Ngày 07/11/2006 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng là VN chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), đánh dấu bước chuyển mình mới của nền kinh tế VN với nhiều cơ hội và thách thức mới. Một trong những thay đổi quan trọng mà VN cần phải thực hiện để theo kịp đà tiến của các nước trong khu vực là phải mở rộng thị trường cho các đối tác thương mại và cho phép tư nhân tham gia vào mọi hoạt động kinh tế, nhanh chóng mở cửa thị trường nội địa cho các nhà đầu tư quốc tế trong các lĩnh vực dịch vụ và chế tạo, đồng thời bãi bỏ hàng rào thuế quan đánh trên các mặt hàng nhập khẩu. Tiến trình mở rộng kinh tế nhanh hơn và nhiều hơn đã gây nguy hại cho các nhà sản xuất trong nước cũng như sách lược phát triển kinh tế-xã hội của chính phủ. Để hội phập kinh tế thế giới VN đã phải thay đổi rất nhiều: điều chỉnh và ban hành thêm những điều luật mới, thay đổi chính sách tiền lương, điều chỉnh lại giá cả. Sự thay đổi kinh tế quá nhanh cùng với những biến động của thị trường thế giới đã đưa đến tình trạng bong bóng đầu tư, giá cả hàng hoá tăng nhanh, lạm phát.trong khi đó thì năng lực quản lý cũng như các công cụ điều tiết nền kinh tế của chính phủ còn chưa theo kịp và chưa thực sự phát huy hiệu quả, dẫn đến hậu quả là lạm phát ngày càng cao, gây khó khăn cho đời sống của nhiều tầng lớp dân cư đặc biệt là người nghèo. Lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế vì nó làm giảm năng suất lao động, lạm phát bóp méo mức độ khan hiếm tương đối (phản ánh qua giá cả) của các nguồn lực sản xuất và do đó bóp méo các quyết định đầu tư và sự phân bổ của các nguồn lực khan hiếm này. Lạm phát còn làm giảm mức khấu trừ thực tế cho phép trong thuế doanh nghiệp đối với khấu hao tài sản cố định và làm tăng giá thuê tư bản, do đó làm giảm tích luỹ vốn. Trong thời kỳ có lạm phát, hàm lượng thông tin liên quan đến biến động giá cả giảm đi, dẫn đến các nhà đầu tư có thể mắc sai lầm trong việc đưa ra quyết định đầu tư của mình, hiệu quả kinh tế giảm, chi phí sản xuất tăng cao,. nhiều doanh nghiệp sẽ phải ngừng sản xuất, giá cả hàng hoá tăng sẽ gây nhiều khó khăn cho đời sống dân cư khi mà tiền lương và lãi suất không kịp thích ứng. Tuy nhiên, trước những khó khăn và thách thức mới buộc Viêt Nam phải tự mình nỗ lực vươn lên, chính phủ không ngừng tìm kiếm và cải thiện các công cụ, chính sách điều tiết để khắc phục và giải quyết hậu quả, các doanh nghiệp phải tự đổi mới sản xuất để cải thiện lợi nhuận.Thách thức cũng là cơ hội để cho VN phát triển, hội nhập thế giới.
80 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4327 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Sử dụng mô hình Kinh tế lượng phân tích tác động của một số yếu tố cơ bản tới lạm phát và dự báo lạm phát ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT 4
1.1 Các quan điểm của các nhà kinh tế học về lạm phát 4
1.3 Các nguyên nhân chính của lạm phát 8
1.4 Các cấp độ của lạm phát 10
1.5 Tác động của lạm phát 13
1.6 Mối quan hệ của một số nhân tố cơ bản tới lạm phát 14
1.7 Các biện pháp kiềm chế lạm phát 28
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 36
2.1 Thực trạng nền kinh tế VN những năm gần đây 36
2.2 Thực trạng lạm phát ở VN trong những năm gần đây 46
CHƯƠNG III ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ CHÍNH TỚI LẠM PHÁT VÀ DỰ BÁO 49
3.1 Mô hình hồi quy 50
3.2 Mô hình ARIMA 56
CHƯƠNG IV KẾT LUẬN VÀ CÁC KIẾN NGHỊ 61
4.1 Kết luận chung 61
4.2 Kiến nghị 61
TỔNG KẾT 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO 66
PHỤ LỤC 67
DANH MỤC BẢNG SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Hình 1.1: Đường Phillips 20
