Vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đối với những khởi sắc
của nền kinh tế trong suốt thời gian qua là không thể phủ nhận. Như huyết mạch
của thị trường tài chính - tiền tệ nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung, các ngân
hàng thương mại đã luôn đóng vai trò chủ đạo trong việc tận dụng và phát huy các
nguồn lực tài chính trong nước, đáp ứng nhu cầu tín dụng của đông đảo đối tượng
và thành phần kinh tế, phục vụ đắc lực cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, vị trí ấy đang bị lung lay, vì cùng với sự hội nhập quốc tế ngày càng chủ
động và tích cực hơn của Việt Nam trong thời gian gần đây, thị trường tài chính -ngân hàng sẽ mở rộng cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việc cạnh tranh là không
thể tránh khỏi, do đó năng lực cạnh tranh là vấn đề then chốt.
Bàn về năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, có
rất nhiều điều để trăn trở: trình độ phát triển thị trường và trình độ quản lý thấp, chất
lượng tài sản không cao, công nghệ ngân hàng lạc hậu, dịch vụ còn giới hạn,
v.v Song, một trong những hạn chế lớn nhất, ảnh hưởng cơ bản nhất đến khả năng
cạnh tranh của các định chế tài chính này tại Việt Nam chính là tiềm lực tài chính
còn hết sức yếu kém, mà Vốn chủ sở hữu là thước đo cho tiềm lực ấy.
Nếu ngân hàng có thể hoạt động và lớn mạnh như một cây cổ thụ, thì vốn chủ sở
hữu chính là rễ của cái cây đó. Không chỉ tạo cơ sở hình thành và điều kiện mở rộng
cho ngân hàng, trong suốt quá trình hoạt động, nguồn vốn ấy luôn đóng vai trò là
tấm đệm chống đỡ mọi tổn thất đến từ lĩnh vực kinh doanh chứa đựng đầy rủi ro này.
Có thể nói, vốn chủ sở hữu là xuất phát điểm đầu tiên, và cũng là cứu cánh cuối
cùng cho mọi ngân hàng duy trì được sự tồn tại và phát triển của mình. Một mức
vốn chủ sở hữu đủ lớn sẽ giúp tránh được những vụ phá sản ngân hàng _ một tai họa
đem lại ảnh hưởng bất lợi đối với nền kinh tế có lẽ là hơn bất cứ loại hình doanh
nghiệp nào khác. Vì vậy, tìm hiểu sâu về thực trạng vốn chủ sở hữu của các ngân
hàng thương mại Việt Nam hiện nay, và những sức ép tăng nguồn vốn này trong
thời gian tới là một việc làm rất thiết thực và cấp bách, đặc biệt khi mà tài chính
122 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2383 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại Việt Nam và sức ép tăng vốn trong thời gian tới nhằm phù hợp với bối cảnh hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Mục: Trang
Lời mở đầu 1
Chƣơng I: Lý luận chung về Vốn Chủ Sở Hữu và Hệ số an toàn vốn của các
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ NGOẠI THƢƠNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG VỐN CHỦ SỞ HỮU CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ SỨC ÉP TĂNG VỐN TRONG THỜI
GIAN TỚI NHẰM PHÙ HỢP VỚI BỐI CẢNH HỘI NHẬP
Họ và tên sinh viên : Dƣơng Hoàng Kim Ngân
Lớp : A19
Khóa : 42
Giáo viên hƣớng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Hiền
Hà Nội, tháng 11 năm 2007
2
Ngân hàng thƣơng mại 3
I. Tổng quan về Ngân hàng thƣơng mại 3
