1. Tính cấp thiết của đề tài.
Câu nói “Phi thương bất phú” luôn đúng trong mọi thời đại. Bởi một quốc gia sẽ không tồn tại và phát triển được nếu không tham gia vào hoạt động kinh doanh. Đặc biệt, trong thời đại nền kinh tế theo xu hướng toàn cầu hóa như ngày nay thì việc tiếp cận với thị trường thế giới là một điều hết sức cần thiết. Ngoại thương là chiếc cầu nối tổ chức quá trình lưu thông hàng hóa giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài thông qua mua bán. Hoạt động XNK là một trong những hoạt động quan trọng có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ nền kinh tế và mang lại nguồn lợi đáng kể cho mỗi quốc gia đặc biệt là những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Muốn hoạt động XNK diễn ra thuận lợi, mang lại hiệu quả cao thì việc GNHH XNK phải được thực hiện một cách logic, khoa học và chuyên nghiệp.
Do nhu cầu của thị trường các công ty GNHH XNK ra đời để đáp ứng những yêu cầu đó. Tuy nhiên GNHH XNK là một trong những ngành được coi là cạnh tranh khốc liệt vào bậc nhất hiện nay. Để có thể đứng vững trên thị trường và nâng cao chất lượng dịch vụ một cách tối ưu, các công ty hoạt động trong lĩnh vực này cần có những giải pháp để phát triển hoạt động GNHH quốc tế của mình. Cụ thể là phát triển dịch vụ GNHH quốc tế bằng đường biển là hoạt động chiếm tỷ trọng chủ yếu ở hầu hết các công ty giao nhận. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “ Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động GNHH XNK bằng đường biển trong các công ty giao nhận tại TP. HCM ”.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Dựa vào cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng và nghiên cứu các nhân tố tác động đến hoạt động GNHH XNK bằng đường biển trong các công ty giao nhận tại TP. HCM, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của loại hình dịch vụ này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng hoạt động GNHH XNK bằng đường biển trong các công ty giao nhận tại TP. HCM.
Phạm vi nghiên cứu: Các công ty kinh doanh dịch vụ GNHH XNK tại TP HCM và các số liệu thống kê phục vụ cho đề tài nghiên cứu được thu thập đến hết năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Sử dụng các phương pháp: điều tra khảo sát thực tế, thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh.
5. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp: gồm 3 chương chính:
Chương 1: Lý luận chung về dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển.
Chương 2: Thực trạng hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển trong các công ty giao nhận tại thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Điều tra thực trạng giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển qua đánh giá của các công ty giao nhận và đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển tại thành phố Hồ Chí Minh.
71 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3770 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển trong các công ty giao nhận tại Thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Câu nói “Phi thương bất phú” luôn đúng trong mọi thời đại. Bởi một quốc gia sẽ không tồn tại và phát triển được nếu không tham gia vào hoạt động kinh doanh. Đặc biệt, trong thời đại nền kinh tế theo xu hướng toàn cầu hóa như ngày nay thì việc tiếp cận với thị trường thế giới là một điều hết sức cần thiết. Ngoại thương là chiếc cầu nối tổ chức quá trình lưu thông hàng hóa giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài thông qua mua bán. Hoạt động XNK là một trong những hoạt động quan trọng có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ nền kinh tế và mang lại nguồn lợi đáng kể cho mỗi quốc gia đặc biệt là những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Muốn hoạt động XNK diễn ra thuận lợi, mang lại hiệu quả cao thì việc GNHH XNK phải được thực hiện một cách logic, khoa học và chuyên nghiệp.
Do nhu cầu của thị trường các công ty GNHH XNK ra đời để đáp ứng những yêu cầu đó. Tuy nhiên GNHH XNK là một trong những ngành được coi là cạnh tranh khốc liệt vào bậc nhất hiện nay. Để có thể đứng vững trên thị trường và nâng cao chất lượng dịch vụ một cách tối ưu, các công ty hoạt động trong lĩnh vực này cần có những giải pháp để phát triển hoạt động GNHH quốc tế của mình. Cụ thể là phát triển dịch vụ GNHH quốc tế bằng đường biển là hoạt động chiếm tỷ trọng chủ yếu ở hầu hết các công ty giao nhận. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “ Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động GNHH XNK bằng đường biển trong các công ty giao nhận tại TP. HCM ”.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Dựa vào cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng và nghiên cứu các nhân tố tác động đến hoạt động GNHH XNK bằng đường biển trong các công ty giao nhận tại TP. HCM, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của loại hình dịch vụ này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng hoạt động GNHH XNK bằng đường biển trong các công ty giao nhận tại TP. HCM.
