung bình bắt nạt tổng và các hình thức bắt nạt ở các khối lớp. 52 Biểu đồ 2.11. Điểm trung bình của bắt nạt tổng và các hình thức bắt nạt ở trường trung học phổ thông dân lập và trung học phổ thông công lập. 55 Biểu đồ 2.12. Điểm trung bình của bắt nạt tổng và các hình thức bắt nạt ở 3 cấp học 57 Biểu đồ 2.13. Điểm trung bình của các lĩnh vực nhận thức do bắt nạt gây nên. 66 Biểu đồ 2.14. Sự khác nhau về nhận thức của nam và nữ ở các nhóm nhận thức. 67 Biểu đồ 2.15. Điểm trung bình thang đo bắt nạt tổng và nhận thức tổng 68 DANH SÁCH BẢNG Bảng 2.1. Số lượng và tỉ lệ trẻ bị bắt nạt ở các hình thức và mức độ khác nhau. 40 Bảng 2.2. Tương quan giữa các thang đo và tiểu thang đo 41 Bảng 2.3. Tỉ lệ học sinh bị bắt nạt khi so sánh với một số ý nghĩ tiêu cực 42 Bảng 2.4. Số lượng và (Phần trăm %) ở mỗi phương án trả lời trong tiểu thang đo bắt nạt về các mối quan hệ. 44 Bảng 2.5. Số lượng và (Phần trăm %) ở mỗi phương án trả lời trong tiểu thang đo bắt nạt về thể chất. 45 Bảng 2.6. Số lượng và (Phần trăm %) ở mỗi phương án trả lời trong tiểu thang đo bắt nạt về sở hữu. 46 Bảng 2.7. Số lượng và (Phần trăm %) ở mỗi phương án trả lời trong tiểu thang đo bắt nạt về giá trị nhân phẩm. 47 Bảng 2.8. Điểm trung bình của bắt nạt tổng và các hình thức bắt nạt ở nam và nữ. 50 Bảng 2.9. Điểm trung bình của bắt nạt tổng và các hình thức bắt nạt ở các khối lớp. 52 Bảng 2.10. Điểm trung bình bắt nạt tổng và các hình thức bắt nạt ở các trường. 53 Bảng 2.11. Điểm trung bình của bắt nạt tổng và các hình thức bắt nạt ở trường trung học phổ thông dân lập và trung học phổ thông công lập. 54 Bảng 2.12: Điểm trung bình của bắt nạt tổng và các hình thức bắt nạt ở học sinh thành phố và học sinh nông thôn. 56 Bảng 2.13: Điểm trung bình của bắt nạt tổng và các hình thức bắt nạt ở 3 cấp học. 57 Bảng 2.14. Tương quan giữa ngoại hình và kinh tế với hiện tượng bắt nạt. 58 Bảng 2.15. Nhận thức về những ý nghĩ thù địch (Số lượng và tỉ lệ phần trăm%) 59 Bảng 2.16. Nhận thức về những thất bại của bản thân (Số lượng và tỉ lệ phần trăm) 61 Bảng 2.17. Nhận thức về những mối đe dọa từ xã hội hoặc môi trường xung quanh (Số lượng và tỉ lệ phần trăm) 62 Bảng 2.18. Nhận thức về những mối đe dọa về thể chất (Số lượng và Tỉ lệ phần trăm) 64 Bảng 2.19. Điểm trung bình, tỉ lệ phần trăm chọn đáp án thường xuyên và luôn luôn ở các câu hỏi trong 4 thang đo nhận thức. 65 Bảng 2.20. Sự khác nhau về nhận thức của nam và nữ ở các nhóm nhận thức. 66 Bảng 2.21. Sự khác nhau về nhận thức của 3 khối lớp ở các nhóm nhận thức. 68 Bảng 2.22. Sự khác nhau về nhận thức của 3 trường trung học phổ thông ở các nhóm nhận thức. 69 Bảng 2.23. Sự khác nhau về nhận thức của 3 cấp học ở các nhóm nhận thức. 70 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Bắt nạt là hành vi cố ý gây tổn thương về mặt tinh thần hay thể xác diễn ra trong một mối quan hệ. Bắt nạt được xem là vấn đề nghiêm trọng về mặt cá nhân, xã hội và học đường, ảnh hưởng tới số lượng không nhỏ học sinh. Hiện tượng bắt nạt có thể khiến môi trường học đường kém thân thiện, thậm chí kém an toàn cho học sinh. Bắt nạt cũng có thể có những hậu quả lâu dài, cho cả nạn nhân (học sinh bị bắt nạt) và thủ phạm (học sinh đi bắt nạt). Ở độ tuổi từ 9 đến dậy thì, nhận thức phát triển mạnh mẽ và phân thành hai loại chính là nhận thức tích cực và nhận thức tiêu cực ngày càng rõ rệt (Harter, 1990). Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy mối liên hệ rõ rệt giữa việc bị bắt nạt và sự phát triển của các mẫu nhận thức tiêu cực về bản thân ở độ tuổi 9 đến dậy thì (ví dụ như nghiên cứu của Cole, Maxwell, Dukewich, & Yosick, 2010 trên trẻ em Mỹ; nghiên cứu của Phạm Thị Ánh & Nguyên Thị Si, 2011 trên trẻ em Việt Nam). Tuy vậy chưa có nghiên cứu về mối liên hệ này ở vị thành niên và thanh niên, đặc biệt là lứa tuổi sau dậy thì (khoảng 15 đến 18 tuổi). Nhận thức bản thân có thể được định nghĩa là một hệ thống phức tạp, năng động, có tính tổ chức về những niềm tin, thái độ và quan niệm học được. Ví dụ một đứa trẻ tin mình là vô dụng, đứa trẻ đó sẽ nghĩ rằng mình không thể tự làm được gì, và chỉ tập trung vào những điểm yếu và thất bại của mình, và phủ nhận những gì mình làm được. Rất nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc bị bắt nạt có mối quan hệ chặt chẽ tới nhiều loại hình nhận thức khác nhau. Cụ thể là, bắt nạt có liên hệ với những sự gán ghép tiêu cực đối với nạn nhân của nó. Khi một đứa trẻ bị trêu chọc, và thủ phạm liên tục dùng những lời lẽ hoặc ám chỉ nạn nhân như là một kẻ xấu xa, yếu, điên, hâm, đần độn, ngu dốt, ngớ ngẩn v.v, từ đó sẽ ảnh hưởng tới cách nạn nhân nhìn nhận về chính bản thân mình. Trong trường hợp này, nhận thức tiêu cực sẽ tăng lên và nhận thức tích cực giảm xuống. Các kết quả nghiên cứu cắt dọc hoặc cắt ngang (dài hạn) đều chứng minh mối liên hệ trên là đúng (Callaghan and Joseph, 1995; Neary & Joseph, 1994; Graham and Juvonen, 1998) [12, tr. 5]. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh thực trạng trẻ bị bắt nạt cũng như những hậu quả tiêu cực của nó. Còn ở Việt Nam, gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng liên tục đưa tin về rất nhiều trường hợp những học sinh bị bạn bè cùng trang lứa đánh đập hành hung như báo Dân trí (dantri.com.vn) ngày 01/04/2009 có bài viết “Bị đánh tập thể, một nữ sinh ngất xỉu”. Không chỉ đơn thuần bắt nạt, đánh đập, hành hung bạn mà những kẻ bắt nạt còn quay lại những hình ảnh bắt nạt để tung lên mạng, ngày 12/03/2010 có bài viết: “Thêm một clip học sinh bị bạn hành hung dã man”, “Sốc với clip nữ sinh đánh đập xé áo bạn trên phố”. Học sinh bị bắt nạt có thể hình thành ý định trả thù, và khi trả thù thì rất khốc liệt, đã để lại những hậu quả đáng tiếc như trên trang Pháp luật của báo Tiền phong (tienphong.vn) ngày 23/02/2008 có đưa vụ án “Học sinh lớp 12 nhờ côn đồ đâm chết bạn học”; trên báo điện tử VnExpress - tin nhanh Việt Nam (vnexpress.net) ngày 30/09/2009 có bài viết “Học sinh đâm chết bạn vì bị bắt nạt”; trên báo vtc (vtc.vn) ngày 02/09/2010 cũng có bài viết tương tự “Bị bắt nạt, nữ sinh lớp 10 rút dao đâm chết bạn”. Hình thức bắt nạt rất đa dạng, ngoài những hành vi đánh đập, hành hung mà còn có rất nhiều hình thức bắt nạt khác như tẩy chay, cô lập, nói xấu sau lưng, lấy trộm đồ hay bóc lột tiền bạc và tài sản của người bị bắt nạt. Trên báo Dân trí (dantri.com.vn) ngày 03/05/2011 có bài viết về việc con bị trấn lột cả năm mà bố mẹ không biết. Còn rất nhiều thông tin khác từ nhiều nguồn khác nhau, đều cho thấy một thực tế là học sinh bị bắt nạt và sự nhận thức về việc đó chưa