1. Khái niệm 3
2. Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại 4
3. Ngân hàng _ ngành kinh doanh có độ rủi ro cao 5
II. Vốn chủ sở hữu và Hệ số an toàn vốn (CAR) của ngân hàng thƣơng mại 5
1. VCSH đối với NHTM 5
1.1. Khái niệm 5
1.2. Các thành phần của VCSH tại các NHTM 7
1.2.1. Phân loại theo sự hình thành nguồn vốn 7
1.2.2. Phân loại theo Hiệp ước Basel 10
1.3. Vai trò của VCSH đối với NHTM 12
1.3.1. Tấm đệm chống đỡ rủi ro, bảo vệ người gửi tiền/ký thác, và các quỹ
bảo hiểm tiền gửi 13
1.3.2. Tạo điều kiện cho sự thành lập và hoạt động ban đầu của NHTM 14
1.3.3. Tạo niềm tin cho người gửi tiền và thu hút tiền gửi 15
1.3.4. Cung cấp nguồn lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển 15
1.3.5. Phương tiện điều chỉnh hoạt động và điều tiết sự tăng trưởng 15
2. Hệ số an toàn vốn CAR (Capital Adequacy Ratio) 16
2.1. Hệ số an toàn vốn CAR 16
2.1.1. Hệ số CAR theo Hiệp ước Basel I 16
2.1.2. Hệ số CAR theo Hiệp ước Basel II 19
2.2. Vai trò của hệ số CAR trong việc xác định một quy mô VCSH thích
hợp đối với NHTM 21
III. Kinh nghiệm tăng VCSH của NHTM tại một số nƣớc và bài học cho
Việt Nam 21
1. Trung Quốc 22
2. Thái Lan 26
3. Hàn Quốc 28
4. Ba Lan 29
5. Hình thức liên kết vốn “Tập đoàn tài chính” tại một số nước phát triển 30
3
6. Bài học cho Việt Nam 32
Chƣơng II: Thực trạng Vốn chủ sở hữu của các NHTM Việt Nam 33
I. Tổng quan về hệ thống NHTM Việt Nam 34
1. Lịch sử hình thành và phát triển 34
2. Khái quát những thành tựu của hệ thống NHTM Việt Nam thời gian qua 36
3. Phân tích SWOT của các NHTM Việt Nam 38
II. Thực trạng VCSH và Hệ số an toàn vốn của các NHTM Việt Nam 40
1. Thực trạng 40
1.1. Bộ phận NHTMNN 40
1.2. Bộ phận NHTMCP 40
1.3. Bộ phận NHTM Liên doanh 44
2. Đánh giá thực trạng VCSH và hệ số an toàn vốn của các NHTM
Việt Nam 49
2.1. Những thành tựu 49
2.2. Những hạn chế 52
3. Nguyên nhân của thực trạng VCSH và hệ số an toàn vốn của các
NHTM Việt Nam 58
3.1. Nguyên nhân của những tiến bộ 58
3.2. Nguyên nhân của những tồn tại 60
Chƣơng III. Một số giải pháp tăngvốn chủ sở hữu cho các NHTM
Việt Nam nhằm phù hợp với sức ép tăng vốn của bối cảnh hội nhập 64
I. NHTM Việt Nam trƣớc sức ép tăng vốn trong bối cảnh hội nhập
1. Xu hướng tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế 64
2. Hội nhập trong lĩnh vực Ngân hàng ở Việt Nam 64
3. Sức ép tăng vốn trong bối cảnh hội nhập 65
3.1. Sức ép cạnh tranh từ phía các định chế tài chính nước ngoài 66
3.1.1. Hội nhập theo Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ 67
3.1.2. Hội nhập theo các hiệp định của ASEAN và WTO 68
3.1.3. Yêu cầu quy mô VCSH lớn 68
3.2. Phạm vi và chất lượng hoạt động được mở rộng đòi hỏi VCSH lớn 72
3.2.1. Số lượng và quy mô nhu cầu về dịch vụ NH tăng đòi hỏi VCSH lớn 73
4
3.2.2. Quy mô hoạt động mở rộng để tận dụng lợi ích kinh tế theo quy mô 74
3.2.3. VCSH lớn để vượt qua những giới hạn kinh doanh đặt ra từ phía
các nhà quản lý 75
3.3. Sự gia tăng các yếu tố rủi ro trong hoạt động tài chính - ngân hàng
của bối cảnh hội nhập 77