Phạm vi nghiên cứu: Các công ty kinh doanh dịch vụ GNHH XNK tại TP HCM và các số liệu thống kê phục vụ cho đề tài nghiên cứu được thu thập đến hết năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Sử dụng các phương pháp: điều tra khảo sát thực tế, thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh.
5. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp: gồm 3 chương chính:
Chương 1: Lý luận chung về dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển.
Chương 2: Thực trạng hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển trong các công ty giao nhận tại thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Điều tra thực trạng giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển qua đánh giá của các công ty giao nhận và đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển tại thành phố Hồ Chí Minh.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU BẰNG ĐƯỜNG BIỀN.
1.1. Dịch vụ giao nhận.
1.1.1. Khái niệm.
Theo Quy tắc mẫu của Liên đoàn các hiệp hội giao nhận quốc tế (FIATA): Dịch vụ giao nhận (Freight forwarding service) là bất cứ loại dich vụ nào liên quan đến vận chuyển, gom hàng, lưu kho, bốc xếp, đóng gói hay phân phối hàng hóa cũng như các dịch vụ hoặc có liên quan đến các dịch vụ trên kể cả các vấn đề hải quan, tài chính, mua bảo hiểm, thanh toán, thu thập chứng từ liên quan đến hàng hóa.
Theo Luật Thương mại Việt Nam: Dịch vụ giao nhận hàng hóa là hành vi thương mại, theo đó người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa nhận hàng từ người gửi, tổ chức vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan để giao hàng cho người nhận theo ủy thác của chủ hàng, của người vận tải hoặc người làm dịch vụ giao nhận khác (gọi chung là khách hàng).
Như vậy, về cơ bản: giao nhận hàng hóa là tập hợp những công việc có liên quan đến quá trình vận tải nhằm thực hiện việc di chuyển hàng hóa từ nơi gửi hàng (người gửi hàng) đến nơi nhận hàng (người nhận hàng).
1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ giao nhận vận tải.
Do cũng là một loại hình dịch vụ nên dịch vụ giao nhận vận tải cũng mang những đặc điểm chung của dịch vụ, đó là nó là hàng hóa vô hình nên không có tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đồng nhất, không thể cất giữ trong kho, sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời, chất lượng của dịch vụ phụ thuộc vào cảm nhận của người được phục vụ. Nhưng do đây là một hoạt động đặc thù nên dịch vụ này cũng có những đặc điểm riêng:
Dịch vụ giao nhận vận tải không tạo ra sản phẩm vật chất, nó chỉ làm cho đối tượng thay đổi vị trí về mặt không gian chứ không tác động về mặt kỹ thuật làm thay đổi các đối tượng đó. Nhưng giao nhận vận tải lại có tác động tích cực đến sự đến sự phát triển của sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân.
Mang tính thụ động: Đó là do dịch vụ này phụ thuộc rất nhiều vào nhu cầu của khách hàng, các qui định của người vận chuyển, các ràng buộc về luật pháp, thể chế của chính phủ (nước XK, nước NK, nước thứ ba)…
Mang tính thời vụ: Dịch vụ giao nhận là dịch vụ phục vụ cho hoạt động XNK nên nó phụ thuộc rất lớn vào lượng hàng hóa XNK. Mà thường hoạt động XNK mang tính chất thời vụ nên hoạt động giao nhận cũng chịu ảnh hưởng của tính thời vụ.
Ngoài những công việc như làm thủ tục, môi giới, lưu cước, người làm dịch vụ giao nhận còn tiến hành các dịch vụ khác như gom hàng, chia hàng, bốc xếp nên để hoàn thành công việc tốt hay không còn phụ thuộc nhiều vào cơ sở vật chất kỹ thuật và kinh nghiệm của người giao nhận.
1.1.3. Yêu cầu của dịch vụ giao nhận vận tải.
Cũng như bất kỳ một loại dịch vụ nào, dịch vụ giao nhận vận tải hàng hóa tuy không có những chỉ tiêu định tính để đánh giá chất lượng nhưng nó cũng có những yêu cầu đòi hỏi riêng mà người giao nhận phải đáp ứng mới thỏa mãn được nhu cầu của khách hàng. Một số yêu cầu của dịch vụ này bao gồm:
Giao nhận hàng hóa phải nhanh gọn.