tốt nên đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Trước thực tế đó, Bộ giáo dục đã yêu cầu các Sở báo cáo về bạo lực học đường. Trên báo Dân trí thứ trưởng Bộ giáo dục đào tạo Nguyễn Thị Nghĩa phát biểu rằng: “Khi xem clip nữ học sinh đánh nhau trên báo Dân trí tôi thực sự rất choáng và thấy quá ghê sợ với hình ảnh phản giáo dục này Tôi rất sốt ruột và đã yêu cầu Vụ Công tác Học sinh - Sinh viên chỉ đạo Sở GD-ĐT Hà Nội cần điều tra ngay xem ở trường nào và nhờ công an vào cuộc” [12, tr.5]. Thông qua một vài dẫn chứng được nêu ở trên, có thể nói, bắt nạt đã và đang là vấn đề nóng hổi, thu hút được sự quan tâm của cả cộng đồng và xã hội. Với những lí do trên, tác giả quyết định thực hiện đề tài “Quan hệ giữa hiện tượng bị bắt nạt và nhận thức bản thân ở học sinh trung học phổ thông”. 2. Mục đích nghiên cứu 2.1. Tìm hiểu hiện trạng học sinh bị bắt nạt bởi bạn cùng lứa. 2.2. Tìm hiểu cách học sinh nhìn nhận về bản thân mình thông qua thang đo nhận thức. 2.3. Tìm hiểu mối quan hệ giữa việc bị bắt nạt và nhận thức bản thân ở học sinh trung học phổ thông. 2.4. Đưa ra một số khuyến nghị cho công tác chăm sóc sức khỏe tâm thần - tâm lý trẻ em trong trường học. 3. Giả thuyết nghiên cứu 3.1. Hiện tượng học sinh bị bắt nạt có tồn tại ở học sinh trung học phổ thông và dưới các hình thức khác nhau. 3.2. Việc bị bắt nạt có liên quan một cách có ý nghĩa với nhận thức tiêu cực về bản thân. 3.3. Có sự khác nhau về hiện tượng bắt nạt và nhận thức bản thân giữa nam và nữ, giữa các cấp học, các lớp học, các trường học, vùng miền khác nhau 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Tìm hiểu các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về nhận thức và bắt nạt ở học sinh, bao gồm các khái niệm bắt nạt, khái niệm nhận thức; thực trạng bắt nạt và nhận thức về bản thân ở học sinh; mối liên hệ giữa bắt nạt và nhận thức. 4.2. Dùng Thang đo bắt nạt của các tác giả Mynard và Joseph và thang đo nhận thức bản thân ở trẻ em (CATS) để điều tra trên 393 học sinh trung học phổ thông. 4.3. Tập hợp và xử lý số liệu dùng phần mềm SPSS, từ đó phân tích kết quả nghiên cứu. 4.4. Đưa ra những khuyến nghị cho công tác chăm sóc sức khỏe tâm lý học đường. 5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu: Mối quan hệ giữa hiện tượng bắt nạt và nhận thức bản thân ở học sinh trung học phổ thông. 5.2. Khách thể nghiên cứu: 393 học sinh từ 3 trường trung học phổ thông. - Trường trung học phổ thông Tây Hồ - Hà Nội -Trường trung học phổ thông Đinh Tiên Hoàng – Hà Nội -Trường trung học phổ thông Thuận Thành số I – Huyện Thuận Thành – Tỉnh Bắc Ninh. 6. Thời gian và địa bàn nghiên cứu 6.1. Thời gian: Từ tháng 02 đến tháng 05 năm 2011. 6.2. Địa điểm: Trường trung học phổ thông Tây Hồ - Hà Nội; Trường trung học phổ thông Đinh Tiên Hoàng – Hà Nội; Trường trung học phổ thông Thuận Thành số I – Huyện Thuận Thành – Tỉnh Bắc Ninh. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp phân tích tài liệu: Tìm hiểu những nghiên cứu và số liệu sẵn có từ các giáo trình, sách tham khảo, các bài báo khoa học, các luận văn, luận án, các trang web của các tổ chức y tế, các viện nghiên cứu và các trường đại học. 7.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Thang đo bắt nạt của Mynard và Joseph (2000), thang đo nhận thức CATS (Children’s Automatic Thoughts Scale) của Schniering và Rapee (2002). 