III. Một số giải pháp tăng VCSH và Hệ số an toàn vốn cho các NHTM
Việt Nam 79
1. Đẩy mạnh triển khai cổ phần hóa đối với bộ phận NHTMNN 79
1.1.Tính cấp thiết và triển vọng
8079
1.2. Những vấn đề đối với việc CPH bộ phận NHTMNN 81
2. Đối với bộ phận NHTMCP và Liên doanh 85
2.1. Phát hành cổ phiếu, và trái phiếu có khả năng chuyển đổi 85
2.2. Thu hút đối tác chiến lược 87
3.Hợp nhất, sáp nhập các tổ chức tài chính 89
3.1. Hợp nhất, sáp nhập để cải thiện năng lực tài chính 89
3.2. Hợp nhất, sáp nhập để thành lập tập đoàn tài chính mạnh 89
3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động, từ đó tăng lợi nhuận tích lũy 91
4. Tăng cường hệ số an toàn vốn 92
III. Một số kiến nghị nhằm góp phần tăng VCSH và hệ số an toàn vốn
đối với các NHTM Việt Nam trong bối cảnh hội nhập 92
Kết luận 94
Danh mục tài liệu tham khảo 95
Danh mục bảng biểu 102
Phụ lục 1: Danh mục các bảng biểu phụ 103
Phụ lục 2: Cách phân loại vốn và “tài sản có” (nội và ngoại bảng) điều
chỉnh theo tỷ lệ rủi ro theo luật Việt Nam 106
5
Danh mục các chữ viết tắt
CPH : Cổ phần hóa
GT : Giá trị
NH : Ngân hàng
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTMQD : Ngân hàng thương mại quốc doanh
NHTMNN : Ngân hàng thương mại Nhà nước
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTW : Ngân hàng Trung Ương
TCTD : Tổ chức tín dụng
TS : Tài sản
VCSH : Vốn chủ sở hữu
6
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đối với những khởi sắc
của nền kinh tế trong suốt thời gian qua là không thể phủ nhận. Như huyết mạch
của thị trường tài chính - tiền tệ nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung, các ngân
hàng thương mại đã luôn đóng vai trò chủ đạo trong việc tận dụng và phát huy các
nguồn lực tài chính trong nước, đáp ứng nhu cầu tín dụng của đông đảo đối tượng
và thành phần kinh tế, phục vụ đắc lực cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, vị trí ấy đang bị lung lay, vì cùng với sự hội nhập quốc tế ngày càng chủ
động và tích cực hơn của Việt Nam trong thời gian gần đây, thị trường tài chính -
ngân hàng sẽ mở rộng cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việc cạnh tranh là không
thể tránh khỏi, do đó năng lực cạnh tranh là vấn đề then chốt.
Bàn về năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, có
rất nhiều điều để trăn trở: trình độ phát triển thị trường và trình độ quản lý thấp, chất
lượng tài sản không cao, công nghệ ngân hàng lạc hậu, dịch vụ còn giới hạn,
v.v…Song, một trong những hạn chế lớn nhất, ảnh hưởng cơ bản nhất đến khả năng
cạnh tranh của các định chế tài chính này tại Việt Nam chính là tiềm lực tài chính
còn hết sức yếu kém, mà Vốn chủ sở hữu là thước đo cho tiềm lực ấy.
Nếu ngân hàng có thể hoạt động và lớn mạnh như một cây cổ thụ, thì vốn chủ sở
hữu chính là rễ của cái cây đó. Không chỉ tạo cơ sở hình thành và điều kiện mở rộng
cho ngân hàng, trong suốt quá trình hoạt động, nguồn vốn ấy luôn đóng vai trò là
tấm đệm chống đỡ mọi tổn thất đến từ lĩnh vực kinh doanh chứa đựng đầy rủi ro này.