Hình 1.2: Đường Phillips dài hạn 21
Hình 2.1: Biểu đồ xuất-nhập khẩu 44
Hình 3.1: Đồ thị phần dư của mô hình 52
Hình 3.2. Biểu đồ tỷ lệ lạm phát sau khi hiệu chỉnh mùa vụ: 56
Hình 3.4: Đồ thị chuỗi lạm phát dự báo 60
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu căn bản của nền kinh tế VN ( đơn vị: %) 38
Bảng 2.2: Một số chỉ tiêu về chi ngân sách giai đoạn 1996-2007(%) 40
Bảng 2.3: ICOR tính theo giá so sánh năm 1994 41
Bảng 2.4: Chỉ số giá XK và NK (Năm trước = 100) 43
Bảng 2.5: Tăng trưởng và lạm phát quý I giai đoạn 2004 – 2008 48
Bảng 3.1a: Kết quả ước lượng mô hình 51
Bảng 3.1b: Kết quả ước lượng mô hình không có biến DM2 51
Bảng 3.2: Kiểm định White 53
Bảng 3.3: Kết quả kiểm định Breusch- Godfrey 54
Bảng 3.4: Kết quả khắc phục tự tương quan 55
Bảng 3.5. Kiểm định nghiệm đơn vị 57
Bảng 3.6. Lược đồ tương quan của chuỗi tỷ lệ lạm phát 57
Bảng 3.7a. Kết quả ước lượng mô hình AR(1), MA(3) 58
Bảng 3.7b: Lược đồ tương quan của phần dư 59
Bảng 3.8: Chỉ số thời vụ từng quí 59
Bảng 3.9. Kết quả dự báo 60
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 07/11/2006 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng là VN chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), đánh dấu bước chuyển mình mới của nền kinh tế VN với nhiều cơ hội và thách thức mới. Một trong những thay đổi quan trọng mà VN cần phải thực hiện để theo kịp đà tiến của các nước trong khu vực là phải mở rộng thị trường cho các đối tác thương mại và cho phép tư nhân tham gia vào mọi hoạt động kinh tế, nhanh chóng mở cửa thị trường nội địa cho các nhà đầu tư quốc tế trong các lĩnh vực dịch vụ và chế tạo, đồng thời bãi bỏ hàng rào thuế quan đánh trên các mặt hàng nhập khẩu. Tiến trình mở rộng kinh tế nhanh hơn và nhiều hơn đã gây nguy hại cho các nhà sản xuất trong nước cũng như sách lược phát triển kinh tế-xã hội của chính phủ. Để hội phập kinh tế thế giới VN đã phải thay đổi rất nhiều: điều chỉnh và ban hành thêm những điều luật mới, thay đổi chính sách tiền lương, điều chỉnh lại giá cả... Sự thay đổi kinh tế quá nhanh cùng với những biến động của thị trường thế giới đã đưa đến tình trạng bong bóng đầu tư, giá cả hàng hoá tăng nhanh, lạm phát...trong khi đó thì năng lực quản lý cũng như các công cụ điều tiết nền kinh tế của chính phủ còn chưa theo kịp và chưa thực sự phát huy hiệu quả, dẫn đến hậu quả là lạm phát ngày càng cao, gây khó khăn cho đời sống của nhiều tầng lớp dân cư đặc biệt là người nghèo. Lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế vì nó làm giảm năng suất lao động, lạm phát bóp méo mức độ khan hiếm tương đối (phản ánh qua giá cả) của các nguồn lực sản xuất và do đó bóp méo các quyết định đầu tư và sự phân bổ của các nguồn lực khan hiếm này. Lạm phát còn làm giảm mức khấu trừ thực tế cho phép trong thuế doanh nghiệp đối với khấu hao tài sản cố định và làm tăng giá thuê tư bản, do đó làm giảm tích luỹ vốn. Trong thời kỳ có lạm phát, hàm lượng thông tin liên quan đến biến động giá cả giảm đi, dẫn đến các nhà đầu tư có thể mắc sai lầm trong việc đưa ra quyết định đầu tư của mình, hiệu quả kinh tế giảm, chi phí sản xuất tăng cao,... nhiều doanh nghiệp sẽ phải ngừng sản xuất, giá cả hàng hoá tăng sẽ gây nhiều khó khăn cho đời sống dân cư khi mà tiền lương và lãi suất không kịp thích ứng. Tuy nhiên, trước những khó khăn và thách thức mới buộc Viêt Nam phải tự mình nỗ lực vươn lên, chính phủ không ngừng tìm kiếm và cải thiện các công cụ, chính sách điều tiết để khắc phục và giải quyết hậu quả, các doanh nghiệp phải tự đổi mới sản xuất để cải thiện lợi nhuận...Thách thức cũng là cơ hội để cho VN phát triển, hội nhập thế giới.