Nhanh gọn thể hiện ở thời gian hàng đi từ nơi gửi đến nơi nhận, thời gian bốc xếp, kiểm đếm giao nhận. Giảm thời gian giao nhận, góp phần đưa ngay hàng hóa vào đáp ứng nhu cầu của khách hàng, muốn vậy người làm giao nhận phải nắm chắc quy trình kỹ thuật, chủng loại hàng hóa, lịch tàu và bố trí hợp lý phương tiện vận chuyển.
Giao nhận chính xác an toàn.
Đây là yêu cầu quan trọng để đảm bảo quyền lợi của chủ hàng và người vận chuyển. Chính xác là yếu tố chủ yếu quyết định chất lượng và mức độ hoàn thành công việc bao gồm chính xác về số lượng, chất lượng, hiện trạng thực tế, chính xác về chủ hàng, nhãn hiệu. Giao nhận chính xác an toàn sẽ hạn chế đến mức thấp nhất sự thiếu hụt, nhầm lẫn, tổn thất về hàng hóa.
Bảo đảm chi phí thấp nhất.
Giảm chi phí giao nhận là phương tiện cạnh tranh hiệu quả giữa các đơn vị giao nhận. Muốn vậy phải đầu tư thích đáng cơ sở vật chất, xây dựng và hoàn chỉnh các định mức, các tiêu chuẩn hao phí, đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ.
1.1.4. Vai trò của dịch vụ giao nhận vận tải.
Vai trò quan trọng của giao nhận ngày càng được thể hiện rõ trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay. Thông qua:
- Giao nhận tạo điều kiện cho hàng hóa lưu thông nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm mà không cần có sự tham gia của người gửi cũng như người nhận tác nghiệp.
- Giao nhận giúp cho người chuyên chở đẩy nhanh tốc độ quay vòng của phương tiện vận tải tận dụng tối đa và hiệu quả sử dụng của các phương tiện vận tải cũng như các phương tiện hỗ trợ khác.
- Giao nhận giúp giảm giá thành các hàng hóa xuất nhập khẩu do giúp các nhà xuất nhập khẩu giảm bớt chi phí như: chi phí đi lại, chi phí đào tạo nhân công, chi phí cơ hội...
1.2. Người giao nhận.
1.2.1. Khái niệm.
Theo Quy tắc mẫu của FIATA: Người giao nhận là người lo toan để hàng hóa được chuyên chở theo hợp đồng ủy thác và hành động vì lợi ích của người ủy thác mà bản thân anh ta không phải là người chuyên chở. Người giao nhận cũng đảm nhận thực hiện mọi công việc liên quan đến hợp đồng giao nhận như: bảo quản, lưu kho, trung chuyển, làm thủ tục hải quan, kiểm hóa...
Theo Luật Thương mại Việt Nam: Người giao nhận là thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh về dịch vụ giao nhận hàng hóa. Người giao nhận có thể là:
- Chủ hàng: khi chủ hàng tự đứng ra đảm nhận công việc giao nhận hàng hóa của mình.
- Chủ tàu: Khi chủ tàu thay mặt người chủ hàng thực hiện dịch vụ giao nhận.
- Đại lý hàng hóa, công ty xếp dỡ hay kho hàng, người giao nhận chuyên nghiệp hay bất kỳ người nào khác có đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa.
Vậy, Người giao nhận là người:
- Hoạt động theo hợp đồng ủy thác với chủ hàng, bảo vệ lợi ích của chủ hàng.
- Lo việc vận tải nhưng chưa hẳn là người vận tải. Có thể là người có hoặc không có phương tiện vận tải, có thể sử dụng, thuê mướn người vận tải hoặc trực tiếp tham gia vận tải. Nhưng ký hợp đồng ủy thác giao nhận với chủ hàng là người giao nhận chứ không phải là người vận tải.
- Cùng với việc tổ chức vận tải, người giao nhận còn làm nhiều việc khác trong phạm vi ủy thác của chủ hàng để đưa hàng từ nơi này đến nơi khác theo những điều khoản đã cam kết.