7.2.1. Để đo mức độ bị bắt nạt ở học sinh, tác giả dùng thang đo của Mynard và Joseph (2000). Thang đo này được dịch ra tiếng Việt bởi một người Việt giỏi tiếng Anh và được xem và chỉnh sửa cho lại bởi một người Mỹ giỏi tiếng Việt. Một số câu trong bảng hỏi như “Bảo bạn khác không chơi với tôi nữa”, hay “Nói xấu tôi với người khác”, hay “Đấm tôi” (xem phụ lục) mô tả những hành vi bắt nạt. Phương án trả lời bao gồm 4 mức độ, tương ứng với điểm đánh giá thang 4 là: 0 = "Không bao giờ", 1= "Đôi khi", 2 = "Thường xuyên", 3 = "Luôn luôn". Phiên bản mà tác giả sử dụng để phân tích bao gồm 20 câu, bao trùm 4 lĩnh vực : (1) Bắt nạt về các mối quan hệ; (2) Bắt nạt về thể chất/cơ thể; (3) Bắt nạt về sở hữu; (4) Bắt nạt về giá trị, hay hạ thấp giá trị nạn nhân. Trong nghiên cứu này, hệ số alpha Cronbach cho toàn bộ thang đo 20 câu là 0.825, ở mức rất phù hợp, cho thấy thang đo này có đủ độ tin cậy để đo hiện tượng trẻ bị bắt nạt. 7.2.2. Thang đo suy nghĩ tự động ở trẻ em (The Children's Automatic Thoughts Scales - CATS) của các tác giả Shniering và Rapee (2002) là một bảng hỏi tự thuật được thiết kế nhằm mục đích đánh giá nhận thức tiêu cực về bản thân ở trẻ em và thanh thiếu niên. Thang đo này cũng được dịch ra tiếng Việt bởi một người Việt giỏi tiếng Anh và được xem và chỉnh sửa cho lại bởi một người Mỹ giỏi tiếng Việt. Thang đo yêu cầu trẻ đánh giá mức độ thường xuyên (tần suất) những suy nghĩ trong tuần qua. Phiên bản mà tác giả sử dụng cho nghiên cứu này bao gồm 40 câu. Phương án trả lời cho mỗi câu bao gồm: 0=Hoàn toàn không, 1=Thỉnh thoảng, 2=Khá thường xuyên, 3=Thường xuyên, 4=Luôn luôn). Thang đo CATS tính điểm toàn bộ thang đo cũng như từng lĩnh vực nhận thức. Có 4 tiểu thang đo là: (1) Những đe dọa cá nhân; (2) Những đe dọa từ xã hội hoặc từ môi trường bên ngoài; (3) Những thất bại của bản thân và (4) Những ý định thù địch. Trong nghiên cứu này, hệ số alpha Cronbach của toàn bộ bảng hỏi 40 câu là 0.942, cho thấy độ tin cậy phù hợp của bảng hỏi. 7.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu bằng xác suất thống kê: Sử dụng phần mềm Excel để nhập dữ liệu và phần mềm SPSS để phân tích. Ngoài các phân tích thống kê thông dụng như phần trăm, tỉ lệ, tính tổng, điểm trung bình còn dùng ANOVA để phân tích và so sánh các nhóm. Đồng thời sử dụng tương quan (correlations) để tìm hiểu mối quan hệ giữa các thang đo và tiểu thang đo, và một số mối quan hệ khác. 8. Dự kiến kết quả nghiên cứu - Nêu được mối quan hệ giữa thang đo bắt nạt, các tiểu thang đo bắt nạt với thang đo nhận thức tiêu cực ở bản thân và các tiểu thang đo nhận thức. - Nêu được sự khác biệt về bắt nạt và nhận thức bản thân giữa nam và nữ, giữa các cấp học, các lớp học, các vùng miền, các trường học khác nhau. - Đưa ra được tỉ lệ học sinh bị bắt nạt ở từng hình thức, ở từng mức độ và tỉ lệ học sinh có nhận thức tiêu cực ở từng lĩnh vực. - Cuối cùng, đưa ra được những khuyến nghị trong công tác chăm sóc sức khỏe tâm lý học đường. 