Khóa luận Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ

Trong xu hướng tự do hoá thương mại toàn cầu mỗi quốc gia và mỗi doanh nghiệp đều phải nâng cao sức cạnh tranh của mình, đấu tranh để tồn tại và bắt kịp cùng với xu hướng chung. Tăng cường xuất khẩu là một trong những hoạt động ngoại thương giúp doanh nghiệp và từng quốc gia tham gia vào quá trình thương mại toàn cầu và Việt Nam cũng không thể đứng ngoài xu hướng chung đó. Trong những năm qua kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng đã tăng lên không ngừng. Chúng ta không chỉ tập trung vào những mặt hàng và thị trường quen thuộc mà đã từng bước đa dạng hoá mặt hàng và vươn ra những thị trường mới. Có được kết quả đó một phần không nhỏ có sự đóng góp của hoạt động xúc tiến thương mại. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ được kí kết đã mở ra cho Việt Nam cánh cửa vào một thị trường rộng lớn giàu tiềm năng. Tuy nhiên thực tế trong những tháng vừa qua sau khi hiệp định có hiệu lực đã chứng tỏ những gì chúng ta chuẩn bị cho việc xuất khẩu vào thị trường này vẫn còn chưa đủ. Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này còn nhiều vướng mắc do nhiều nguyên nhân: hàng hoá Việt Nam vấp phải nhiều hàng rào kĩ thuật, doanh nghiệp Việt Nam chưa quen phong cách làm ăn của người Mỹ và một nguyên nhân khá quan trọng khác là hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ xuất khẩu vào thị trường này vẫn chưa thực sự hiệu quả.

doc64 trang | Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 1420 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong xu hướng tự do hoá thương mại toàn cầu mỗi quốc gia và mỗi doanh nghiệp đều phải nâng cao sức cạnh tranh của mình, đấu tranh để tồn tại và bắt kịp cùng với xu hướng chung. Tăng cường xuất khẩu là một trong những hoạt động ngoại thương giúp doanh nghiệp và từng quốc gia tham gia vào quá trình thương mại toàn cầu và Việt Nam cũng không thể đứng ngoài xu hướng chung đó. Trong những năm qua kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng đã tăng lên không ngừng. Chúng ta không chỉ tập trung vào những mặt hàng và thị trường quen thuộc mà đã từng bước đa dạng hoá mặt hàng và vươn ra những thị trường mới. Có được kết quả đó một phần không nhỏ có sự đóng góp của hoạt động xúc tiến thương mại. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ được kí kết đã mở ra cho Việt Nam cánh cửa vào một thị trường rộng lớn giàu tiềm năng. Tuy nhiên thực tế trong những tháng vừa qua sau khi hiệp định có hiệu lực đã chứng tỏ những gì chúng ta chuẩn bị cho việc xuất khẩu vào thị trường này vẫn còn chưa đủ. Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này còn nhiều vướng mắc do nhiều nguyên nhân: hàng hoá Việt Nam vấp phải nhiều hàng rào kĩ thuật, doanh nghiệp Việt Nam chưa quen phong cách làm ăn của người Mỹ và một nguyên nhân khá quan trọng khác là hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ xuất khẩu vào thị trường này vẫn chưa thực sự hiệu quả. Do đó tôi đã chọn đề tài “Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ“. Mục đích cuả khoá luận là cho thấy tầm quan trọng cuả thị trường Hoa Kỳ với hoạt động xuất khẩu cuả Việt Nam và vai trò của hoạt động xúc tiến thương mại với hoạt động này. Đồng thời tôi cũng cố gắng đưa ra một số nguyên nhân gây nên sự không hiệu quả của hoạt động này và chỉ ra một số giải pháp để khắc phục. Nội dung của khóa luận được chia thành 3 phần: Chương I: Lí luận chung về xúc tiến thương mại và vai trò của hoạt động xúc tiến thương mại với xuất khẩu. Chương II: Thực trạng hoạt động xúc tiến thương mại để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ Chương III: Các biện pháp nhằm tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại để đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ. Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng các phương pháp tổng hợp, diễn giải, quy nạp, chứng minh, phân tích, so sánh, thống kê để trình bày nội dung nghiên cứu. Với trình độ còn hạn chế trong khuôn khổ của một bài khoá luận các vấn đề chắc chắn chưa được đề cập một cách chính xác và đầy đủ nhất và vẫn có thể có một số thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo của thầy cô và góp ý của bạn bè. Cuối cùng tôi xin được dành những lời cảm ơn chân thành nhất và lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo,Thạc sỹ Bùi Ngọc Sơn- giảng viên khoa Quản trị kinh doanh trường Đại học Ngoại thương Hà Nội- người đã trực tiếp hướng dẫn chỉ bảo tôi từng bước đi cần thiết khi nghiên cứu đề tài này. Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các anh chị cô bác tại Cục xúc tiến thương mại và Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam, các thầy cô bè bạn cùng lớp và gia đình đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành khoá luận này. Chương I: lí luận chung về xúc tiến thương mại và vai trò của hoạt động xúc tiến thương mại với xuất khẩu I- Khái quát chung về xúc tiến thương mại 1- Khái niệm xúc tiến thương mại Lần đầu tiên vào cuối thế kỉ XIX khủng hoảng thừa đã xảy ra trên phạm vi thế giới, các doanh nghiệp bắt đầu ý thức được vai trò của thị trường trong sự sống còn của mỗi doanh nghiệp. Có thể đây chính là cái mốc đầu tiên của sự ra đời Marketing quốc tế và những hoạt động nền tảng đầu tiên cho các hoạt động xúc tiến thương mại sau này. Các hoạt động xúc tiến thương mại xuất hiện sớm nhất ở Hoa Kỳ sau đó nhanh chóng được phổ biến ở các nước tư bản phát triển khác như Anh, Pháp, Nhật, Canada Sau chiến tranh thế giới thứ hai các hoạt động này cũng đã có mặt ở các nước Nics (Singapore, Hồng Kông, Đài Loan), và dần dần ở cả các nước đang phát triển. Không chỉ tại các quốc gia phát triển mà ngay tại cả các quốc gia đang phát triển tổ chức xúc tiến thương mại đều được coi là một tổ chức kinh tế không thể thiếu trong nền kinh tế quốc dân vì hoạt động xúc tiến thương mại là nhu cầu có tính quy luật ở mỗi quốc gia khi bước vào nền kinh tế thị trường. Có thể nói rằng các hoạt động xúc tiến thương mại xuất hiện ngay trong lòng các hoạt động kinh doanh thương mại, ở tầm doanh nghiệp nó chính là hoạt động Marketing, còn với các tổ chức xúc tiến thương mại chính phủ và các tổ chức xúc tiến thương mại là hoạt động hỗ trợ cho công tác Marketing doanh nghiệp. Theo đó các cách hiểu về Marketing trong doanh nghiệp cũng rất phong phú. Theo một công ty Anh quốc định nghĩa: Marketing là quy trình công nghệ giúp cho công ty thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng và thu được lợi nhuận mong muốn.Viện Marketing của Anh định nghĩa thì đó là quá trình tổ chức và quản lí toàn bộ hoạt động sản xuất – kinh doanh, từ việc phát hiện ra và biến sức mua của người tiêu dùng thành nhu cầu thực sự về một mặt hàng cụ thể, đến việc sản xuất và đưa hàng hoá đến người tiêu dùng cuối cùng, nhằm đảm bảo cho công ty thu được lợi nhuận dự kiến. Marketing không chỉ là là xúc tiến bán hàng mà cần phải hiểu sâu hơn như một quá trình nhằm cung cấp đúng hàng hoá, đúng chỗ, đúng thời điểm, đúng giá và bằng đúng các công cụ xúc tiến bán hàng . Để hỗ trợ các hoạt động kinh doanh quốc tế có hiệu quả cần nắm bắt được thông tin quan trọng nhưng điều đó không phải là dễ, trong khi phần lớn các công ty lại không có khả năng thu thập, phân tích xác đáng do đó họ rất cần có sự hỗ trợ của chính phủ và các tổ chức hỗ trợ xúc tiến thương mại. Rất nhiều nước đã thành lập tổ chức xúc tiến thương mại để hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp phát triển sản xuất trong nước, thâm nhập, duy trì và phát triển tại các thị trường nước ngoài và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Và khái niệm xúc tiến thương mại cũng đã được hình thành từ khá lâu, với ý nghĩa là thúc đẩy, quảng bá bằng nhiều hoạt động và phương thức khác nhau, nhằm tăng sức mua bán, trao đổi hàng hoá, sản phẩm theo cả hai chiều xuất khẩu và nhập khẩu. ở nước ta hiện nay cũng có một số khái niệm khác nhau về các hoạt động xúc tiến thương mại (trade promotion). Theo luật Thương mại năm 1997 thì xúc tiến thương mại là các hoạt động tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thương mại, nó gồm các hoạt động chủ yếu như thông tin thị trường, hội chợ triển lãm, giới thiệu hàng hoá, tư vấn thương mại, đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao năng lực kinh doanhCác tổ chức xúc tiến thương mại khác nhau lại có những quan điểm phụ thuộc một phần vào đặc trưng hoạt động của mình, ví dụ như theo Viện nghiên cứu thương mại – Bộ thương mại – thì xúc tiến thương mại là các hoạt động nghiên cứu bàn giấy, khảo sát và các dịch vụ liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới hành vi mua bán nhưng không thuộc hành vi mua bán, mà chỉ hỗ trợ nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Hay theo Cục xúc tiến thương mại, xúc tiến thương mại là những hoạt động bổ trợ thiết yếu, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu giao thương ngày càng cao của xã hội.Viện Nghiên cứu thương mại và Luật thương mại chỉ coi xúc tiến thương mại là những hoạt động gián tiếp với quá trình sản xuất cuả doanh nghiệp còn Cục Xúc tiến thương mại thì mở rộng hơn khái niệm này, đưa ra một khái niệm sâu hơn và cũng vì thế mà những hoạt động xúc tiến thương mại theo khái niệm này cũng ở phạm vi rộng hơn. Nhưng nhìn chung, trong tình hình hiện nay và những năm sắp tới tại Việt Nam xúc tiến thương mại chủ yếu nhằm vào mặt xúc tiến xuất khẩu, làm gia tăng kim ngạch cũng như chất lượng hàng hoá xuất khẩu; củng cố và duy trì chỗ đứng cho hàng hoá nội địa tại các thị trường trọng điểm trên thế giới; xác lập và phát triển thị trường mới, sản phẩm mới cho ngành xuất khẩu. 2- Nội dung hoạt động xúc tiến thương mại 2.1 Nội dung hoạt động xúc tiến thương mại nhà nước Các hoạt động xúc tiến thương mại ở tầm chính phủ được thực hiện thông thường qua các cơ quan xúc tiến thương mại của chính phủ như Cục Xúc tiến thương mại, thương vụ Việt Nam ở nước ngoài (thuộc Bộ Thương Mại) và các Bộ, Ngành liên quan như Bộ Ngoại giao, Bộ Tài Chính nội dung của nó thường là: a, Nghiên cứu, dự báo và định hướng thị trường trong ngoài nước để phát triển thị trường và sản phẩm thương mại Các cơ quan của chính phủ thường là cơ quan đầu mối tập hợp các thông tin tổng hợp của doanh nghiệp trong nước đồng thời có được các mối quan hệ rộng rãi với các tổ chức thương mại quốc tế do đó có điều kiện nghiên cứu thị trường một cách chuyên sâu, có hệ thống, từ đó giúp cho doanh nghiệp Việt nam theo kịp các thay đổi nhanh chóng của mậu dịch thế giới, tập trung đặc biệt vào tình hình hoạt động thương mại ở một số khu vực, một số nước nhất định. Để có được thông tin chính xác các cơ quan này thường dựa vào hệ thống chi nhánh (các đại diện thương mại và tham tán thương mại, cơ quan đại diện ngoại giao) của mình tại nước ngoài, sau đó tiến hành phân tích chi tiết, lưu giữ và công bố cho các doanh nghiệp và giới kinh doanh đặc biệt các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua các cuộc hội thảo, toạ đàm, tư vấn trực tiếp hay in trên các tạp chí và ấn phẩm khác của các tổ chức xúc tiến. Tổ chức hội thảo, toạ đàm với sự tham dự của các thành viên doanh nghiệp là một hoạt động khá thường xuyên và bổ ích vì chính trong các hội thảo này doanh nghiệp được có dịp tiếp xúc với các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực như Marketing, tài chính, đầu tư và các nhà xuất khẩu có kinh nghiệm cùng các tham tán thương mại. Đó là những người mang lại thông tin cập nhật cho doanh nghiệp về thị trường mục tiêu của doanh nghiệp. Cạnh đó các cuộc tiếp xúc, gặp gỡ của doanh nghiệp Việt Nam trong và ngoài nước cũng rất nên được tổ chức định kì nhờ đó doanh nghiệp có thể trao đổi với nhau kinh nghiệm cách thức tiếp cận thị trường một cách hiệu quả nhất. Bên cạnh đó nhà nước còn cử các phái đoàn thương mại, phái đoàn xúc tiến xuất khẩu tham dự các hội chợ thương mại ở các nước, đi điều tra tình hình thị trường ở những nước doanh nghiệp Việt Nam quan tâm và có khả năng xâm nhập. b, Hoạch định chiến lược thị trường dài hạn Các doanh nghiệp thường chỉ hoạt động hướng theo một cái đích duy nhất là lợi nhuận nên chỉ tập trung cho một số ít các thị trường mục tiêu của mình. Các cơ quan xúc tiến thương mại nhà nước có nhiệm vụ vạch ra các chiến lược phát triển thị trường dài hạn, các chiến lược thương mại cho cả một quốc gia trong các mối quan hệ kinh tế song phương và đa phương. Hơn thế nữa, việc hoạch định các chiến lược Marketing dài hạn cho các thị trường nước ngoài của các cơ quan chính phủ còn giúp cho các doanh nghiệp định hướng kế hoạch và các biện pháp riêng cho bản thân mình khi thâm nhập thị trường nước ngoài. Các bộ chuyên ngành như Bộ Thuỷ sản, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thônvà các tổng công ty phối hợp với Bộ Thương mại để lập kế hoạch phát triển xuất khẩu theo ngành hàng là một cách hiệu quả để đẩy mạnh việc xuất khẩu một cách bền vững, đồng thời tạo chỗ đứng vững chắc cho các sản phẩm Việt Nam trên trường quốc tế. Ban đầu bằng việc rà soát các phương thức, cách xâm nhập vào một thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam đi trước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài khác tại thị trường mục tiêu. Từ đó đưa ra cách tốt nhất giúp doanh nghiệp xâm nhập thị trường. Các tổ chức chính phủ cần đi đầu trong việc hoạch định và tham gia vào các dự án ở nước ngoài phù hợp chiến lược marketing dài hạn. Tìm cách phối hợp các cơ quan chức năng nước ngoài để tăng cường khả năng tiếp cận các dự án nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam và phía đối tác. c, Tham vấn chính sách Tổ chức xúc tiến thương mại định kỳ thường xuyên thu thập ý kiến, nguyện vọng của các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài từ đó đề xuất kiến nghị với các cơ quan hữu quan của chính phủ, các nhà hoạch định chính sách để sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống chính sách, hệ thống quản lý kinh tế và thương mại nhằm phát huy tối đa tiềm năng của các doanh nghiệp, đảm bảo cho thị trường luôn sôi động, thông thoáng. Đồng thời, cơ quan xúc tiến thương mại cũng là một trong những công cụ của Nhà nước để chuyển tải và quán triệt đường lối, chính sách quản lý kinh tế, thương mại cho cộng đồng doanh nghiệp. Mặt khác, tổ chức xúc tiến thương mại quốc gia còn phải xây dựng hoặc tham gia xây dựng chính sách, các văn bản pháp luật về xúc tiến thương mại, giúp Bộ Thương mại chủ trì và phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan xây dựng chương trình, qui hoạch, kế hoạch và dự án về các hoạt động xúc tiến thương mại. Hướng dẫn thực hiện các chương trình, qui hoạch, kế hoạch và dự án đó sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt. d, Thực hiện hợp tác quốc tế về xúc tiến thương mại và trợ giúp quá