Hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một xu thế thời đại. Để bắt nhịp với
xu thế đó, Việt Nam đã chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
Tham gia sân chơi kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc mở cửa hơn nữa thị
trường tài chính, dịch vụ ngân hàng nước ngoài thâ m nhập vào Việt Nam.
Đồng thời, sức ép đối với các NHTM Việt Nam tăng lên.
Thách thức lớn nhất trong hội nhập quốc tế trong dịch vụ ngân hàng
của Việt Nam là xuất phát điể m còn thấp về trình độ phát triển thị trường,
tiề m lực về vốn yếu, công nghệ và tổ chức ngân hàng lạc hậu, và trình độ
quản lý thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Mặt
khác, về chất lượng hoạt động, hầu hết các NHTM Việt Nam hoạt động tín
dụng vẫn là chủ yếu, sản phẩm dịch vụ còn sơ sài, thiếu các tiêu chí quản lý
theo tiêu chuẩn quốc tế.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam không nằm ngoài quỹ đạo
trên. NH ĐT&PT VN là một trong các NHTM quốc doanh hàng đầu Việt
Nam, tuy nhiên các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng còn khá đơn điệu, phổ
biến là các sản phẩm ngân hàng truyền thống. Vì vậy, để giành thế chủ động
trong tiến trình hội nhập, NH ĐT&PT VN phải giải quyết đồng bộ các vấn đề
của hoạt động kinh doanh, mà trước hết là vấn đề phát triển sản phẩm.
Bởi vậy việc nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, qua đó tìm các giải
pháp phù hợp với điều kiện cụ thể của NH ĐT&PT VN sẽ góp phần nâng cao
khả năng cạnh tranh trong xu thế hội nhập quốc tế. Cùng với kết quả từ việc
nghiên cứu tài liệu và tìm hiểu thực tế hoạt động của NH ĐT&PT VN, em đã
chọn và hoàn thiện đề tài: “Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm của
Ngân Hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam trong xu thế hội nhập.”
104 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2038 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trong xu thế hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƢƠNG
---------***---------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SẢN
PHẨM TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT
TRIỂN VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP
Sinh viên thực hiện : Đỗ Thị Phƣơng
Lớp : A7
Khoá : K41C - KTNT
Giáo viên hướng dẫn : CN. Lê Thị Thanh
HÀ NỘI - 11/2006
Đê tài: “Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm tại NH ĐT & PT Việt Nam”
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C - KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
NH ĐT & PT VN: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
BIDV: Bank for Investment and Development of Vietnam
(Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam)
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
TCTD: Tổ chức tín dụng
SPNH: Sản phẩm ngân hàng
SPDV: Sản phẩm dịch vụ
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp
1
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một xu thế thời đại. Để bắt nhịp với
xu thế đó, Việt Nam đã chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
Tham gia sân chơi kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc mở cửa hơn nữa thị
trường tài chính, dịch vụ ngân hàng nước ngoài thâm nhập vào Việt Nam.
Đồng thời, sức ép đối với các NHTM Việt Nam tăng lên.
Thách thức lớn nhất trong hội nhập quốc tế trong dịch vụ ngân hàng
của Việt Nam là xuất phát điểm còn thấp về trình độ phát triển thị trường,
tiềm lực về vốn yếu, công nghệ và tổ chức ngân hàng lạc hậu, và trình độ
quản lý thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Mặt
khác, về chất lượng hoạt động, hầu hết các NHTM Việt Nam hoạt động tín
dụng vẫn là chủ yếu, sản phẩm dịch vụ còn sơ sài, thiếu các tiêu chí quản lý
theo tiêu chuẩn quốc tế.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam không nằm ngoài quỹ đạo
trên. NH ĐT&PT VN là một trong các NHTM quốc doanh hàng đầu Việt
Nam, tuy nhiên các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng còn khá đơn điệu, phổ
biến là các sản phẩm ngân hàng truyền thống. Vì vậy, để giành thế chủ động
trong tiến trình hội nhập, NH ĐT&PT VN phải giải quyết đồng bộ các vấn đề
của hoạt động kinh doanh, mà trước hết là vấn đề phát triển sản phẩm.