Có thể nói, vốn chủ sở hữu là xuất phát điểm đầu tiên, và cũng là cứu cánh cuối
cùng cho mọi ngân hàng duy trì được sự tồn tại và phát triển của mình. Một mức
vốn chủ sở hữu đủ lớn sẽ giúp tránh được những vụ phá sản ngân hàng _ một tai họa
đem lại ảnh hưởng bất lợi đối với nền kinh tế có lẽ là hơn bất cứ loại hình doanh
nghiệp nào khác. Vì vậy, tìm hiểu sâu về thực trạng vốn chủ sở hữu của các ngân
hàng thương mại Việt Nam hiện nay, và những sức ép tăng nguồn vốn này trong
thời gian tới là một việc làm rất thiết thực và cấp bách, đặc biệt khi mà tài chính -
7
ngân hàng là một trong những lĩnh vực được mở cửa mạnh nhất sau khi Việt Nam
gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) vào cuối năm 2006 vừa qua.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Thứ nhất, làm rõ những căn cứ lý luận và thực tiễn để khẳng định vai trò thiết
yếu của vốn chủ sở hữu và hệ số an toàn vốn đối với các ngân hàng thương mại;
đồng thời nghiên cứu một số kinh nghiệm tăng vốn chủ sở hữu của các nước trên
thế giới, từ đó rút ra bài học cho Việt Nam.
Thứ hai, tìm hiểu và đánh giá thực trạng vốn chủ sở hữu và hệ số an toàn vốn
của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian qua, những kết quả,
tồn tại và nguyên nhân.
Thứ ba, phân tích sức ép tăng vốn chủ sở hữu đối với các ngân hàng thương mại
Việt Nam trong tương lai gần; từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị phù hợp
với điều kiện và tình hình của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
Với thực tế là sức ép sẽ đến chủ yếu với bộ phận các ngân hàng thương mại bản
địa, cũng như mong muốn rằng các ngân hàng được thành lập bởi những nguồn lực
nước nhà không dần mất đi vị thế của mình trên thị trường, khóa luận chỉ xin tập
trung vào các ngân hàng thương mại do phía Việt Nam nắm quyền chi phối, bao
gồm các ngân hàng thương mại: Nhà nước, Cổ phần và Liên doanh, trong khoảng
thời gian từ năm 2000-2007.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp biện chứng trong nghiên cứu khoa học, Khóa luận chú
trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu: thống kê, tổng kết thực tiễn, phân tích
và khái quát.
5. Bố cục của Khóa luận
Chương I: Lý luận chung về Vốn Chủ Sở Hữu và Hệ số an toàn vốn của các
ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng Vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp tăng vốn chủ sở hữu cho các ngân hàng thương
mại Việt Nam nhằm phù hợp với sức ép tăng vốn của bối cảnh hội nhập.
8
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Hiền, giảng viên khoa Tài Chính
Ngân Hàng của trường Đại học Ngoại Thương, đã hết sức tận tình chỉ bảo và giúp
đỡ em hoàn thành Khóa Luận này.