trình quốc tế hoá của các doanh nghiệp trong nước: Đến nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có tổ chức xúc tiến thương mại mang tính chất Chính phủ và phi chính phủ. Mặt khác, trên thế giới đã hình thành nhiều tổ chức xúc tiến thương mại mang tính chất đa phương như Trung tâm thương mại quốc tế (ITC-International Trade Centre) của Liên hiệp quốc, Nhóm Công tác về xúc tiến thương mại của APEC (APEC Working Group on Trade Promotion), Diễn đàn xúc tiến thương mại Châu á (ATPF- Asia Trade Promotion Forum), Trung tâm xúc tiến thương mại, đầu tư và du lịch Nhật Bản- ASEAN (AJC - ASEAN-JAPAN Promotion Centre on Trade, Investment and Tourism). Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, các tổ chức xúc tiến thương mại ngày càng tăng cường hoạt động hỗ trợ cho giới doanh nghiệp đồng thời cũng đẩy mạnh sự hợp tác với nhau trong lĩnh vực xúc tiến thương mại. Việc tăng cường hợp tác quốc tế giữa các tổ chức xúc tiến thương mại là tất yếu và cần thiết. Do đó, tham gia các hoạt động chung về xúc tiến thương mại là những đòi hỏi cấp bách, không những nhằm thực hiện có hiệu quả chương trình hành động chung mà còn tranh thủ được sự trợ giúp của quốc tế, mở rộng giao lưu, khai thác thông tin và tìm kiếm cơ hội kinh doanh. Với chức năng này các cơ quan xúc tiến thương mại nhà nước sẽ đảm nhận các dự án hợp tác với chính quyền địa phương ở trong nước, chọn các ngành và các doanh nghiệp Việt Nam có thế mạnh để đưa họ tham gia vào quá trình quốc tế hoá. Để làm được điều này tổ chức xúc tiến thương mại cần có các hoạt động xúc tiến phối hợp với chính quyền địa phương trong và ngoài nước, cùng các doanh nghiệp tổ chức các phái đoàn thương mại ra nước ngoài tìm kiếm nghiên cứu xác định các mặt hàng có ưu thế và là mặt hàng tiềm năng sản xuất. Cạnh đó cùng phối hợp các tổ chức xúc tiến thương mại tổ chức các hội chợ triển lãm giới thiệu sản phẩm hàng hoá, tạo cầu nối giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước. e, Giúp Bộ trưởng Bộ thương mại chỉ đạo các đại diện thương mại ở nước ngoài tiến hành các công tác xúc tiến thương mại Các đại diện thương mại ở nước ngoài là thành phần quan trọng trong hệ thống xúc tiến thương mại vì đây thường là cơ quan cung cấp các thông tin tình báo thương mại chính xác, có giá trị. Sự phối hợp chỉ đạo của cơ quan xúc tiến thương mại nhà nước- điển hình là Cục xúc tiến thương mại- đã giúp cơ quan này định hướng hoạt động của mình trong việc phục vụ doanh nghiệp trong và ngoài nước. Các chi nhánh này chính là nơi cung cấp cho doanh nghiệp Việt Nam những dịch vụ và tư vấn bổ ích về thủ tục xuất khẩu, thủ tục và các cơ hội đầu tư, các thông tin về nhu cầu thị trường về hàng hoá Việt Nam. Thông qua các hoạt động thường ngày của các văn phòng đại diện để giúp các nhà xuất khẩu Việt Nam trong việc tìm kiếm các cơ hội mới cho sản phẩm và dịch vụ của họ, đẩy mạnh việc phân phối và đẩy mạnh sản phẩm của họ ở nước ngoài. Đây cũng là nơi hỗ trợ sắp xếp cho các phái đoàn đến thăm làm việc với các doanh nghiệp Việt Nam và phân phát các ấn phẩm của tổ chức. g, Đào tạo- tư vấn thương mại Việc tổ chức tập huấn nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác xúc tiến thương mại và cán bộ quản lí và kinh doanh là một trong những nhiệm vụ của cục xúc tiến thương mại. Để thực hiện việc này các vị lãnh đạo của chính phủ của nước ngoài có khả năng về chính trị, thương mại quốc tế đã được mời về nói chuyện, trao đổi quan điểm với giới lãnh đạo trong chính phủ và giới kinh doanh Việt Nam. Cục còn tổ chức đưa họ đi thăm các cơ sở kinh tế hiện tại sản xuất kinh doanh các nhóm hàng có tiềm năng xuất khẩu, các vùng, khu vực kinh tế lớn trọng điểm để họ hiểu