Ngày nay, với sự phát triển của Internet, thế giới đã có những thay đổi
trong nhận thức và tư duy. Một trong những thay đổi quan trọng là làm cho
mọi người trên trái đất gần với nhau hơn. Nói cách khác, sự giao dịch qua
mạng đã trở nên dễ dàng. Hình thức kinh doanh này ngày nay đã phổ biến với
tên gọi thương mại điện tử (TMĐT), xuất phát từ cụm từ Electronic Comerce
hay e-Comerce. Xét trong tương quan với Ngoại thương, chúng ta vẫn nhắc
đến một trong những đặc điểm của hoạt đông Ngoại thương là gắn kết nền
kinh tế với thế giới, góp phần thúc đẩy đất nước hội nhập vào nền kinh tế thế
giới và khu vực. Giờ đây,TMĐT ra đời, tất cả các doanh nghiệp trong nước
đều có cơ hội trở thành những doanh nghiệp XNK trực tiếp. Con đường hội
nhập kinh tế của chúng ta đã mở rộng hơn?
Vậy TMĐT là gì? Các doanh nghiệp Ngoại thương (DNNT) nói riêng
và các doanh nghiệp Việt Nam (DNVN) nói chung đã, đang và sẽ làm gì để
đón lấy những cơ hội và đương đầu với những thách thức TMĐT đặt ra để
góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập của đất nước? Với mục đích tìm hiểu
những vấn đề cơ bản của TMĐT; thực trạng, triển vọng của TMĐT trong hoạt
động Ngoại thương của nước ta, em chọn đề tài: “Thương mại điện tử trong
hoạt động Ngoại thương Việt Nam- thực trạng và giải pháp”.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thu Hương đã hướng dẫn và
giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
37 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1914 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thương mại điện tử trong hoạt động ngoại thương Việt Nam – thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
…………..o0o…………..
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT
ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG VN – THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP
1
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, với sự phát triển của Internet, thế giới đã có những thay đổi
trong nhận thức và tư duy. Một trong những thay đổi quan trọng là làm cho
mọi người trên trái đất gần với nhau hơn. Nói cách khác, sự giao dịch qua
mạng đã trở nên dễ dàng. Hình thức kinh doanh này ngày nay đã phổ biến với
tên gọi thương mại điện tử (TMĐT), xuất phát từ cụm từ Electronic Comerce
hay e-Comerce. Xét trong tương quan với Ngoại thương, chúng ta vẫn nhắc
đến một trong những đặc điểm của hoạt đông Ngoại thương là gắn kết nền
kinh tế với thế giới, góp phần thúc đẩy đất nước hội nhập vào nền kinh tế thế
giới và khu vực. Giờ đây,TMĐT ra đời, tất cả các doanh nghiệp trong nước
đều có cơ hội trở thành những doanh nghiệp XNK trực tiếp. Con đường hội
nhập kinh tế của chúng ta đã mở rộng hơn?
Vậy TMĐT là gì? Các doanh nghiệp Ngoại thương (DNNT) nói riêng
và các doanh nghiệp Việt Nam (DNVN) nói chung đã, đang và sẽ làm gì để
đón lấy những cơ hội và đương đầu với những thách thức TMĐT đặt ra để
góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập của đất nước? Với mục đích tìm hiểu
những vấn đề cơ bản của TMĐT; thực trạng, triển vọng của TMĐT trong hoạt
động Ngoại thương của nước ta, em chọn đề tài: “Thương mại điện tử trong
hoạt động Ngoại thương Việt Nam- thực trạng và giải pháp”.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thu Hương đã hướng dẫn và
giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
Sinh viên
Phan Lệ Hằng
Lớp K13QT2
Phan Lệ Hằng K13QT2
1
CHƯƠNG I
LÍ LUẬN CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG
HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG
I. THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1. Định nghĩa về TMĐT
Cuối thế kỷ XX, bước sang đầu thế kỷ XXI, loài người mở thêm một
con đường mới cho sự phát triển kinh tế của mình-đó là Internet. Con đường
ấy đã làm cho hoạt động thương mại được vận hành theo một cách thức hoàn
toàn khác trước. Internet ra đời và được áp dụng ngày càng rộng rãi trong hầu
hết các khâu của hoạt động thương mại, mang lại những lợi ích, hiệu quả vô
cùng to lớn, người ta mới chính thức thừa nhận một phương thức thương mại
mới - đó là thương mại điện tử (TMĐT).