9
CHƢƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN CHỦ SỞ HỮU VÀ HỆ SỐ AN TOÀN VỐN
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
I. Tổng quan về Ngân hàng thƣơng mại
1. Khái niệm
Ngân hàng (NH) là một trong các định chế tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Có thể định nghĩa NH qua các chức năng, dịch vụ, hoặc vai trò mà chúng
thực hiện, nhưng những yếu tố trên đang không ngừng thay đổi: Rất nhiều tổ chức
tài chính_bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, môi giới chứng khoán,
quỹ tương hỗ hay công ty bảo hiểm…đang nỗ lực cung cấp các dịch vụ ngân hàng;
Ngược lại, NH cũng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính
phi NH) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới
chứng khoán, đầu tư vào quỹ tương hỗ, v.v...Do đó, cách tiếp cận thận trọng nhất có
lẽ là xem xét NH trên phương diện những loại hình dịch vụ mà nó cung cấp. Theo
cách này:“Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất _ đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong
nền kinh tế” [10]. Cũng có một số định nghĩa dựa trên các hoạt động chủ yếu của
NH, ví dụ tại Việt Nam theo Điều 1_Khoản 3 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật các TCTD (số 20/2004/QH11): “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được
thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên
quan”, trong đó: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để
cung cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Có nhiều cách phân loại NH: Theo chức năng, có NHTW và NHTM; Theo mục
đích và phạm vi hoạt động có: NHTM, NH phát triển, NH đầu tư, NH chính sách,
NH hợp tác và các loại hình NH khác. Theo cách nào thì trong hầu hết mọi nền kinh
tế, NHTM vẫn thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số
lượng NH. Về cơ bản, có thể nói điểm phân biệt NHTM với các loại hình NH khác
là: NHTM hoạt động vì mục đích lợi nhuận (trong khi NHTW làm nhiệm vụ chính
10
là quản lý, thực thi và giám sát chính sách tiền tệ, đóng vai trò điều tiết, là NH của
các NH trong nền kinh tế; còn các NH chính sách, phát triển hay đầu tư lại ưu tiên
thực hiện những chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước, trợ giúp người nghèo,
đầu tư dự án, v.v…). Do đó khi nói đến NH, nhìn chung có thể hiểu đó là NHTM, vì
chúng thực hiện được tất cả những chức năng, nhiệm vụ và hướng tới cung cấp tất
cả những dịch vụ ngân hàng mà không bị giới hạn bởi các mục đích khác. NHTM
cũng được phân loại theo nhiều cách. Theo hình thức sở hữu: NHTM Nhà nước, tư
nhân, cổ phần, liên doanh, 100% vốn đầu tư nước ngoài; Theo tổ chức hoạt động:
Bán lẻ và Bán buôn; Chuyên doanh và Đa năng; Theo cơ cấu tổ chức: Sở hữu công
ty và Thuộc sở hữu công ty; Đơn nhất và Có chi nhánh.
NHTM thực hiện những chức năng vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế:
- Trung gian tín dụng: Trong hầu hết mọi nền kinh tế, NH là tổ chức thu hút tiền
tiết kiệm lớn nhất: Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp và các tổ chức
kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại NH, vì thế NH đóng vai trò thủ quỹ cho toàn xã hội;
Ngược lại, NH cũng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân,
hộ gia đình và một phần với Nhà nước (tỉnh, thành phố,...); Các khoản tín dụng của
NH cho Chính phủ (thông qua việc mua các chứng khoán của Chính phủ) là nguồn
tài chính quan trọng để đầu tư phát triển; Đối với các doanh nghiệp, NH thường là
tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ mua hàng hóa dự trữ, xây dựng nhà máy, mua
sắm trang thiết bị, v.v...
- Trung gian thanh toán: thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua
hàng hóa và dịch vụ bằng cách phát hành séc, thẻ, ủy nhiệm chi,…cung cấp mạng
lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy, tiền đúc.
- Tạo tiền: xuất phát từ chức năng trung gian tín dụng và than toán mà NH có
khả năng “tạo tiền”. Từ một khoản tiền gửi ban đầu vào NH, thông qua cho vay
bằng chuyển khoản (vì không phải mọi khoản vay đều được rút ra bằng tiền mặt để
đưa vào lưu thông), các NH nhân số tiền đó lên rất nhiều lần.
2. Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại
Các NHTM có những nghiệp vụ là: Nghiệp vụ tài sản nợ _ là nghiệp vụ huy
động, tạo nguồn vốn (với các dịch vụ như nhận tiền gửi, đi vay, phát hành kỳ phiếu,
trái phiếu, v.v.); Nghiệp vụ tài sản có _ là việc sử dụng những nguồn vốn tạo dựng
11
được vào các hoạt động kinh doanh (cho vay, thuê mua, tài trợ dự án, đầu tư chứng
khoán. v.v..) ; Nghiệp vụ trung gian (hoạt động ngoại bảng) _ là các nghiệp vụ mà
NHTM thực hiện căn cứ theo yêu cầu của khách hàng, thay mặt khách hàng thanh
toán, làm ủy thác,v.v.. để thu phí (bảo lãnh, đại lý, quản lý ngân quỹ, v.v..). Cùng
với sự phát triển của nền kinh tế cũng như ngành ngân hàng nói riêng, số dịch vụ mà
NHTM cung cấp cho ba nghiệp vụ nói trên hiện nay đã lên tới con số 6.000.
Với những chức năng và nghiệp vụ nói trên, NHTM có vai trò bôi trơn sự lưu
thông của tiền tệ, chuyển dịch vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, huy động và tạo
nguồn lực phát triển kinh tế, thực hiện các chính sách của Chính phủ (đặc biệt là
chính sách tiền tệ), góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục
tiêu xã hội.
3. Ngân hàng _ ngành kinh doanh có độ rủi ro cao
Lĩnh vực kinh doanh nào cũng luôn hàm chứa rủi ro, song đối với NH _ với tư
cách là một định chế tài chính đặc biệt _ nhân tố này lại càng là một yếu tố thường
trực và đa dạng hơn nữa. Các nhà quản trị NH liên tục phải đối mặt với vô số rủi ro
đến từ: sự thay đổi lãi suất (Rủi ro lãi suất), khả năng không thể chi trả đúng hạn của
khách hàng (Rủi ro tín dụng), nhu cầu rút vốn ồ ạt của khách hàng (Rủi ro thanh
khoản), những bất lợi trong tỷ giá (Rủi ro ngoại hối), Rủi ro công nghệ , Rủi ro hoạt
động ngoại bảng, Rủi ro quốc gia, chiến tranh, thay đổi chính sách thuế, v.v…
* Góp phần tạo nguồn lực làm nên những chức năng, vai trò đó của NHTM,
đồng thời hạn chế ảnh hưởng của vô số những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng nêu trên chính là yếu tố Vốn chủ sở hữu.
II. Vốn chủ sở hữu và Hệ số an toàn vốn (CAR) của ngân hàng thƣơng mại
1.Vốn chủ sở hữu đối với ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm
VCSH của NHTM có thể được hiểu là nguồn tiền thuộc sở hữu hợp pháp của
chủ NH trong một thời gian dài, chủ yếu bao gồm các khoản vốn NH được cấp,
hoặc được đóng góp bởi những người chủ ngân hàng khi mới thành lập, cộng với
những khoản được trích lập, giữ lại từ lợi nhuận hoạt động. Về cơ bản, cũng như các
12
loại hình doanh nghiệp khác, VCSH không phải hoàn trả, chủ NH có thể tăng, giảm
(với sự đồng ý của cơ quan chức năng), thay đổi cơ cấu của VCSH, hoặc quyết định
các chính sách phân phối lợi nhuận vốn dĩ có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn
này. Song, là một định chế tài chính đặc biệt, VCSH của NHTM mang một số điểm
riêng có như về thành phần của vốn, vai trò của vốn, v.v... Với chức năng là trung
gian tín dụng, NHTM chỉ lấy VCSH làm bàn đạp ban đầu; Còn lại, họ không ngừng
huy động tiền của các chủ thể khác trong xã hội và nền kinh tế để tài trợ cho các
hoạt động của mình. Do đó, ngay cả khi gia tăng về số lượng tuyệt đối theo đà phát
triển của NH, VCSH vẫn chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ, đôi khi là rất nhỏ (như trường
hợp các NHTM Việt Nam) trong tổng nguồn vốn của NH. ví dụ: tại Deutsche Bank
(một trong những NH hàng đầu Châu Âu và thế giới, có lịch sử từ năm 1876), đến
31/12/2006: Tổng nguồn vốn là 1.126 tỷ Euro, trong khi VCSH chỉ là 32,8 tỷ Euro
[43xxviii]. Tuy nhiên, chiếc bánh xe nhỏ ấy lại là khớp nối cho cả guồng máy ngân
hàng, đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm
bảo khả năng phát triển lâu dài của NHTM, đồng thời các thành phần của VCSH
cũng được phân loại một cách chi tiết để đáp ứng các công tác đánh giá vốn của NH
(sẽ đề cập ở các phần sau).