Mục đích nghiên cứu
Nhận thức được tầm quan trọng vấn đề lạm phát, đặc biệt là trong quá trình hội nhập của nước ta hiện nay, qua thời gian ngắn thực tập tại Viện khoa học tài chính, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Sử dụng mô hình Kinh tế lượng phân tích tác động của một số yếu tố cơ bản tới lạm phát và dự báo lạm phát ở VN” nhằm đi sâu và tìm hiểu rõ hơn về vấn đề lạm phát, từ đó vận dụng vào thực tế, đưa ra những dự báo và giải pháp về vấn đề này.
Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, em đã sử dụng phương pháp phân tích kinh tế, phân tích thống kê và mô hình kinh tế lượng. Phần mềm được sử dụng trong phân tích là Eviews. Thay vì nghiên cứu trực tiếp em đã sử dụng phương pháp nghiên cứu gián tiếp, thông qua CPI để đánh giá ảnh hưởng của một số nhân tố chính tới lạm phát.
Giới hạn nghiên cứu
Do lạm phát là một đề tài nghiên cứu mang tầm vĩ mô, do trình độ và thời gian có hạn nên trong đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp của mình, em chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu và phân tích các tác động của các nhân tố cơ bản tới lạm phát, đưa ra một số kết luận, dự báo, mạnh dạn đề ra một số các giải pháp khắc phục.
Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì kết cấu luận văn tốt nghiệp của em được chia làm bốn phần:
Chương I: Tổng quan về lạm phát
Chương II: Thực trạng lạm phát ở VN
Chương III: Phân tích tác động của một số yếu tố cơ bản tới lạm phát và dự báo lạm phát.
Chương IV: Kết luận và các kiến nghị
Trong quá trình hoàn thiện đề tài này em đã được sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị ở Phòng dự án-Bộ tài chính, chú Bùi Ngọc Tuyến-Viện khoa học tài chính, đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của cô Nguyễn Thị Minh. Em xin chân trọng cảm ơn những sự giúp đỡ quí báu trên đã giúp em hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
Đây là một đề tài cấp thiết, lĩnh vực nghiên cứu ở phạm vi vĩ mô, với nhiều lý thuyết và cách thức phân tích. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do vốn kiến thức và trình độ còn hạn chế nên luận văn tốt nghiệp của em không tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được những sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
1.1 Các quan điểm của các nhà kinh tế học về lạm phát
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển và cận đại thì lạm phát dưới chủ nghĩa tư bản là sự tràn ngập trên các kênh lưu thông một khối lượng dấu hiệu giá trị (tiền giấy) quá thừa dẫn đến làm mất giá từng phần dấu hiệu giá trị so với mệnh giá danh nghĩa của nó. Khi đó các nhà kinh tế cho rằng khối lượng tiền bơm ra lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần thiết hay sức hấp thụ của thị trường hàng hóa; Biểu hiện của hiện tượng này là tiền giấy mất giá so với hàng, với vàng, với ngoại tệ. Người dân không muốn giữ tiền và không muốn đem tiền đến gửi tại các ngân hàng mà chuyển vào đầu tư trực tiếp hoặc ồ ạt rút tiền về để mua sắm bất động sản, tích trữ vàng. Kết quả là hệ thống ngân hàng thì thiếu tiền mặt nghiêm trọng, nạn khất nợ trở thành phổ biến trong khi tiền ngoài lưu thông tràn ngập, các nhu cầu vay qua ngân hàng bị từ chối vì không có nguồn để đáp ứng, người có hàng thì mặc sức tăng giá với tốc độ lớn hơn tốc độ lạm phát, người có thu nhập bằng tiền thì bị tước đoạt dần. Cũng theo các nhà kinh tế học cổ điển thì dường như nạn lạm phát dưới chủ nghĩa tư bản là hoàn toàn do ý chí chủ quan của giai cấp bóc lột thông qua quyền thao túng hệ thống các ngân hàng (trước hết là ngân hàng phát hành) gây ra.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại thì lạm phát là một căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh tế hàng hoá-tiền tệ. Nó không có bản chất giai cấp mà chỉ có bản chất kinh tế. Nó có tính thường trực, nếu không thường xuyên kiểm soát, không có những giải pháp chống lạm phát thường trực, đồng bộ và hữu hiệu thì lạm phát có thể xẩy ra ở bất cứ nền kinh tế hàng hoá nào với bất kỳ chế độ xã hội nào.
Các nhà kinh tế này cho rằng biểu hiện của lạm phát là: khi mức chung của giá cả hàng hoá và chi phí sản xuất đồng thời tăng lên một cách phổ biến trong một khoảng thời gian đủ dài để nhận rõ xu hướng này. Do đó nếu giá cả chỉ tăng ở một vài nhóm hàng mang tính đột biến hay tính thời vụ thì phải loại bỏ các yếu tố đó theo cách tính chỉ số lạm phát cơ bản. Lạm phát phản ánh thuần tuý quan hệ hàng-tiền trên một qui mô phổ biến và có một thời gian đủ dài để khẳng định xu hướng của nó.
1.2 Đo lường lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một mức giá cả trung bình, gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm.
Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc.
Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI): là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung).
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI): đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).
Chỉ số giá sản xuất (PPI): đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau, một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
Ở VN, lạm phát thường được hiểu là sự tăng lên trong chỉ số giá tiêu dùng.
Tỷ lệ lạm phát: Là tốc độ tăng mặt bằng giá của nền kinh tế (giá cả trung bình). Nó cho thấy mức độ lạm phát của nền kinh tế. Thông thường, người ta tính tỷ lệ lạm phát dựa vào một chỉ số giá cả hàng hóa tiêu dùng. Chỉ số có thể được tính cho một tháng, một quý, nửa năm hay một năm.
Tỷ lệ lạm phát được xác định:
Trong đó:: tỷ lệ lạm phát thời điểm t (biểu thị bằng %)
: Chỉ số giá tiêu dùng thời điểm t
: Chỉ số giá tiêu dùng thời điểm t-1
Ý nghĩa
Tỷ lệ lạm phát là thước đo tỷ lệ giảm xuống sức mua của đồng tiền. Nó là một biến số được sử dụng để tính toán lãi suất thực cũng như để điểu chỉnh mức lương.
Có một số công thức khác nữa, ví dụ:
Tỷ lệ lạm phát = (log Po - log P-1) x 100%
Về phương pháp tính ra tỷ lệ lạm phát, hai phương pháp thường được sử dụng là:
Căn cứ thời gian: đo sự thay đổi giá cả của giỏ hàng hóa theo thời gian
Căn cứ thời gian và cơ cấu giỏ hàng hóa. Phương pháp này ít phổ biến hơn vì còn phải tính toán sự thay đổi cơ cấu, nội dung giỏ hàng hóa
1.3 Các nguyên nhân chính của lạm phát
Nguyên nhân của lạm phát bao gồm một tổ hợp rất nhiều nhân tố trong đó có thể chia ra thành một số nhóm chủ yếu là: Lạm phát do cầu kéo; Lạm phát do chi phí đẩy; Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế và Lạm phát do tình trạng không ổn định về kinh tế- chính trị- xã hội tạo thành tâm lý đẩy giá lên và đồng tiền bị mất uy tín trong nền kinh tế. Trong các nhân tố nói trên thì ba nhóm nhân tố đầu tiên có tác động mang tính thường xuyên và cơ bản nhất đến các cấp độ phát sinh của lạm phát.
Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo thực chất là do sự mất cân đối về cung-cầu hàng hoá dịch vụ mà trong đó cầu có khả năng thanh toán lớn hơn so với cung hàng hoá hoặc tốc độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán lớn hơn tốc độ gia tăng của sản xuất, kết quả là trên thị trường, hàng hoá khan hiếm tương đối so với tiền do đồng thời cả hai nhóm nguyên nhân hàng và tiền. Nền sản xuất lạc hậu, kém phát triển, năng suất lao động thấp, năng lực sản xuất đã hầu như đạt tới giá trị sản lượng tiềm năng trong điều kiện trình độ hiện tại nhưng tiền vẫn được bơm ra quá sức hấp thụ thông qua các van: Chi ngân sách quá lớn so với nguồn thu, mở quá rộng biên độ của hạn mức tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc quá nhỏ, lãi suất tái cấp vốn quá thấp, hệ thống thị trường vốn vừa thiếu, vừa không hoàn hảo trong khi ngoại tệ tràn vào nhiều càng tạo thành những "hợp lực" kích cầu lên cao hơn so với cung...