Vậy TMĐT là gì ?
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về TMĐT.
Có quan điểm cho rằng TMĐT bao gồm các giao dịch tài chính và
thương mại diễn ra bằng điện tử, kể cả việc chuyển dữ liệu bằng điện tử hay
chuyển tiển bằng điện tử, các hoạt động liên quan đến thẻ tín dụng và thẻ
thanh toán. Có quan điểm khác lại cho rằng: TMĐT chỉ giới hạn trong giao
dịch từ bán lẻ đến người tiêu thụ cuối cùng, trong đó các chu trình từ giao
dịch đến thanh toán đều được thực hiện qua mạng chẳng hạn như qua
Internet, dùng mạng riêng để trao đổi thông tin và thẻ tín dụng. Như vậy, các
quan điểm trên chỉ mới đề cập đến hình thức của TMĐT đã tồn tại thời qua.
Theo Uỷ ban Châu Âu, TMĐT có thể định nghĩa rộng là hoạt động
kinh doanh thương mại sử dụng các phương tiện điện tử. Với định nghĩa này,
Phan Lệ Hằng K13QT2
2
TMĐT bao gồm tất cả các hoạt động trao đổi điện tử hàng hoá hữu hình và vô
hình (dịch vụ) như thông tin, hỗ trợ bán, cố vấn thương mại và pháp luật.
TMĐT bao gồm tất cả các bước kinh doanh thông thường từ tiến hành các
hoạt động marketing điện tử, đặt hàng thanh toán và dịch vụ sau bán thông
qua mạng Internet.
Uỷ ban về TMĐT của APEC coi TMĐT là công việc kinh doanh được
tiến hành thông qua truyền số liệu và công nghệ tin học kỹ thuật số.
Theo công bố của Bộ trưởng các nước trong WTO: “TMĐT bao gồm
sản xuất, phân phối, tiếp thị , bán hàng, giao hàng và các dịch vụ bằng
phương tiện điện tử”.
Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể đưa ra một cách định nghĩa
tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh về TMĐT: TMĐT là hoạt động trao đổi trên
cơ sở phát triển công nghệ giữa các chủ thể khác nhau (chủ thể bao gồm các
cá nhân, tổ chức) và những hoật động bên trong doanh nghiệp hoặc giữa các
doanh nghiệp nhằm hỗ trợ những trao đổi này.
2. Các lĩnh vực của TMĐT
Tuy mới ra đời và phát triển mấy thập kỷ qua nhưng TMĐT đã có mặt
ở tất cả các lĩnh vực trong đời sống kinh tế.
Đầu tiên, TMĐT tham gia vào lĩnh vực mua bán hàng hoá hữu hình.
Chúng ta có thể dạo hàng giờ trên các siêu thị ảo trên mạng để chọn mua cho
mình một vật cần thiết. Khi cần mua sách và nhạc, chúng ta bước vào webside
Amazon.com và Bn.com hay khi cần mua bất kỳ sản phẩm nào khác, chúng ta
cũng đã biết ngay các địa chỉ www... cần tìm, chẳng hạn vào Autoweb.com và
Carsdirect.com để chọn mua 1 chiếc xe ưa thích; vào CDW.com và
PC.connection để mua máy tính và các phụ tùng máy... Chúng ta sẽ được
Phan Lệ Hằng K13QT2
3
cung cấp các thông tin đầy đủ về hàng hoá, cũng được quyền trả lại hàng bị
hư hỏng như đi mua bán thông thường.