Năm 1988, Uỷ ban giám sát ngân hàng Basel (Basel Committee on Banking
Supervision) đã đưa ra văn bản: “Sự thống nhất quốc tế về đo lường vốn và các tiêu
chuẩn vốn” (International Convergence of Capital Measurement and Capital
Standards
), trong đó đưa ra định nghĩa dựa trên các thành phần của vốn tại NHTM
(Capital
*
)_ mà bản chất là VCSH. Từ đó đến nay, đặc biệt là trong thời gian gần đây
khi thị trường tài chính phát triển hết sức sôi động, hầu hết các NH trên thế giới đều
áp dụng những chuẩn mực phân loại đó. Các nhà kinh tế và học giả Việt Nam cũng
đi theo tinh thần của văn bản trên, song lại thiếu sự thống nhất về tên gọi. Điều này
khiến cho việc tìm hiểu bản chất của phạm trù VCSH sao cho đúng với thông lệ
quốc tế và pháp luật Việt Nam có phần phức tạp. Trong những tài liệu thuộc lĩnh
vực NH (của Việt Nam hoặc được dịch sang tiếng Việt), các tác giả đưa ra nhiều
cách gọi tên khác nhau khi đề cập đến VCSH của NHTM: “Vốn tự có”[7][11][13];
* Với các doanh nghiệp phi tài chính, VCSH tiếng Anh được gọi là: Shareholders’ equity, Stockholders’
equity, Ownership’s equity.
13
hoặc “VCSH”[4][5][6][10]; hoặc đồng nhất các khái niệm “Vốn”, “Vốn tự có”,
“VCSH” [12]. Trong các văn bản luật có liên quan, như Luật các tổ chức tín dụng
(Số 02/1997/QH10) Chương I_Điều 20_khoản 13 và bản sửa đổi bổ sung (Số
20/2004/QH11) Điều 1_khoản 3, hay trong một văn bản quan trọng có đề cập trực
tiếp những vấn đề về vốn của NH là Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong
hoạt động của TCTD (Số 457/2005/QĐ-NHNN) Phần II_Mục I_Điều 3, cũng chỉ
đưa ra khái niệm “Vốn tự có”. Tuy nhiên, như đã nói, xét về mặt bản chất, sau khi
tổng kết nội dung các cuốn sách, nghiên cứu khoa học, và báo chí của Việt Nam bàn
về vốn chủ tại NHTM, thì có thể thấy gốc rễ quan điểm của các tác giả đều thống
nhất; tuy cách gọi khác nhau nhưng nội hàm và ngoại diên đều tương tự và đi theo
tinh thần lý luận của Hiệp ước Basel *. Vì vậy, để phù hợp với tính chất của VCSH
trong tương quan với các khoản Nợ, nhằm thấy rõ những nguồn lực thực sự thuộc
về chủ ngân hàng, trong khuôn khổ Khóa luận này, người viết xin sử dụng thuật ngữ
Vốn chủ sở hữu.
1.2. Các thành phần của VCSH tại các NHTM **
Có thể phân loại VCSH của NHTM theo một số tiêu chí khác nhau:
1.2.1. Phân loại theo sự hình thành nguồn vốn
a) VCSH ban đầu
Đây là nguồn vốn hình thành khi NH được thành lập. Tại Việt Nam, nó còn
được gọi là Vốn điều lệ _ ghi rõ trong điều