Quốc tịch là một vấn đề có ý nghĩa chính trị, pháp lý và xã hội đặc biệt quan trọng. Pháp luật quốc tịch là công cụ pháp lý, thông qua đó nhà nước thể hiện chủ quyền quốc gia trong quan hệ quốc tế và quyền lực nhà nước đối với dân cư trong lãnh thổ của mình. Bên cạnh đó, nó còn là căn cứ quan trọng để phân biệt công dân của các quốc gia để từ đó có thể xác định hệ thống quyền và nghĩa vụ của công dân. Quốc tịch cũng là cơ sở pháp lý và là một trong các căn cứ để quốc gia có thể bảo hộ công dân nước mình ở nước ngoài.
Với ý nghĩa quan trọng như vậy, nên ngay từ những ngày đầu nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, pháp luật về quốc tịch đã được đặc biệt coi trọng. Xuyên suốt quá trình phát triển của đất nước, pháp luật quốc tịch Việt Nam luôn chịu sự ảnh hưởng, chi phối mạnh mẽ của các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử phát triển của Việt Nam trong từng giai đoạn. Điều đó đã tạo ra những quy định pháp luật khác nhau qua từng thời kì, quy định sau là sự kế thừa, phát triển, hoàn thiện của quy định trước và góp phần giải quyết những nhu cầu, đòi hỏi đặt ra xung quanh vấn đề quốc tịch của công dân Việt Nam trong từng tiến trình lịch sử nhất định.
Hiện nay, trong thực tế, có những ý kiến cũng như quan điểm về các nội dung của pháp luật quốc tịch Việt Nam nhưng lại tách ra khỏi hoặc không phân tích kĩ các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử tương ứng. Đây chính là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến việc phân tích, đánh giá không chính xác các quy định về quốc tịch Việt Nam và đã tạo ra luồng tư tưởng không tốt trong nhân dân.
Xuất phát từ những lý do trên, khóa luận sẽ tập trung đi phân tích và làm rõ thêm quá trình hình thành phát triển của pháp luật quốc tịch Việt Nam, dựa trên nền tảng phân tích từng thời kỳ lịch sử tương ứng với từng dấu mốc phát triển của pháp luật quốc tịch nước ta.
Nội dung chính của khóa luận tập trung vào sự phát triển của các chế định pháp luật quốc tịch Việt Nam theo từng thời kì lịch sử, làm rõ và giải thích sự khác nhau của chế định qua mỗi thời kì phát triển, để từ đó có thể đưa ra một số ý kiến cá nhân và giúp người đọc có một cái nhìn sâu hơn về pháp luật quốc tịch Việt Nam. Đồng thời, việc nghiên cứu cũng phục vụ cho việc học tập của em và mong muốn có thể góp một phần nhỏ làm sáng tỏ nội dung của pháp luật quốc tịch.
Bên cạnh những văn bản pháp luật trong nước (Hiến pháp, luật dân sự, luật quốc tịch), em cũng xin đề cập tới các quy định về quốc tịch trong các Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết và tham gia. Tuy nhiên, đây chỉ là những nội dung phụ để có thể làm rõ hơn phạm vi nghiên cứu của khóa luận. Đồng thời trong khóa luận em cũng xin đề ra một số kiến nghị để có thể hoàn thiện hơn nữa các quy định hiện nay về quốc tịch.
Để tiếp cận đề tài, khóa luận vận dụng tổng hợp phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đặc biệt có sử dụng phương pháp so sánh kết hợp với phân tích, tổng hợp
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận được chia thành các chương:
Chương I: Khái quát về quốc tịch, sự hình thành pháp luật quốc tịch Việt Nam
Trong chương này, ngoài những nét khái quát về quốc tịch như khái niệm và tầm quan trọng của quốc tịch, khóa luận còn đề cập tới sự hình thành của pháp luật quốc tịch trên thế giới cũng như ở Việt Nam và các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử ban hành các văn bản pháp luật về quốc tịch qua từng thời kì. Đồng thời, khóa luận cũng sẽ phân tích những nguyên tắc của pháp luật quốc tịch Việt Nam.
Chương II: Sự phát triển của pháp luật quốc tịch Việt Nam qua các thời kì.