thêm về đối tác Việt Nam. Cục cũng tổ chức khoá đào tạo cho nhân viên các tổ chức xúc tiến thương mại và gửi các nhân viên tham dự các khoá đào tạo về xúc tiến thương mại ở nước ngoài để trao dồi kiến thức nghiệp vụ. Ngoài ra, Cục còn tổ chức các khoá đào tạo cho doanh nghiệp xuất khẩu. Trong các khoá đào tạo này doanh nghiệp không chỉ có điều kiện học hỏi các kiến thức về Marketing, hải quan, các quy định của nước nhập khẩu mà còn được tư vấn nhiều vấn đề của riêng từng doanh nghiệp. Việc tư vấn thường là miễn phí, hoặc mức phí cũng chỉ là tượng trưng. h, Tổ chức, hướng dẫn và hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia các hội chợ, triển lãm trong ngoài nước để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tuyên truyền quảng cáo, giới thiệu hàng hoá dịch vụ và lĩnh vực hoạt động kinh doanh của họ. Hội chợ triển lãm cũng là nơi doanh nghiệp có cơ hội tìm kiếm bạn hàng, tiến hành giao dịch thương mại, nắm bắt nhu cầu thị hiếu tiêu dùng, khảo sát nghiên cứu thị trường. Các tổ chức xúc tiến thương mại rất cần thiết phải tổ chức và hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia triển lãm, hội chợ, quảng cáo khuyến mại tại việt Nam và ở nước ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất, các công ty thương mại Việt Nam giới thiệu các sản phẩm của họ ra thị trường trong và ngoài nước.Hình thức như tổ chức có thể là: các trung tâm giới thiệu sản phẩm, tuần lễ giao dịch thương mại, toạ đàm, hội chợ, giới thiệu sản phẩm qua InternetThực tế là nếu các đơn vị doanh nghiệp tham gia lẻ tẻ tự phát thì thường chi phí sẽ cao hơn, đồng thời doanh nghiệp cũng không rõ hội chợ triển lãm nào nên tham gia và tham gia như thế nào. Các tổ chức xúc tiến thương mại lúc này sẽ đóng vai trò như cầu nối giúp doanh nghiệp có thông tin chính xác về các hội chợ triển lãm đó và tư vấn cách tham gia sao cho có hiệu quả hơn. 2.2 Nội dung hoạt động xúc tiến thương mại của các tổ chức phi chính phủ Các tổ chức xúc tiến thương mại phi chính phủ cũng có nhiều hoạt động khá giống các tổ chức của chính phủ, ví dụ như việc thu thập thông tin thương mại, tổ chức các cuộc hội chợ, triển lãm, in ấn các ấn phẩm phục vụ doanh nghiệp những cũng có nhiều hoạt động có cách thức, phạm vi tiến hành khác với các tổ chức của chính phủ. Các tổ chức xúc tiến thương mại phi chính phủ thường không làm việc định hướng thị trường. Họ không phải cơ quan tập hợp đầy đủ và làm đầu mối tập hợp các thông tin khu vực và thế giới trừ những tổ chức quy mô như phòng thương mại công nghiệp. Tuy nhiên đây vẫn là những tổ chức nghiên cứu và dự báo thị trường. Trong việc hoạch định chiến lược thị trường dài hạn đây là những tổ chức phối hợp với các cơ quan chính phủ. Và trong khi Cục xúc thương mại có thể chỉ đạo các tham tán và đại diện thương mại Việt Nam ở nước ngoài thì các tổ chức xúc tiến thương mại phi chính phủ chỉ có được sự phối hợp ngang cấp với những cơ quan này. Việc tham vấn chính sách ở các tổ chức này cũng chỉ ở một mức độ vừa phải chứ không được như các tổ chức chính phủ. Tuy nhiên tổ chức xúc tiến thương mại phi chính phủ cũng có trách nhiệm tư vấn cho các doanh nghiệp Việt Nam về thị trường , mặt hàng, công nghệ, kỹ thuật kinh doanh, đặc biệt chú trọng tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời, giúp đỡ, tư vấn và hướng dẫn cho các doanh nghiệp nước ngoài muốn phát triển kinh doanh tại Việt nam về luật pháp, môi trường kinh doanh, tìm kiếm đối tác. ở những nước mới đang ở trong thời kỳ đầu của quá trình xây dựng nền công nghiệp hướng vào xuất khẩu, các hoạt động xúc tiến thương mại không thể tách rời các hoạt động xúc tiến đầu tư trực tiếp, thu hút vốn và công nghệ nướ
Luận văn liên quan