Bởi vậy việc nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, qua đó tìm các giải
pháp phù hợp với điều kiện cụ thể của NH ĐT&PT VN sẽ góp phần nâng cao
khả năng cạnh tranh trong xu thế hội nhập quốc tế. Cùng với kết quả từ việc
nghiên cứu tài liệu và tìm hiểu thực tế hoạt động của NH ĐT&PT VN, em đã
chọn và hoàn thiện đề tài: “Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm của
Ngân Hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam trong xu thế hội nhập.”
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp
2
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu những lý luận cơ bản về
vấn đề phát triển sản phẩm của NHTM; phân tích thực trạng phát triển sản phẩm
tại NH ĐT&PT VN, những kết quả đã đạt được cũng như những khó khăn gặp
phải và những nguyên nhân trong phát triển sản phẩm để từ đó đề xuất một số
giải pháp và kiến nghị việc phát triển sản phẩm tại NH ĐT&PT VN.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu về
phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN trong thời gian từ năm
2003 đến 6 tháng đầu năm 2006.
Phương pháp nghiên cứu: khoá luận dựa trên lý luận cơ bản của triết
học, sử dụng phép duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, duy vật lịch
sử, đối chiếu so sánh. Khoá luận sử dụng phương pháp đi từ cái chung đến cái
riêng, phân tích kết hợp với tổng hợp đúc kết thành lý luận trên cơ sở thực
tiễn để nghiên cứu.
Bố cục của khoá luận: ngoài phần mở đầu và kết luận, bài viết gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về sản phẩm ngân hàng và phát triển
sản phẩm ngân hàng
Chương II: Thực trạng phát triển sản phẩm tại NH ĐT&PT VN
Chương III: Giải pháp phát triển sản phẩm tại NH ĐT&PT VN
Do kiến thức thực tế và điều kiện nghiên cứu còn hạn chế, tài liệu tổng
kết và thống kê chưa đầy đủ nên khóa luận không thể tránh khỏi nhiều thiếu
sót và hạn chế. Em rất mong có sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và các cán bộ
khoa học để khóa luận được hoàn chỉnh hơn và giúp em có nhận thức sâu sắc
hơn về đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn giảng viên Lê Thị Thanh- Giáo viên hướng
dẫn- đã tận tình chỉ bảo em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận
văn.
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp
3
CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM NGÂN
HÀNG TRONG XU THẾ HỘI NHẬP
I. TỔNG QUAN VỀ SẢN PHẨM NGÂN HÀNG
1. Khái niệm và vai trò của sản phẩm ngân hàng
1.1. Khái niệm sản phẩm ngân hàng
1.1.1. Định nghĩa sản phẩm ngân hàng
Về cơ bản, một sản phẩm do một tổ chức cung cấp nó phải có khả năng
thỏa mãn một nhu cầu nhất định nào đó của khách hàng. Khách hàng của
ngân hàng có những nhu cầu cơ bản sau:
- Tìm kiếm thu nhập
- Quản lý rủi ro (cất giữ an toàn tiền, tài sản quý giá)
- Bổ sung các nguồn tài chính thiếu hụt (tín dụng)
- Di chuyển tiền tệ
- Tư vấn chuyên môn
- Thông tin….
Trên thực tế, hoạt động của ngân hàng đang cung cấp các sản phẩm
dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng trên thị trường như:
- Dịch vụ cho vay;
- Dịch vụ tiền gửi ký thác;
- Dịch vụ chuyển tiền;
- Dịch vụ tư vấn;
- Dịch vụ cho thuê két sắt, gửi tiền qua đêm;
- Dịch vụ thanh toán;
- Các dịch vụ về thẻ…
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp
4
Như vậy, có thể hiểu sản phẩm ngân hàng là tập hợp tất cả những đặc
điểm, tính năng, công dụng mà ngân hàng cung cấp nhằm thỏa mãn nhu cầu
của khách hàng trên thị trường tài chính.
Ở đây, tính năng được hiểu là những tính chất, chức năng kỹ thuật của
sản phẩm mang lại tiện ích, công dụng cho khách hàng như chuyển tiền
nhanh, rút tiền tự động. Công dụng là những tiện ích mà sản phẩm mang lại
nhờ những tính năng của nó.