Trong phần này, khóa luận sẽ đi phân tích và làm rõ sự phát triển của các chế định về quốc tịch Việt Nam qua các thời kì. Đồng thời, khóa luận cũng đưa ra một cái nhìn chung nhất về bốn thời kì phát triển của pháp luật quốc tịch Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật quốc tịch nước ta hiện nay.
Do phạm vi khóa luận có hạn và vì đây là lần đầu tiên em làm nên khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Mong thầy cô giúp đỡ và hướng dẫn. Em xin chân thành cám ơn!
62 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2135 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Sự hình thành và phát triển của pháp luật quốc tịch Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Quốc tịch là một vấn đề có ý nghĩa chính trị, pháp lý và xã hội đặc biệt quan trọng. Pháp luật quốc tịch là công cụ pháp lý, thông qua đó nhà nước thể hiện chủ quyền quốc gia trong quan hệ quốc tế và quyền lực nhà nước đối với dân cư trong lãnh thổ của mình. Bên cạnh đó, nó còn là căn cứ quan trọng để phân biệt công dân của các quốc gia để từ đó có thể xác định hệ thống quyền và nghĩa vụ của công dân. Quốc tịch cũng là cơ sở pháp lý và là một trong các căn cứ để quốc gia có thể bảo hộ công dân nước mình ở nước ngoài.
Với ý nghĩa quan trọng như vậy, nên ngay từ những ngày đầu nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, pháp luật về quốc tịch đã được đặc biệt coi trọng. Xuyên suốt quá trình phát triển của đất nước, pháp luật quốc tịch Việt Nam luôn chịu sự ảnh hưởng, chi phối mạnh mẽ của các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử phát triển của Việt Nam trong từng giai đoạn. Điều đó đã tạo ra những quy định pháp luật khác nhau qua từng thời kì, quy định sau là sự kế thừa, phát triển, hoàn thiện của quy định trước và góp phần giải quyết những nhu cầu, đòi hỏi đặt ra xung quanh vấn đề quốc tịch của công dân Việt Nam trong từng tiến trình lịch sử nhất định.
Hiện nay, trong thực tế, có những ý kiến cũng như quan điểm về các nội dung của pháp luật quốc tịch Việt Nam nhưng lại tách ra khỏi hoặc không phân tích kĩ các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử tương ứng. Đây chính là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến việc phân tích, đánh giá không chính xác các quy định về quốc tịch Việt Nam và đã tạo ra luồng tư tưởng không tốt trong nhân dân.
Xuất phát từ những lý do trên, khóa luận sẽ tập trung đi phân tích và làm rõ thêm quá trình hình thành phát triển của pháp luật quốc tịch Việt Nam, dựa trên nền tảng phân tích từng thời kỳ lịch sử tương ứng với từng dấu mốc phát triển của pháp luật quốc tịch nước ta.
Nội dung chính của khóa luận tập trung vào sự phát triển của các chế định pháp luật quốc tịch Việt Nam theo từng thời kì lịch sử, làm rõ và giải thích sự khác nhau của chế định qua mỗi thời kì phát triển, để từ đó có thể đưa ra một số ý kiến cá nhân và giúp người đọc có một cái nhìn sâu hơn về pháp luật quốc tịch Việt Nam. Đồng thời, việc nghiên cứu cũng phục vụ cho việc học tập của em và mong muốn có thể góp một phần nhỏ làm sáng tỏ nội dung của pháp luật quốc tịch.
Bên cạnh những văn bản pháp luật trong nước (Hiến pháp, luật dân sự, luật quốc tịch), em cũng xin đề cập tới các quy định về quốc tịch trong các Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết và tham gia. Tuy nhiên, đây chỉ là những nội dung phụ để có thể làm rõ hơn phạm vi nghiên cứu của khóa luận. Đồng thời trong khóa luận em cũng xin đề ra một số kiến nghị để có thể hoàn thiện hơn nữa các quy định hiện nay về quốc tịch.
Để tiếp cận đề tài, khóa luận vận dụng tổng hợp phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đặc biệt có sử dụng phương pháp so sánh kết hợp với phân tích, tổng hợp…
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận được chia thành các chương:
Chương I: Khái quát về quốc tịch, sự hình thành pháp luật quốc tịch Việt Nam
Trong chương này, ngoài những nét khái quát về quốc tịch như khái niệm và tầm quan trọng của quốc tịch, khóa luận còn đề cập tới sự hình thành của pháp luật quốc tịch trên thế giới cũng như ở Việt Nam và các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử ban hành các văn bản pháp luật về quốc tịch qua từng thời kì. Đồng thời, khóa luận cũng sẽ phân tích những nguyên tắc của pháp luật quốc tịch Việt Nam.
Chương II: Sự phát triển của pháp luật quốc tịch Việt Nam qua các thời kì.
Trong phần này, khóa luận sẽ đi phân tích và làm rõ sự phát triển của các chế định về quốc tịch Việt Nam qua các thời kì. Đồng thời, khóa luận cũng đưa ra một cái nhìn chung nhất về bốn thời kì phát triển của pháp luật quốc tịch Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật quốc tịch nước ta hiện nay.
Do phạm vi khóa luận có hạn và vì đây là lần đầu tiên em làm nên khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Mong thầy cô giúp đỡ và hướng dẫn. Em xin chân thành cám ơn!
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ QUỐC TỊCH,
SỰ HÌNH THÀNH PHÁP LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM
KHÁI NIỆM, VAI TRÒ CỦA QUỐC TỊCH.
Quốc tịch là mối quan hệ pháp lý bền vững giữa một cá nhân với một Nhà nước nhất định. Mỗi một công dân có những quyền nhất định và nghĩa vụ tương ứng đối với Nhà nước của mình. Những quyền và nghĩa vụ này được quy định bằng pháp luật của mỗi quốc gia: Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác (() Giáo trình Luật quốc tế của Liên Xô cũ (NXB.Quan hệ quốc tế Matxcơva 1987)
)
Quốc tịch là sự quy thuộc về mặt pháp lý và chính trị của một cá nhân vào một Nhà nước thể hiện mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước và cá nhân. Nhà nước quy định các quyền cho cá nhân là công dân của mình, bảo vệ và bảo hộ công dân đó ở nước ngoài. Về phần mình, công dân phải tuân theo pháp luật của Nhà nước và hoàn thành các nghĩa vụ đối với Nhà nước (() Từ điển Bách khoa Luật của Liên Xô cũ ( NXB. Bách khoa toàn thư -Matxcova 1984)
)
Quốc tịch là một chế định cơ bản của luật hiến pháp về địa vị pháp lý của công dân, là tiền đề pháp lý bắt buộc để một cá nhân có thể được hưởng các quyền và nghĩa vụ công dân của một nhà nước (() Giáo trình luật hiến pháp năm 2008 Đại học luật Hà Nội
)
Quốc tịch là mối liên hệ pháp lý, chính trị ổn định, bền vững, thường xuyên giữa một người (thể nhân hay tự nhiên nhân) và một Nhà nước nhất định theo quyền pháp luật của nước đó. Quốc tịch được biểu hiện bằng những quyền, nghĩa vụ qua lại của công dân và Nhà nước. Người mang quốc tịch của nước nào là công dân của nước đó, được hưởng những quyền pháp lý, chính trị, đồng thời phải gánh vác những nghĩa vụ đối với nhà nước. Ngược lại, Nhà nước có quyền và nghĩa vụ bảo hộ công dân của mình, dù công dân đó cư trú ở trong nước hay ở nước ngoài (() Từ điển Pháp Việt - Pháp luật hành chính (NXB Thế giới, 1992)
)
Qua những khái niệm trên, ta có thể thấy được phần nào bản chất của quan hệ quốc tịch, nó nói lên mối quan hệ gắn bó, bền vững về mặt chính trị - pháp lý giữa cá nhân với nhà nước. Mối quan hệ này được duy trì trên cơ sở tổng thể các quyền, nghĩa vụ cơ bản giữa công dân với nhà nước theo quy định của hiến pháp và pháp luật. Về phía nhà nước, quốc tịch đề cập tới một trong những yếu tố tối quan trọng hình thành nên một Nhà nước có đầy đủ chủ quyền (lãnh thổ, dân cư và quyền lực thực tế của Nhà nước thông qua bộ máy quân đội, cảnh sát, tư pháp ...). Vì vậy, sau khi tuyên bố thành lập nhà nước, các quốc gia đều ban hành các quy định về quốc tịch nhằm khẳng định độc lập, chủ quyền trong vấn đề xác định, phân biệt công dân nước mình, từ đó áp dụng quy chế công dân và nhiều vấn đề liên quan khác.