- Người giao nhận có thể làm các dịch vụ một cách trực tiếp hoặc thông qua đại lý và thuê dịch vụ của người thứ ba khác.
- Người làm dịch vụ giao nhận khi nhận việc vận chuyển hàng hoá thì phải tuân theo quy định của pháp luật chuyên ngành về vận tải.
Trong xu thế thương mại toàn cầu hoá cùng với sự phát triển nhiều hình thức vận tải mới trong những thập niên qua. Ngày nay, người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá giữ vai trò quan trọng trong vận tải và buôn bán quốc tế. Những dịch vụ người giao nhận thực hiện không chỉ dừng lại ở các công việc cơ bản truyền thống như đặt chỗ đóng hàng, nơi dùng để kiểm tra hàng hoá, giao nhận hàng hoá mà còn thực hiện những dịch vụ chuyên nghiệp hơn như tư vấn chọn tuyến đường vận chuyển, chọn tàu vận tải, đóng gói bao bì hàng hoá, …
1.2.2. Phạm vi các dịch vụ của người giao nhận.
Dịch vụ thay mặt người gửi hàng (Người XK).
Người giao nhận với những thoả thuận cụ thể sẽ giúp khách hàng của mình (người XK) những công việc sau:
- Lựa chọn tuyến đường, phương thức vận tải và người vận tải thích hợp.
- Lưu khoang với hãng tàu đã chọn lựa.
- Nhận hàng hoá và cấp các chứng từ liên quan.
- Nghiên cứu các điều kiện của thư tín dụng (L/C) và các văn bản luật pháp của chính phủ liên quan đến vận chuyển hàng hoá của nước XK, nước NK, kể cả các quốc gia chuyển tải hàng hoá, cũng như chuẩn bị các chứng từ cần thiết.
- Ðóng gói hàng hoá (trừ khi hàng hoá đã đóng gói trước khi giao cho người giao nhận) có tính đến tuyến đường, phương thức vận tải, bản chất hàng hóa và các luật lệ áp dụng nếu có nước XK, các nước chuyển tải và các nước đến.
- Tư vấn cho người xuất khẩu về tầm quan trọng của bảo hiểm hàng hoá.
- Chuẩn bị kho bảo quản hàng hoá, cân đo hàng hoá (nếu cần).
- Vận chuyển hàng hoá đến cảng, sắp xếp việc khai hải quan, thực hiện các thủ tục về lệ phí ở khu vực giám sát hải quan, cảng vụ, và giao hàng hoá cho người vận tải.
- Nhận B/L từ người vận tải, sau đó giao cho người xuất khẩu.
- Theo dõi quá trình vận chuyển hàng hoá đến cảng đích bằng cách liện hệ với người vận tải hoặc đại lý của người giao nhận ở nước ngoài.
- Ghi chú về những mất mát, tổn thất đối với hàng hoá (nếu có).
- Giúp người xuất khẩu trong việc khiếu nại đối với những hư hỏng, mất mát hay tổn thất của hàng hoá.
Dịch vụ thay mặt người nhận hàng (Người NK).
Người giao nhận với những thoả thuận cụ thể sẽ giúp khách hàng của mình (người NK) những công việc sau:
- Theo dõi quá trình vận chuyển hàng hoá trong trường hợp người NK chịu trách nhiệm về chi phí vận chuyển.
- Nhận và kiểm tra tất cả các chứng từ liên quan đến quá trình vận chuyển hàng hoá.
- Nhận hàng từ người vận tải và nếu cần, trả cước phí.
- Chuẩn bị các chứng từ, nộp các lệ phí giám sát hải quan, các lệ phí liên quan.
- Chuẩn bị kho hàng chuyển tải (nếu cần thiết).
- Giao hàng hoá đã làm thủ tục hải quan cho người NK.
- Giúp người NK trong việc khiếu nại với các tổn thất, mất mát của hàng hoá.
- Giúp người NK trong việc lưu kho và phân phối hàng nếu cần.
Các dịch vụ khác.
Ngoài các dịch vụ kể trên, người giao nhận còn cung cấp các dịch vụ khác theo yêu cầu của khách hàng như dịch vụ gom hàng, tư vấn cho khách hàng về nhu cầu tiêu dùng, các thị trường mới, tình huống cạnh tranh, chiến lược XK, các điều kiện giao hàng phù hợp, các điều khoản thương mại thích hợp cần phải có trong hợp đồng ngoại thương …
1.3. Địa vị pháp lý về người giao nhận.