TMĐT còn vươn sang lĩnh vực dịch vụ (hàng hoá vô hình). Các công ty
dịch vụ thông qua mạng để tiếp cận với khách hàng. Khi cần mua về máy bay
hay thuê phòng nghỉ, muốn tham gia đấu giá trực tiếp hay sử dụng các dịch vụ
về tài chính,... chúng ta sẽ được cung cấp đầy đủ thông tin trên Expedia.com,
Trip.com hay các địa chỉ www... tương thích.
Ngày nay, với trên 1300 lĩnh vực ứng dụng ,TMĐT đã thực sự đi vào
mọi ngõ nghách của đời sống kinh tế và ngày càng khẳng định vị trí của mình.
3. Những yêu cầu chủ yếu của TMĐT
TMĐT bao trùm một phạm vi rộng lớn các hoạt động kinh tế-xã hội.
Những yêu cầu chủ yếu của nó bao gồm một loạt vấn đề phức tạp đan xen
nhau trong mối quan hệ hữu cơ, bao gồm: hạ tầng cơ sở công nghệ; hạ tầng cơ
sở nhân lực; bảo mật và an toàn; hạ tầng thanh toán tài chính tự động; bảo vệ
sở hữu trí tuệ... Những vấn đề này đòi hỏi được giải quyết trên tất cả các lĩnh
vực: từ doanh nghiệp cho đến quốc gia và quốc tế.
-Về hạ tầng cơ sở công nghệ
Hạ tầng cơ sở công nghệ bao gồm các chuẩn của doanh nghiệp, của nhà
nước và sự liên kết của các chuẩn ấy với các chuẩn quốc tế, tới kỹ thuật ứng
dụng và thiết bị ứng dụng không chỉ của riêng từng các doanh nghiệp mà phải
là một hệ thống quốc gia với tư cách là một phân hệ của hệ thống công nghệ
thông tin khu vực và toàn cầu .
Mặt khác, hạ tầng cơ sở công nghệ còn đòi hỏi một nền công nghiệp
điện năng vững chắc, đảm bảo cung cấp điện năng đầy đủ, ổn định, mức giá
hợp lý. Ngoài ra, chi phí trang bị những phương tiện công nghệ thông tin và
Phan Lệ Hằng K13QT2
4
chi phí dịch vụ truyền thông phải đủ rẻ để đông đảo người sử dụng có thể tiếp
cận được. Điều này có ý nghĩa đặc biệt to lớn với những nước đang phát triển,
mức sống còn thấp như ở Việt Nam.
-Về hạ tầng cơ sở nhân lực
Áp dụng TMĐT tất yếu làm nảy sinh hai đòi hỏi: một là mọi người đều
quen thuộc và có khả năng thành thạo hoạt động trên mạng; hai là có đội ngũ
chuyên gia tin học nhanh, thường xuyên bắt kịp những công nghệ thông tin
mới phát triển để phục vụ cho TMĐT cũng như có khả năng thiết kế các công
cụ phần mềm, tránh lệ thuộc vào nước khác.
-Về hạ tầng cơ sở kinh tế và pháp lý
TMĐT phát triển trên cơ sở mạng Internet và cơ sở hạ tầng công nghệ
thông tin, do vậy, nó cũng quyết định môi trường pháp lý ở mỗi nước. Khi
một quốc gia xác định rằng, xã hội thông tin và Internet là một cơ hội cho
phát triển kinh tế thì nội dung môi trường kinh tế, pháp lý và xã hội có hàng
loạt vấn đề cần phải xây dựng và xử lý:
+Tính pháp lý của TMĐT.
+Tính pháp lý của hợp đồng TMĐT.
+ Tính pháp lý của chữ kí điện tử.
+ Tính pháp lý cho thanh toán điện tử.
+ Tính pháp lý bảo vệ các dữ liệu có xuất xứ từ Nhà nước.