Mối quan hệ quốc tịch bình thường là "sợi dây pháp lý" ràng buộc cá nhân với nhà nước suốt cả đời người và không phụ thuộc vào việc người đó cư trú ở trong hay ngoài lãnh thổ của quốc gia mà họ là công dân. Cho nên, về phía cá nhân, quốc tịch vừa mang lại cho họ những quyền và nghĩa vụ theo luật định vừa tạo điều kiện cho họ nhận được sự bảo hộ của nhà nước mà chỉ có công dân của nước đó mới có được. Có thể nói, pháp luật quốc tịch chính là hệ thống nền tảng của pháp luật một quốc gia.
SƠ LƯỢC SỰ HÌNH THÀNH CỦA QUAN HỆ QUỐC TỊCH TRÊN THẾ GIỚI.
Trong thời kỳ lịch sử của nhân loại, quan hệ giữa nhà nước với cá nhân được tồn tại với tư cách là mối quan hệ pháp luật và ở mỗi thời kì phát triển của nhà nước - pháp luật, mối quan hệ đó biểu hiện theo các hình thức khác nhau. Ở thời kỳ chiếm hữu nô lệ, chủ nô là người có các quyền do nhà nước ban cho, còn đại đa số những người lao động là nô lệ không được coi là con người mà đơn giản chỉ là thứ công cụ biết nói thuộc quyền sở hữu và khai thác của giai cấp chủ nô. Do vậy, vấn đề quyền lợi của người dân không được đặt ra. Trong thời kỳ này, mối quan hệ giữa chủ nô và nô lệ chỉ là mối quan hệ một chiều: đó là những nghĩa vụ mà người nô lệ phải chịu và những quyền lợi mà chủ nô được hưởng.
Tuy nhiên, trong giai đọan này, thuật ngữ quốc tịch đã lần đầu được biết tới ở hai nhà nước chiếm hữu nô lệ là A-ten và La Mã. Tuy nhiên, quốc tịch cổ đại chỉ là đặc quyền dành cho một nhóm người nhất định, đó là giai cấp chủ nô (A-ten) hay những người thuần chủng La Mã (có cha là công dân La Mã) [19, tr.8]. Chỉ tới thời kì phát triển sau này, thuật ngữ quốc tịch mới được ra đời với cách hiểu như hiện nay.
Sang thời phong kiến địa vị pháp lý của người lao động được cải thiện nhiều hơn, tuy vậy, nô lệ vẫn chỉ được coi là thần dân của vua chúa với rất ít quyền cá nhân, không được hưởng quyền chính trị và không được tham gia vào bộ máy nhà nước. Ở thời kỳ này, dù cho mối quan hệ giữa người dân và vua chúa đã được cải thiện ít nhiều so với thời kỳ chiếm hữu nô lệ, thế nhưng, vua chúa vẫn ở vị trí cao hơn so với người lao động, và người dân luôn phải thần phục vua chúa, với những quan niệm như “ý vua là ý trời”, vua chính là thiên tử - “con trời”. Chính vì vậy mà nghĩa vụ của người dân vẫn chiếm vị trí đáng kể, quyền lợi của người lao động không được đảm bảo mà luôn phụ thuộc vào vua chúa.
Đến thời kỳ Tư bản chủ nghĩa với cuộc cách mạng tư sản, chế định quốc tịch chính thức được ra đời nhằm phục vụ cho lợi ích cá nhân của các nhà tư bản. Cuộc cách mạng tư sản được thực hiện bởi đông đảo người dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản. Để có thể lật đổ giai cấp phong kiến già cỗi, các nhà tư bản thời kì này đã phát triển và sử dụng quan hệ quốc tịch với đầy đủ ý nghĩa và vai trò như hiện nay. Lần đầu tiên, thuật ngữ “công dân” mới thực sự được ra đời, kèm theo là những quyền và nghĩa vụ mà trong đó có cả những quyền lợi dân sự và chính trị một cá nhân được hưởng mà các thời kỳ trước hầu như không có. Đây là một dấu mốc phát triển quan trọng trong lịch sử loài người. Tuy nhiên, quan hệ quốc tịch trong thời kì này còn nhiều hạn chế, do nó chỉ được phục vụ cho lợi ích cá nhân của giai cấp tư bản, chứ không phải để phục vụ cho đa số người dân lao động. Đây chính là một hạn chế của lịch sử.
VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁP LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM
Ở Việt Nam, chế định quốc tịch không phải là sản phẩm của thời kỳ Tư bản chủ nghĩa mà là kết quả của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, giải phóng dân tộc. Trước ngày 2/9/1945, nước ta là một nước nửa thuộc địa nửa phong kiến nên trong tiếng Việt chưa có từ “Quốc tịch Việt Nam”, người dân Việt Nam chưa được công nhận là “công dân”.
Sau ngày 2/9/45, với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - một quốc gia độc lập, có chủ quyền, bình đẳng với các quốc gia khác trong cộng đồng quốc tế, pháp luật về quốc tịch mới bắt đầu được hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau. Từ đó cho tới nay, pháp luật quốc tịch Việt Nam đã trải qua những cột mốc phát triển quan trọng gắn liền với các văn bản pháp luật về quốc tịch trong từng thời kỳ. Những quy định pháp luật này chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của từng hoàn cảnh lịch sử, đó là cả một sự tái hiện hình ảnh lịch sử của đất nước Việt Nam ngay trong từng điều luật. Các quy định pháp luật về quốc tịch Việt Nam được ghi nhận trong các văn bản pháp luật như Hiến pháp (Hiến pháp năm 1946, 1980, 1992) ( Hiến pháp năm 1959 không có một quy định nào ghi nhận vấn đề quốc tịch
), Luật dân sự ( Luật dân sự đầu tiên được ban hành năm 1995, do vậy khóa luận chỉ đề cập tới những quy định pháp luật dân sự trong giai đoạn từ năm 1998 trở về sau
), Luật quốc tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành qua bốn thời kì. Sau đây, khóa luận sẽ phân tích quá trình hình thành cũng như điều kiện và hoàn cảnh lịch sử của các văn bản pháp luật ghi nhận về quốc tịch Việt Nam.
Giai đoạn từ năm 1945 tới năm 1988.
Trong hai bản Hiến pháp năm 1946 và năm 1959, vấn đề quốc tịch gần như không được quy định. Trong thời kì này, đất nước ta vẫn còn bị chia cắt làm hai miền. Vấn đề cần kíp được đặt ra lúc bấy giờ là giải phóng dân tộc, thống nhất và bảo vệ đất nước trước sự phá hoại của kẻ thù nên trong những quy định của Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, vấn đề quốc tịch hầu như không được quy định. Tuy nhiên, ngay sau khi tuyên bố thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước ta đã ban hành ngay các quy định xác định người có quốc tịch Việt Nam và những vấn đề khác liên quan. Trong giai đoạn này pháp luật quốc tịch được đặc biệt coi trọng. Chỉ một tháng rưỡi sau khi tuyên bố nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, sắc lệnh đầu tiên về quốc tịch Việt Nam (Sắc lệnh số 53/SL) đã được ban hành nhằm xác định những trường hợp có quốc tịch Việt Nam.
Thời kì này, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của Việt Nam dân chủ cộng hòa (diễn ra vào ngày 06/01/1946) đang được chuẩn bị tiến hành. Đây là vấn đề mang tính cấp bách nhất lúc bấy giờ, ảnh hưởng sâu sắc tới các quy định pháp luật thời kì đó nhất là về vấn đề quốc tịch. Điều này đã được thể hiện qua các quy định về nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam và đặc biệt là việc miễn giảm các thủ tục “gia nhập quốc tịch” khi đã có đủ “điều kiện và ưng nhận” (theo điều V Sắc lệnh số 73/SL).