Do chưa có luật lệ quốc tế quy định về địa vi pháp lý của người giao nhận nên ở các nước khác nhau thì địa vị pháp lý của người giao nhận có khác nhau.
Theo các nước sử dụng luật Common law.
Người giao nhận có thể lấy danh nghĩa của người ủy thác (người gửi hàng hay người nhận hàng) thì địa vị người giao nhận dựa trên khái niệm về đại lý. Hay có thể đảm nhận vai trò của người ủy thác (nhân danh và hành động bằng lợi ích của chính mình). Tự mình chịu trách nhiệm trong quyền hạn của chính mình.
Hoạt động của người giao nhận khi đó phụ thuộc vào những quy tắc truyền thống về đại lý, như việc phải mẫn cán khi thực hiện nhiệm vụ của mình, phải trung thực với người ủy thác, tuân theo những chỉ dẫn hợp lý của người ủy thác, mặt khác được hưởng những quyền bảo vệ và giới hạn trách nhiệm phù hợp với vai trò của một đại lý.
Trong trường hợp người giao nhận đảm nhận vai trò của người ủy thác (hành động cho lợi ích của mình), tự mình ký kết hợp đồng với người chuyên chở và các đại lý, thì người giao nhận sẽ không được hưởng những quyền bảo vệ và giới hạn trách nhiệm nói trên, mà phải chịu trách nhiệm cho cả quá trình giao nhận hàng hóa kể cả khi hàng nằm trong tay những người chuyên chở và đại lý sử dụng.
Theo các nước sử dụng luật Civil law.
Có quy định khác nhau nhưng thông thường người giao nhận lấy danh nghĩa của mình giao dịch cho công việc của người ủy thác họ vừa là người ủy thác và vừa là đại lý. Đối với người ủy thác (người nhận hàng hay người gửi hàng) họ được coi là đại lý còn đối với người chuyên chở họ lại là người ủy thác. Tuy nhiên thể chế mỗi nước sẽ có những điểm khác biệt.
Liên đoàn các hiệp hội giao nhận quốc tế (FIATA) đã soạn thảo Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn để các nước tham khảo xây dựng các điều kiện cho ngành giao nhận của nước mình, giải thích rõ ràng các nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của người giao nhận.
Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn quy định người giao nhận phải:
- Tiến hành chăm sóc chu đáo hàng hóa được ủy thác.
- Điều hành và lo liệu vận tải hàng hóa được ủy thác theo chỉ dẫn của khách hàng về những vấn đề có liên quan đến hàng hóa đó.
- Người giao nhận không nhận đảm bảo hàng đến vào một ngày nhất định, có quyền cầm giữ hàng khi khách hàng của mình không thanh toán các khoản phí.
- Chỉ chịu trách nhiệm về lỗi lầm của bản thân mình và người làm công cho mình, không chịu trách nhiệm về sai sót của bên thứ ba, miễn là đã tỏ ra cần mẫn thích đáng trong việc lựa chọn bên thứ ba đó.
Những điều kiện này thường được hình thành phù hợp với tập quán thương mại hay thể chế pháp lý hiện hành ở từng nước.
Ở những nước chưa có điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn, hợp đồng giữa người giao nhận và khách hàng sẽ quy định quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm mỗi bên.
1.4. Quyền và nghĩa vụ của người giao nhận.
1.4.1. Quyền của người giao nhận.
- Ðược hưởng tiền công và các khoản thu nhập hợp lý khác.
- Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá có quyền cầm giữ số hàng hoá nhất định và các chứng từ có liên quan đến hàng hoá để đòi tiền nợ đã đến hạn của khách hàng và thông báo ngay bằng văn bản cho khách hàng.
- Sau 45 ngày kể từ ngày cầm giữ, nếu khách hàng không trả tiền nợ thì người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá có quyền định đoạt hàng hoá hoặc chứng từ đó theo quy định pháp luật, mọi chi phí cầm giữ và định đoạt hàng hoá do khách hàng chịu.
1.4.2. Nghĩa vụ của người giao nhận.
- Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo hợp đồng.
- Quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có lý do chính đáng vì lợi ích của khách hàng thì có thể thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng nhưng phải thông báo ngay cho khách hàng.