9. Kế hoạch nghiên cứu Dự kiến đề tài được thực hiện trong vòng 9 tháng kể từ tháng 9 năm 2010 đến tháng 5 năm 2011. Nội dung công việc Thời gian dự kiến Nghiên cứu lý luận: - Thu thập các bài báo, các công trình nghiên cứu khoa học, các luận văn, luận án có liên quan đến hiện tượng bắt nạt ở học sinh. - Nghiên cứu các tư liệu sách giáo trình, sách tham khảo và tư liệu điện tử về cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu. Từ 05/ 09/ 2010 đến 30/ 12/ 2010. Xây dựng đề cương khóa luận và viết chương cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu. Từ 05/ 01/ 2011 đến 15/ 02/ 2011. Phát phiếu điều tra (bảng hỏi về bắt nạt và nhận thức bản thân) Từ 16/ 02/ 2011 đến 28/ 02/ 2011. Nhập số liệu và xử lý số liệu Từ 01/ 03/ 2011 đến 10/ 03/ 2011. Phân tích số liệu, tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân và đưa ra những giải pháp hợp lý. Từ 11/ 03/ 2011 đến 25/ 03 / 2011 Hoàn thiện đề tài và viết khóa luận Từ 26/ 03/ 2011 đến 10/ 05/ 2011. Chuẩn bị báo cáo và trả lời phản biện 11/ 05/ 2011 đến 30/ 05/ 2011 10. Cấu trúc của khóa luận 1. Mở đầu 2. Chương 1: Cơ sở lý luận 3. Chương 2: Nghiên cứu thực trạng bắt nạt và nhận thức bản thân ở học sinh 4. Chương 3: Một số biện pháp giáo dục cải thiện tình trạng bắt nạt và giúp nâng cao nhận thức bản thân ở học sinh 5. Kết luận và khuyến nghị 6. Tài liệu tham khảo 7. Phụ lục CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Các nghiên cứu về hiện tượng bắt nạt Các nhà khoa học trên thế giới đã bắt đầu nghiên cứu đến hiện tượng bắt nạt từ thập niên 70, với nghiên cứu đầu tiên của Tiến sĩ Dan Olweus, một nhà khoa học Na Uy, được xem như người mở đường và là “cha đẻ” của các nghiên cứu về vấn đề bắt nạt và ngược đãi. Olweus định nghĩa theo một cách chung nhất, bắt nạt trong trường học như một “hành vi tiêu cực được lặp đi lặp lại, có ý định xấu của một hoặc nhiều học sinh nhằm trực tiếp chống lại một học sinh, người có khó khăn trong việc tự bảo vệ bản thân”. Đa số bắt nạt xảy ra ở những học sinh có vẻ ngoài không hề bộc lộ một sự khiêu khích hay xúi giục [2]. Trong cuốn sách “Bắt nạt ở trường học, chúng ta biết gì và chúng ta có thể làm gì” (1993), tiến sĩ Olweus đã chỉ ra đặc điểm của phần lớn những học sinh có thể là người đi bắt nạt và đặc điểm của những học sinh có nguy cơ là nạn nhân của bị bắt nạt. Năm 2001 một nghiên cứu được thực hiện bởi Tiến sĩ tâm lý Tonja Nansel và đồng nghiệp chỉ ra rằng trong số hơn 15000 học sinh Mỹ từ lớp 6 đến lớp 10 có khoảng 17% học sinh cho biết các em thỉnh thoảng hoặc thường xuyên bị bắt nạt trong cả năm học. Gần 19% cho rằng các em thỉnh thoảng hoặc thường xuyên bắt nạt các bạn khác và 6% nói rằng họ vừa đi bắt nạt người khác vừa là nạn nhân của bắt nạt. Rõ ràng là trẻ trai bắt nạt người khác nhiều hơn trẻ gái, và một tỉ lệ lớn các bé gái – khoảng 50% - nói rằng chúng thường bị bắt nạt bởi các bạn trai. Mặc dù bắt nạt là một vấn đề lớn giữa những cậu con trai, nhưng nó cũng xảy ra tương đối nhiều giữa các cô gái. Bắt nạt về mặt thể chất ít phổ biến giữa các cô gái hơn, họ thường dùng những cách quấy rầy xảo quyệt và gián tiếp như: cô lập một người trong nhóm, loan tin đồn trong một thời gian dài, lôi kéo các bạn bè khác đứng về phía họMột vài hình thức bắt nạt khác đôi khi cũng gây tai hại và sầu não như các hình thức công kích trực tiếp và công khai. Những nghiên cứu gần đây càng cho thấy sự phức tạp và mối nguy hại của những hành vi bắt nạt ở tuổi học trò. Khoảng 22,6% trẻ mẫu giáo bị bắt nạt từ mức độ trung bình đến nặng, khoảng 10% trẻ từ 8 đến 12 được bạn cùng lớp xem là “nạn nhân thường xuyên” của bắt nạt (Brock, 2005). Bắt nạt không chỉ gây hậu quả xấu cho nạn nhân trong thời điểm bị bắt nạt (Claghan & Joseph, 1995); Olweus, 1993, 1997; Rigby, 1998; Slee, 1996), mà còn gây hậu quả về mặt phát triển cảm xúc sau này của trẻ (Kochenderfer & Ladd, 1996; Olweus, 2001). Bắt nạt đã làm cho môi trường học tập trở nên không an toàn. Nhiều em cảm thấy sợ hãi khi đi đến trường và ở trường tới mức các em nghỉ học ít nhất một lần trong tháng. 56% nam và 33% nữ cho biết là các em sợ hãi khi trở thành nạn nhân của bạo lực học đường. 16% nữ và 21% nam đem vũ khi đi để phòng vệ. Chính những nỗi sợ hãi về bạo lực học đường đã thúc đẩy các em làm như vậy (Noaks & Noaks 2000). Nạn nhân của bắt nạt và bạo lực học đường bị ảnh hưởng cả về mặt học tập lẫn xã hội. Nạn nhân thường có điểm tự đánh giá bản thân thấp hơn và mức độ lo âu và trầm cảm cao hơn so với nhóm không phải là nạn nhân (Gilmartin). Nạn nhân không chỉ bị tấn công mà cách em cũng bị cô lập với các bạn (Bulack, Fulbright and Williams 2003). Là nạn nhân bạo hành cũng có nhiều khả năng sẽ trở thành người bạo hành trong tương lai (Osofsky 2001). Brockenbrough (2002) nghiên cứu về nạn nhân bị bạo hành, nghiên cứu cho thấy những sinh viên vừa bị bạo hành vừa có thái độ hung dữ (hung tính) có nhiều hành vi có nguy cơ cao nhất so với bạn cùng lứa. Hành vi có nguy cơ như: sở hữu vũ khí, sử dụng rượu và thuốc phiện, tham gia vào băng nhóm và đánh nhau ở trường. Bắt nạt học đường cũng gây ra những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế. Phí này bao gồm: chăm chữa về tinh thần và thể chất, phí công an, tài sản bị hư hại, phí bắt giữ, phí cai nghiện, phí do bỏ học và lớn lên không có việc (Bagley & Pritchard, 1998). Bắt nạt có ảnh hưởng đến sức khoẻ tâm thần: Trong các mẫu chọn học sinh trung đã kiểm tra tại Istabul, Thổ Nhĩ Kỳ, tỷ lệ bị bắt nạt cao và liên quan đến biểu hiện của trầm cảm. Sự tiếp tục trải nghiệm bạo lực và căng thẳng trong các mối quan hệ xã hội sẽ dẫn đến các biểu hiện tâm thần. (Sabuncuoğlu, O; Ekinci, Ö; Bahadir, T; Akyuva, Y; Altinöz, E; Berkem, M, 2006). Thanh thiếu niên nam là nạn nhân của bắt nạn cùng lứa trải nghiệm mức độ stress và lo lắng cao. Các em cho rằng môi trường trường học của các em không an toàn và sợ có bạo lực học đường. (Reuter-Rice, Karin Eve, 2006) Ngoài những hậu quả về mặt xã hội như bị cô lập, bị loại khỏi nhóm bạn, và hậu quả học tập như học giảm sút, ít tham gia hoạt động trường lớp (Ross, 2006). Bắt nạt có thể gây nhiều hậu quả nghiêm trọng về mặt cảm xúc và nhận thức ở nạn nhân, như cô đơn, lo âu, trầm cảm, thu mình, kém tự tin. Tình trạng bắt nạt giữa học sinh với học sinh ngày càng là vấn đề bức xúc của xã hội, nên được nhiều nhà tâm lý học và giáo dục học quan tâm nghiên cứu. Từ việc phát hiện ra những hậu quả nghiêm trọng của bắt nạt đã khiến cho các nhà tâm lý học và giáo dục học nhận thấy cần tìm ra những nguyên nhân gây ra hiện tượng bắt nạt, từ đó sẽ đề xuất những giải pháp giảm thiểu hiện tượng bắt nạt. Çetinkaya và cộng sự (2009) cho rằng: điều kiện kinh tế gia đình có liên quan đến hành vi bạo lực học đường giữa học sinh với h
Luận văn liên quan