Lạm phát chi phí đẩy
Lạm phát chi phí đẩy là hiện tựơng mặt bằng giá cả thị trường bị đẩy lên do chi phí sản xuất gia tăng quá mức trung bình mà nền kinh tế có thể chịu đựng được: Tăng giá nguyên, nhiên vật liệu; Tốc độ tăng tiền lương lớn hơn tốc độ tăng năng suất lao động quân bình; Chi phí khấu hao lớn trong khi thiết bị lại lạc hậu, tiêu tốn nhiều nguyên liệu và sức lao động nhưng năng suất thấp; Chi phí gián tiếp chiếm tỷ trọng quá cao trong tổng chi phí cho phép làm cho (C+V) chiếm tỷ trọng quá lớn trong tổng giá cả (C+V+M). Đặc điểm của loại lạm phát chi phí đẩy là thường diễn ra trong điều kiện nền sản xuất chưa đạt tới mức giá trị sản lượng tiềm năng so với năng lực hiện tại. Lạm phát này xuất hiện thường đồng thời kéo tốc độ suy thoái kinh tế rất nhanh và khó khắc phục hơn nhiều so với chống lạm phát cầu kéo...;
Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế
Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế xuất hiện khi có quan hệ không bình thường trong các cân đối cơ bản của nền kinh tế như Công nghiệp - Nông nghiệp, Công nghiệp nặng - Công nghiệp nhẹ; Sản xuất - dịch vụ; Xuất - nhập khẩu và Tích luỹ - tiêu dùng...Các quan hệ nói trên không được đặt trong một hoàn cảnh kinh tế cụ thể để có định hướng cân đối một cách hợp lý sẽ lập tức gây ra hiện tượng đông cứng một bộ phận nguồn lực kinh tế, giữa chúng không chuyển hoá được cho nhau tạo ra một trạng thái vừa thừa, vừa thiếu các năng lực sản xuất một cách giả tạo. Vì vậy, còn có thể gọi nhóm nguyên nhân gây ra loại lạm phát này là sự ách tắc các nguồn vốn. Các lợi thế so sánh giữa các vùng trong nội bộ nền kinh tế và lợi thế so sánh giữa các quốc gia không được khai thác làm cho sức phát triển bị "đóng băng" hoá.
Lạm phát do cầu thay đổi
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.
Lạm phát do xuẩt khẩu
Xuẩt khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuẩt khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
Lạm phát do nhập khẩu
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
Lạm phát do tiền tệ
Cung tiền tăng (chẳng hạn do NHTW mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do NHTW mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Lạm phát đẻ ra lạm phát
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.
1.4 Các cấp độ của lạm phát
Lạm phát ỳ
Là mức độ lạm phát thấp nhất từ 0% đến không quá vài %. Cấp độ lạm phát này chủ yếu phản ánh tính khách quan tuyệt đối của hiện tượng lưu thông hàng hoá- tiền tệ trong điều kiện chế độ tiền giấy. Lạm phát này có thể lặp đi lặp lại trong một chuỗi thời gian dài và nếu chỉ có nó, người ta có thể chủ động tính vào thành các chỉ tiêu cân bằng trung hoà của nền kinh tế. Người ta chấp nhận và sẵn sàng chung sống hoà bình với loại lạm phát được ví như căn bệnh kinh niên này của lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ;
Lạm phát vừa
Mức độ cao hơn từ trên vài % đến mức lớn hơn không nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm được gọi là lạm phát vừa phải hay lạm phát kiểm soát được. Đối với loại này thì tuỳ theo chiến lược và chiến thuật phát triển kinh tế mỗi thời kỳ mà các chính phủ có thể chủ động định hướng mức khống chế trên cơ sở duy trì một tỷ lệ lạm phát là bao nhiêu để gắn với một số mục tiêu kinh tế khác: Kích thích tăng trưởng kinh tế, tăng cường xuất khẩu và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong các năm tài khoá nhất định. Tuy nhiên chỉ có thể chấp nhận có lạm phát vừa phải trong điều kiện nền kinh tế còn chưa đạt tới giá trị sản lượng tiềm năng so với điều kiện hiện tại, khi mà nhiều nhân tố của sản xuất vẫn còn nằm trong tình trạng ngủ yên hoặc chưa có phương án khả thi để phát huy các tiềm năng đó.
Lạm phát phi mã
Là cấp độ cao thứ 3 có tỷ lệ lạm phát bình quân /năm từ mức trung bình của 2 con số đến đỉnh cao của 3 con số. Đây là tỷ lệ lạm phát vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của NHTW. Giải pháp để chống lại hiện tượng lạm phát này đòi hỏi phải là sự tổng lực của toàn nền kinh tế quốc dân trong các nỗ lực thắt chặt tiền tệ, đẩy mạnh sản xuất, tăng cường đầu tư, thu hút mạnh các nguồn vốn, kích thích đầu tư trong nước, cải cách lại cơ cấu kinh tế, nâng cao t