Như trên đã phân tích, chỉ khi một người có quốc tịch Việt Nam, họ mới có thể đi bầu ra các đại biểu Quốc hội hoặc thậm chí là tự ứng cử mình vào một trong những vị trí điều hành, quản lý đất nước. Chính vì vậy, nên bên cạnh yêu cầu chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên, một nhiệm vụ không kém phần quan trọng là chống lại các thế lực thù địch. Trong bối cảnh đó, Nhà nước ta đã tập trung vào chính sách đại đoàn kết dân tộc như các điều kiện mở trong vấn đề trở lại quốc tịch với những người đã mất quốc tịch Việt Nam, vấn đề xác định quốc tịch không phân biệt dân tộc hay giai cấp …
Cùng với sắc lệnh số 53/SL, lần đầu tiên vấn đề nhập quốc tịch cho người nước ngoài được đặt ra. Việt Nam là một đất nước đa dân tộc, lại trải qua gần một thế kỷ bị xâm lược, trên đất nước có không ít những trường hợp người không có quốc tịch Việt Nam làm ăn, sinh sống ổn định lâu dài “có lòng trung thành với nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” cũng như mong muốn tham gia vào “cuộc tổng tuyển cử”. Cho nên, bên cạnh việc xác định quốc tịch, vấn đề nhập quốc tịch được đặt ra một cách cấp thiết. Chính vì vậy, chưa đầy hai tháng sau khi ban hành sắc lệnh số 53/SL, sắc lệnh số 73/SL về việc nhập quốc tịch Việt Nam đã được ra đời và đi vào cuộc sống với những quyết định mang tính chất đặc thù của thời kì lịch sử này.
Tháng 12 năm 1946, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược. Trong hoàn cảnh đó, chủ tịch chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký và ban hành Sắc lệnh số 215/SL ngày 20/8/1948 ấn định các quyền lợi đặc biệt cho những người ngoại quốc giúp cho cuộc kháng chiến Việt Nam nhằm tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các tầng lớp người nước ngoài.
Trong giai đoạn này, pháp luật quốc tịch chỉ phát triển trong những năm đầu từ khi sắc lệnh đầu tiên về quốc tịch được ban hành. Trong thời gian sau đó (từ năm 1959 tới trước năm 1988) do đất nước ta vẫn còn bị chia cắt thành hai miền, yêu cầu cấp bách lúc bấy giờ là thống nhất đất nước. Do vậy, vấn đề pháp luật quốc tịch tạm thời được gác lại. Trong giai đoạn này, chỉ có một văn bản về việc chuyển đổi thẩm quyền giải quyết các vấn đề liên quan tới quốc tịch được ban hành (nghị quyết 1043/NQ-TVQH ban hành ngày 08/2/1971)
Pháp luật quốc tịch thời kì này đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó. Tuy nhiên, mỗi sắc lệnh chỉ quy định một nội dung về quốc tịch mà thiếu sự đồng bộ. Hơn nữa, nhiều quy định chưa thể hiện được tinh thần nhân đạo cũng như các chính sách của Nhà nước ta (như nguyên tắc bình đẳng nam nữ, ...). Mặc dù vậy, các sắc lệnh đã đặt nền móng cho sự phát triển của pháp luật quốc tịch nước ta và tạo cơ sở cho sự ra đời luật quốc tịch hoàn chỉnh đầu tiên của Việt Nam hơn 10 năm sau đó.
Giai đoạn từ năm 1988 tới năm 1998
Sau hơn mười năm thực hiện sắc lệnh đầu tiên về quốc tịch, Việt Nam có những thay đổi đáng kể. Tình hình đã có nhiều biến chuyển, đánh dấu một thời kì mới trong tiến trình lịch sử của đất nước, đầy rẫy khó khăn cả trong và ngoài nước.
Sau khi thống nhất đất nước, Hiến pháp năm 1980 được ban hành. Đây là lần đầu tiên vấn đề quốc tịch được ghi nhận trong Hiến pháp. Những quy định này mang đậm tính chất của thời kì kinh tế kế hoạch hóa tập trung, vấn đề đối ngoại chỉ được đặt ra trong nội bộ hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa... Pháp luật về quốc tịch rất chặt chẽ và khắt khe mà biểu hiện tiêu biểu là chính sách “một quốc tịch” cứng thể hiện qua điều 53 của Hiến pháp năm 1980.