1.1.2. Đặc điểm của sản phẩm ngân hàng
- Tính vô hình:
Đây là đặc điểm chủ yếu để phân biệt sản phẩm ngân hàng với các sản
phẩm của các ngành sản xuất vật chất khác trong nền kinh tế quốc dân. SPNH
thường thực hiện theo một quy trình chứ không phải là các vật thể cụ thể có
thể quan sát, nắm giữ được. Vì vậy, khách hàng của ngân hàng thường gặp
khó khăn trong việc ra quyết định lựa chọn, sử dụng sản phẩm. Họ chỉ có thể
kiểm tra và xác định chất lượng sản phẩm trong và sau khi sử dụng.
- Tính không thể tách biệt:
Sản phẩm của ngân hàng là hình thức dịch vụ, mang hình thái phi vật
chất, quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được tiến hành đồng thời với sự
tham gia của ba yếu tố:
+ Một là, khách hàng tham gia vào quá trình sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm. Khách hàng sẽ thể hiện nhu cầu của mình đối với sản phẩm, đồng thời
đánh giá chất lượng của sản phẩm.
+ Hai là, nhân viên giao dịch trực tiếp với khách hàng, là hình ảnh của
ngân hàng.
+ Ba là, cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại tạo điều kiện thuận lợi
trong việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ đến với khách hàng.
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp
5
Quá trình cung ứng sản phẩm của ngân hàng thường được tiến hành
theo những quy trình nhất định không thể chia cắt ra thành các loại sản phẩm
khác nhau như quy trình thẩm định, quy trình cho vay, quy trình chuyển tiền,
… Điều đó làm cho ngân hàng không có sản phẩm dở dang, dự trữ lưu kho
mà sản phẩm được cung ứng trực tiếp cho người tiêu dùng khi và chỉ khi có
nhu cầu; quá trình cung ứng diễn ra đồng thời với quá trình sử dụng.
- Tính không ổn định và khó xác định:
SPNH được cấu thành bởi nhiều yếu tố khác nhau như: trình độ đội ngũ
nhân viên, kỹ thuật công nghệ và khách hàng. Đồng thời, SPNH còn được
thực hiện ở không gian khác nhau nên đã tạo nên tính không đồng nhất về
thời gian, cách thức thực hiện và điều kiện thực hiện. Các yếu tố này đan xen
chi phối đến chất lượng sản phẩm, nhưng lại thường xuyên biến động; đặc
biệt là đội ngũ nhân viên giao dịch trực tiếp là yếu tố quyết định và tạo ra sự
không ổn định và khó xác định về chất lượng SPNH.
1.2. Vai trò của sản phẩm ngân hàng
SPNH có vai trò rất quan trọng trong kinh tế, đời sống và quá trình hội
nhập quốc tế.
SPNH thúc đẩy sản xuất phát triển, đóng góp vào tăng trưởng GDP. Là
những định chế trung gian tài chính, hệ thống tổ chức tín dụng huy động các
khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để đầu tư, cho vay các chủ thể kinh doanh,
sản xuất và đời sống. Trong điều kiện kinh tế nước ta khi các kênh huy động vốn
khác còn chưa phát triển, hệ thống NHTM đã trở thành kênh cung cấp vốn chủ
lực cho nền kinh tế. Thông qua các dịch vụ cho vay, hệ thống NHTM giúp các
doanh nghiệp chuyển đổi cơ cấu sản xuất, dịch chuyển vốn đầu tư, đổi mới trang
thiết bị, công nghệ, nhằm hạ giá thành sản phẩm nâng cao sức cạnh tranh, nhất là
trong giai đoạn hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp
6
SPNH thúc đẩy nền kinh tế theo xu hướng nền kinh tế tri thức. SPNH
ngày càng sử dụng nhiều thành tựu của công nghệ thông tin. Các SPNH đang
phát triển như thẻ ATM, home banking, internet banking, … Công cụ hoạt
động hàng ngày được các NHTM trang bị như máy PC, mạng trực tuyến
trong hệ thống, website, …góp phần tạo thêm những dịch vụ mới. Mặt khác,
SPNH là loại dịch vụ chất lượng cao, đòi hỏi người cung cấp và khách hàng
phải có am hiểu nhất định mới có thể sử dụng và vận hành.