- Sau khi ký kết hợp đồng, nếu xảy ra trường hợp có thể dẫn đến việc không thực hiện được toàn bộ hoặc một phần những chỉ dẫn của khách hàng thì phải thông báo ngay cho khách hàng biết để xin chỉ dẫn thêm.
- Trong trường hợp hợp đồng không có thoả thuận về thời hạn cụ thể thực hiện nghĩa vụ với khách hàng thì phải thực hiện các nghĩa vụ của mình trong thời hạn hợp lý.
1.4.3. Giới hạn trách nhiệm.
- Trách nhiệm của người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá trong mọi trường hợp không vượt quá giá trị hàng hoá, trừ khi các bên có thoả thuận khác trong hợp đồng.
- Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá không được miễn trách nhiệm nếu không chứng minh được việc mất mát, hư hỏng hoặc chậm giao hàng không phải do lỗi của mình gây ra.
- Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá không phải chịu trách nhiệm, khi họ không nhận được thông báo về khiếu nại trong thời hạn 14 ngày, kể từ ngày giao hàng, không tính ngày chủ nhật, ngày lễ; không nhận được thông báo bằng văn bản về việc bị kiện tại Toà án hoặc Trọng tài trong 9 tháng, kể từ ngày giao hàng.
1.4.4. Các trường hợp miễn trách nhiệm.
- Ðã làm đúng theo những chỉ dẫn của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền.
- Do lỗi của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền.
- Khách hàng đóng gói và ghi ký mã hiệu không phù hợp.
- Do khách hàng hoặc người được khách hàng uỷ quyền thực hiện việc xếp, dỡ hàng hoá.
- Do khuyết tật của hàng hoá.
- Do có đình công hoặc các trường hợp khác bất khả kháng.
- Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá cũng không phải chịu trách nhiệm về việc mất khoản lợi đáng lẽ khách hàng được hưởng về sự chậm chễ hoặc giao hàng sai địa chỉ mà không phải do lỗi của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
1.5. Mối quan hệ của người giao nhận với các bên liên quan.
1.5.1. Các tổ chức của chính phủ.
- Các đơn vị hải quan để khai hải quan.
- Các đơn vị quản lý cửa khẩu để làm thủ tục thông qua cảng.
- Các ngân hàng.
- Các cơ quan kiểm dịch động-thực vật.
- Các cơ quan giám định hàng xuất nhập khẩu.
- Các đơn vị cấp C/O.
- Phòng quản lý xuất nhập khẩu khu vực.
1.5.2. Các tổ chức tư nhân.
- Người vận tải và các đại lý vận tải.
- Người quản lý kho hàng.
- Người bảo hiểm.
- Các doanh nghiệp đóng gói hàng hoá.
- Các ngân hàng thương mại.
1.6. Vai trò của người giao nhận trong thương mại quốc tế.
Ngày nay cùng với sự mở rộng trong thương mại quốc tế, các phương thức vận tải ngày càng phát triển: vận tải container, vận tải đa phương thức, người giao nhận không chỉ làm đại lý, người nhận ủy thác mà còn cung cấp dịch vụ vận tải và đóng vai trò như một vai chính – người chuyên chở. Người giao nhận đã đóng vai trò:
Môi giới hải quan.
Ban đầu, người giao nhận chỉ hoạt động trong nước, phụ trách làm thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu và dành chỗ chở hàng trong vận tải quốc tế hoặc lưu cước đối với các hãng tàu theo sự ủy thác của người XK hoặc người NK. Trên cơ sở Nhà nước cho phép, người giao nhận thay mặt người XK hoặc người NK để khai báo làm thủ tục hải quan như một môi giới hải quan.
Đại lý.
Người giao nhận đóng vai trò như một đại lý của người chuyên chở để thực hiện các hoạt động khác nhau như: nhận hàng, giao hàng, lập chứng từ, làm thủ tục hải quan, lưu kho... trên cơ sở hợp đồng ủy thác.
Người gom hàng.
Người chuyên chở đóng vai trò là đại lý hoặc người chuyên chở. Đặc biệt là không thể thiếu trong vận tải container nhằm thu gom những lô hàng lẻ thành hàng nguyên để tận dụng sức chở của container và giảm cước phí vận tải.
Người chuyên chở.
Trong nhiều trường hợp người giao nhận đóng vai trò là người chuyên chở, nghĩa là người giao nhận trực tiếp ký hợp đồng vận tải và chịu trách nhiệm chuyên chở hàng với chủ hàng. Người giao