Ngày 30/04/1976, hai miền Nam, Bắc được thống nhất. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại hậu quả pháp lý về quốc tịch sau hơn 20 năm chia cắt đất nước. Theo kết quả của Hiệp định Giơ-ne-vơ về Việt Nam, nước ta tạm thời bị chia cắt ở vĩ tuyến 17. Khi đó, tại miền Nam Việt Nam chính quyền Sài Gòn (thực chất là chính quyền ngụy quyền, những tên tay sai cho kẻ thù) cũng ban hành những quy định riêng rẽ về quốc tịch như một số văn bản về quốc tịch và đồng thời cũng quyết định cho nhập hay tước quốc tịch [33]. Tình hình này đã đặt ra yêu cầu cho Nhà nước ta lúc bấy giờ là cần có một hệ thống pháp luật có thể giải quyết những tồn tại lịch sử do Hiệp định Giơ-ne-vơ để lại.
Không chỉ có vậy, sau những năm tháng chiến tranh ác liệt, nhiều thế hệ người Việt Nam đã ra nước ngoài, cả hợp pháp lẫn bất hợp pháp, trong đó một bộ phận đã nhập quốc tịch nước sở tại. Theo quy định tại khoản 1 điều thứ 7 Sắc lệnh số 53/SL, những trường hợp này sẽ đương nhiên mất quốc tịch Việt Nam. Đó là một quy định phù hợp với hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, tuy nhiên, nếu đặt trong thời kì những năm 1988, nó lại làm Việt Nam tự cô lập chính mình và gây ra rất nhiều khó khăn cho nhà nước ta.
Ngoài ra, đất nước ta đang từng bước bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới, sự có mặt của người nước ngoài ở Việt Nam theo Luật đầu tư nước ngoài (được ban hành ngày 09/01/1988) ngày một tăng và ngày càng có nhiều người nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam, nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi theo Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 .v.v..
Tất cả những điều này đã tạo nên yêu cầu cần có những quy định mới về quốc tịch đồng bộ và hoàn thiện hơn, đáp ứng được những yêu cầu của công cuộc đổi mới đồng thời cũng có thể khắc phục được những bất cập của pháp luật quốc tịch trước đó.
Giai đoạn này nước ta vẫn còn ở thế bị bao vây, cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị. Các thế lực phản động trong nước và ở nước ngoài không ngừng tăng cường các hoạt động chống đối, phá hoại. Nhiều nước đã dung túng cho các hoạt động chống lại Chính phủ nước ta. Những tên phản động bị bắt lại được “bảo hộ ngoại giao” với cớ là chúng mang quốc tịch của nước đó [33]. Yếu tố an ninh - chính trị của vấn đề quốc tịch trong bối cảnh như vậy đã góp phần tạo nên nhu cầu cấp thiết của việc xây dựng một đạo luật quốc tịch mới và hoàn thiện. Hơn nữa, nhà nước ta là nhà nước của hơn 50 dân tộc khác nhau nên vấn đề dân tộc cũng như vấn đề xác định quốc tịch Việt Nam khá nhạy cảm và khó khăn. Các sắc lệnh về quốc tịch của thời kì trước đã bắt đầu bộc lộ các bất cập. Đã tới lúc cần có một luật về quốc tịch hoàn chỉnh và đầy đủ, đáp ứng các nhiệm vụ của thời kỳ mới. Để đáp ứng những yêu cầu này, Luật quốc tịch năm 1988 đã chính thức được ban hành thay thế các sắc lệnh trước đó.
Trong thời kì này, nhà nước ta cũng ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988 mà cụ thể là: Nghị định số 37/HĐBT ngày 5/2/1990 quy định chi tiết thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam và nghị định số 06/1998/NĐ-CP ngày 14/01/1998 sửa đổi một số điều của Nghị định số 37/HĐBT. Tuy nhiên, do Luật năm 1988 còn chưa có điều kiện để điều chỉnh mọi vấn đề liên quan tới quốc tịch nên nhà nước ta cũng ban hành các văn bản điều chỉnh vấn đề hồi hương của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, đó là: Quyết định số 59/TTg ngày 04-2-1994 về việc giải quyết cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài hồi hương về Việt Nam và quyết định số 875/TTg ngày 21-11-1996 thay thế quyết định số 59/TTg. Các văn bản này đã góp phần tạo điều kiện để những quy định của Luật quốc tịch năm 1988 được thực hiện trong cuộc sống.
Giai đoạn từ năm 1998 tới năm 2008.
Năm 1995, luật dân sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được