SPNH tạo điều kiện cho các ngành dịch vụ khác phát triển. Do đặc
điểm của SPNH liên quan sâu rộng đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực sản xuất
và đời sống, nên sự phát triển của SPNH như đầu tư, thanh toán, chuyển tiền
gắn với các dịch vụ bưu chính viễn thông, kế toán, kiểm toán, du lịch, giao
thông vận tải. Lĩnh vực xuất nhập khẩu dịch vụ sẽ bị hạn chế nếu dịch vụ
thanh toán không thông suốt.
2. Phân loại sản phẩm ngân hàng
2.1. Căn cứ vào nhu cầu của khách hàng
Dựa vào nhu cầu của khách hàng, có thể phân thành sáu nhóm:
- Nhóm SPDV thỏa mãn nhu cầu về tiền như các khoản cho vay.
- Nhóm SPDV thỏa mãn nhu cầu thu nhập như tiền gửi tiết kiệm, dịch
vụ đầu tư.
- Nhóm SPDV thỏa mãn nhu cầu về thanh toán và chuyển tiền như séc, thẻ…
- Nhóm SPDV thỏa mãn nhu cầu quản lý như bảo hiểm, ký thác, bảo
quản tài sản.
- Nhóm SPDV thỏa mãn nhu cầu về thông tin như dịch vụ thông tin thị
trường, luật pháp, bảo lãnh…
- Nhóm SPDV thỏa mãn nhu cầu về chuyên môn sâu như tư vấn về
thuế, dự án và tư vấn đầu tư.
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp
7
2.2. Căn cứ vào bảng cân đối tài sản
Dựa vào bảng cân đối tài sản, có thể phân thành hai nhóm SPDV:
- Các SPDV nội bảng như nhận tiền gửi, cho vay và đầu tư chứng khoán.
- Các SPDV ngoại bảng như các dịch vụ tư vấn, mua bán ngoại hối,
quyền mua – quyền bán, bảo lãnh.
2.3. Căn cứ vào sự phát triển và ứng dụng công nghệ vào sản phẩm
ngân hàng
- SPNH truyền thống: là những sản phẩm gắn liền với những nghiệp vụ
truyền thống của ngân hàng (tiết kiệm, tiền gửi, cho vay, thanh toán, …).
Những sản phẩm này xuất phát từ nguồn gốc ra đời của ngân hàng, nó tồn tại
cùng với sự tồn tại của ngân hàng. Nó là những sản phẩm đặc trưng cho tất cả
các loại hình ngân hàng và các tổ chức phi ngân hàng. Do vậy, những sản
phẩm này thường ít thay đổi và phải chịu sự quản lý chặt chẽ, thống nhất bởi
các quy định, thể chế của Nhà Nước.
- SPNH hiện đại: kinh doanh ngân hàng hiện đại không chỉ là việc huy
động vốn và cho vay mà còn tham gia đầu tư và cung cấp các sản phẩm bổ
sung khác cho nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của khách hàng.
Có thể phân biệt giữa SPNH truyền thống và SPNH hiện đại qua một
số chỉ tiêu sau:
Tiêu chí SPNH truyền thống SPNH hiện đại
Nguồn gốc ra
đời
Ra đời cùng với sự hình thành
và phát triển của ngân hàng.
Là những sản phẩm ra đời
do sự phát triển của công
nghệ thông tin hiện đại.
Sự tham gia
của con người
Cần nhiều lao động, chủ yếu là
lao động thủ công, ít cần sự
tham gia của máy móc.
Cần hàm lượng công nghệ
cao, đặc biệt là công nghệ
thông tin. Sự tham gia của
máy móc thiệt bị hiện đại
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp
8
là chủ yếu.
Địa điểm và
thời gian giao
dịch
Khách hàng phải rời bỏ nơi
làm việc, nhà ở của mình để
đến giao dịch trực tiếp tại trụ
sở ngân hàng. Thời gian kể từ
khi phát sinh đến khi thỏa mãn
nhu cầu là rất lâu.
Khách hàng có thể ở tại
nhà hoặc nơi làm việc
hoặc bất kỳ chỗ nào đều
có thể giao dịch được. Rút
ngắn thời gian giao dịch.
Tính rủi ro
Ngân hàng phụ thuộc nhiều
vào khách hàng, mang tính rủi
ro cao.
Sản phẩm đa dạng, phân
tán rủi ro, tăng khả năng
cạnh tranh cho ngân hàng.
3. Các cấp độ và chu kỳ sống của sản phẩm ngân hàng
3.1. Các cấp độ của sản phẩm ngân hàng
- Cấp độ thứ nhất: Phần sản phẩm cốt lõi
Phần cốt lõi của SPNH là phần chính đáp ứng nhu cầu cấp thiết của
khách hàng. Thực chất đây chính là những lợi ích chủ yếu mà khách hàng tìm
kiếm ở ngân hàng. Đó là giá trị cốt yếu mà ngân hàng cần bán cho khách
hàng. Mỗi SPNH khác nhau, phần cốt lõi sẽ khác nhau và đáp ứng được nhu
cầu cấp thiết khác nhau của khách hàng.
Vì vậy, nhiệm vụ chính của nhà thiết kế SPNH là phải xác định được
nhu cầu cần thiết của khách hàng đối với từng sản phẩm để từ đó thiết kế
phần cốt lõi của sản phẩm sao cho phù hợp với nhu cầu chính yếu nhất của
khách hàng – cái mà khách hàng cần tìm kiếm từ ngân hàng.
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp
9
SƠ ĐỒ: BA CẤP ĐỘ SẢN PHẨM NGÂN HÀNG
- Cấp độ thứ hai: Phần sản phẩm hữu hình
Phần sản phẩm hữu hình là phần cụ thể của SPNH, là hình thức biểu
hiện như tên gọi, hình thức, biểu tượng, hình ảnh, điều kiện sử dụng. Đây là
căn cứ quan trọng để khách hàng nhận biết, phân biệt, so sánh và quyết định
lựa chọn SPNH.
Các NHTM thường hoàn thiện sản phẩm bằng cách tăng tính hữu hình
của sản phẩm nhằm tạo ra sự khác biệt, tính độc đáo để tăng khả năng cạnh
tranh của ngân hàng trên thị trường.
- Cấp độ thứ ba: Phần sản phẩm bổ sung
Phần sản phẩm bổ sung là phần tăng thêm vào sản phẩm hiện hành
những dịch vụ hay lợi ích khác, bổ sung những lợi ích căn bản cho khách
hàng như phục vụ sau khi mua, bán, nộp rút tiền tự động, thông báo số dư tài
khoản 24/24h/ngày, phụ vụ tại gia, thanh toán qua kênh viễn thông, thông báo
hết thời hạn trái phiếu cho từng khách hàng, chuyển tiền miễn phí,… Chúng
làm hoàn thiện hơn và thỏa mãn được nhiều hơn, tốt hơn nhu cầu, mong
muốn cho khách hàng, tạo sự khác biệt nổi bật so với đối thủ cạnh tranh.
Khuyến mãi
Hình
ảnh
Hình
thức
Điều
kiện
Biểu
tượng
Các dịch vụ bổ sung
Sản phẩm cốt lõi
Sản phẩm hữu hình
Sản phẩm bổ sung
Nhu cầu cấp
thiết của
khách hàng
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp
10
Phần sản phẩm bổ sung cũng là yếu tố cạnh tranh mạnh mẽ của các
ngân hàng vì tính linh hoạt và khả năng phát triển của nó.
3.2. Chu kỳ sống của sản phẩm ngân hàng
Chu kỳ sống của sản phẩm dịch vụ ngân hàng được chia làm bốn giai đoạn:
3.2.1. Thâm nhập thị trường
Thâm nhập là giai đoạn bắt đầu đưa SPDV vào thị trường. Khách hàng chưa
hiểu biết nhiều về SPDV, dẫn đến số khách hàng sử dụng ít, tốc độ bán chậm,
doanh thu thấp trong khi đó chi phí lại cao, đặc biệt là chi phí cho hoạt động
Marketing; nên lợi nhuận thu được ở giai đoạn này thấp, thậm chí không có.
Mặt khác, do số lượng khách hàng sử dụng SPDV ít nên ngân hàng
không khai thác hết hiệu quả của quy mô. Tuy nhiên, trong giai đoạn thâm
nhập thị trường, ngân hàng có lợi thế trong cạnh tranh, thuận lợi trong việc
thu hút và phát triển khách hàng mới.
3.2.2. Tăng trưởng - phát triển
Trong giai đoạn này, khách hàng đã quen sử dụng SPDV của ngân hàng
và cũng nhận thấy được tính ưu việt của SPDV mới, nên số lượng khách hàng
tăng; nhu cầu về SPDV tăng nhanh. Ngân hàng mở rộng thị trường tới các
nhóm khách hàng tiềm năng, tốc độ tiêu thụ nhanh, lợi nhuận thu được tăng
và có thể đạt mức cực đại. Chi phí Marketing cao nhưng tỷ trọng trong tổng
chi phí giảm.
Trên thị trường xuất hiện những đối thủ mới, tạo ra sự cạnh tranh mạnh
mẽ. Trong giai đoạn này, các ngân hàng thường tập trung vào việc hoàn thiện
tạo thêm những nét mới của SPDV. Bởi ngân hàng đang đứng trước nguy cơ
những ngân hàng đi sau sẽ khắc phục được những hạn chế của SPDV để đưa
ra những sản phẩm mới, hoàn thiện hơn, có sức cạnh tranh cao hơn.
3.2.3. Chín muồi - Bão hòa
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp
11
Đây là giai đoạn khách hàng không còn ưa thích sử dụng các SPDV
ngân hàng bởi những hạn chế của nó. Mặt khác, các nhóm khách hàng tiềm
năng đã được khai thác mà nhu cầu hiện tại của họ lại rất cao. Do vậy, doanh
thu của ngân hàng về SPDV chững lại, có xu hướng giảm, lợi nhuận ngân
hàng không ổn định và bắt đầu giảm sút.
Trong giai đoạn này, ngân hàng thường tập trung vào việc duy trì vị thế của
SPDV trên thị trường và cố gắng làm chậm tốc độ suy giảm bằng việc giảm phí,
lãi, cải tiến sản phẩm dịch vụ bằng cách phát triển sản phẩm bổ sung, đẩy mạnh
các hoạt động khuyến mãi nhằm tạo ra sự khác biệt của SPDV.
3.2.4. Suy thoái
Đây là giai đoạn cuối cùng của chu kỳ sống sản phẩm, khi nhu cầu của
khách hàng về SPDV giảm mạnh. Khách hàng không còn ưa chuộng SPDV
nữa, bởi sản phẩm không còn đáp ứng được nhu cầu, mong muốn của họ.
Vị thế của SPDV trên thị trường và số lượng khách hàng sử dụng
SPDV giảm nhanh nên dẫn đến doanh thu và lợi nhuận cũng giảm theo. Ngân
hàng thường phải cân nhắc kỹ lưỡng về khả năng duy trì SPDV đó trên thị
trường. Đồng thời, ngân hàng phải chuẩn bị đưa ra những SPDV mới với tư
cách dự trữ, thay thế nhưng có sức mạnh hơn để giữ vững thị trường hiện tại
và mở rộng thị trường mới.
Có thể tóm tắt chu kỳ sống của sản phẩm ngân hàng qua bảng sau đây:
Giai đoạn
Đặc điểm
Triển khai
Tăng
trƣởng
Chín muồi Suy thoái
Khối lƣợng tiêu thụ Chậm Tăng mạnh Tăng chậm Suy giảm
Lợi nhuận Yếu Tối đa Giảm dần Yếu
Chi phí Cao Trung bình Cao Giảm
Khách hàng Tiên phong Quen – biết Quen – biết Cổ truyền
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp
12
Cạnh tranh Giới hạn Tăng lên Mạnh Giảm
II. PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM NGÂN HÀNG – XU HƢỚNG TẤT YẾU CỦA NGÂN
HÀNG TRONG XU THẾ HỘI NHẬP
1. Tính tất yếu của phát triển SPNH đối với các NHTM
Phát triển SPNH xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất: sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng gia tăng.
Những năm cuối của thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, quá trình tự do hóa,
toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, đã làm cho sự phát triển của các ngân hàng
tùy thuộc vào việc giành giật thị trường giữa các đối thủ. Mặt khác, hệ thống
ngân hàng đa quốc gia đang mở rộng đến các thị trường mới một cách mạnh
mẽ, làm tăng tốc độ hội nhập vào thị trường tài chính, ngân hàng quốc tế.
Đồng thời, sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt
về cả mức độ, phạm vi