+ Tính pháp lý bảo vệ mạng thông tin và sở hữu trí tuệ, bảo vệ bí mật
riêng tư một cách thích đáng, chống các tội phạm xâm nhập với mục đích bất
hợp pháp...
Phan Lệ Hằng K13QT2
5
Khi xây dựng môi trường kinh tế, pháp lý và xã hội này, mỗi quốc gia
phải nghiên cứu để hoà nhập được với môi trường kinh tế, pháp lý và xã hội
quốc tế vì bản thân TMĐT đã mang tính toàn cầu hoá rất cao .
-Hệ thống thanh toán tài chính tự động
TMĐT chỉ có thể thực hiện được khi đã tồn tại một hệ thống thanh toán
tài chính phát triển cho phép thực hiện thanh toán tự động. Khi chưa có hệ
thống này thì TMĐT chỉ ứng dụng được phần trao đổi thông tin, buôn bán
vẫn phải kết thúc bằng trả tiền trực tiếp hoặc bằng các phương tiện thanh toán
truyền thống. Khi ấy, hiệu quả của TMĐT bị giảm thấp và có thể không đủ để
bù lại những chi phí trang bị công nghệ đã bỏ ra.
Tóm lại, những yêu cầu của TMĐT đòi hỏi mỗi quốc gia phải giải
quyết một cách kịp thời, đồng bộ để nhanh chóng tạo dựng một nền tảng cơ
sở hoàn chỉnh cho TMĐT phát triển.
II. TMĐT TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG
1.Vai trò của TMĐT trong hoạt động ngoại thương
Thực tế đã chứng minh, TMĐT ngày một mở rộng và phát triển trên
phạm vi toàn thế giới. Với trên 1300 lĩnh vực ứng dụng, TMĐT đạt mức tăng
trưởng theo cấp số nhân và chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong các ngành
nghề, đặc biệt, TMĐT đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát
triển Ngoại thương của các nước.
- TMĐT ra đời làm xoá nhoà khoảng cách và biên giới quốc gia. Giờ
đây, chỉ cần một Website trên mạng, doanh nghiệp đã có thể vươn tới các đối
tác làm ăn và khách hàng trên toàn thế giới. Chính vì vậy, đòi hỏi phải có các
định chế, chính sách pháp luật mới điều chỉnh, quản lý hoạt động của phương
thức kinh doanh mới này.
Phan Lệ Hằng K13QT2
6
- Thông qua mạng toàn cầu, các doanh nghiệp tiến hành xuất nhập khẩu
trực tiếp. Vậy các thủ tục từ kê khai hải quan đến thanh toán điện tử tiến hành
như thế nào, trên cơ sở nào, Nhà nước thu thuế xuất nhập khẩu và quản lý các
giao dịch này như thế nào,... tất cả đều đòi hỏi phải có cơ sở pháp lý cho hoạt
động TMĐT trong Ngoại thương.
Nhận định được tầm quan trọng đó, các quốc gia, các khối kinh tế và
cộng đồng thế giới đã và đang nhanh chóng xây dựng các chính sách để tạo sự
ổn định về mặt pháp lý, đồng thời hạn chế những tác hại của TMĐT.
2. Đặc điểm của TMĐT trong hoạt động ngoại thương
TMĐT là một bước ngoặt lớn trong lịch sử thương mại nói chung và
lịch sử hoạt động ngoại thương giữa các quốc gia nói riêng. Những đặc thù
cơ bản của nó tạo ra sự khác biệt căn bản giữa TMĐT với thương mại truyền
thống. Đó là:
-TMĐT phụ thuộc vào sự phát triển của hạ tầng công nghệ thông tin,
viễn thông và các công nghệ cao cấp khác. TMĐT không thể tồn tại nếu thiếu
sự trợ giúp của các công nghệ này.
-TMĐT không chỉ bao gồm những hoạt động mua bán, dịch vụ mà còn
bao gồm cả những hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp và hợp tác giữa các
doanh nghiệp trong nước, khu vực và quốc tế nhằm hỗ trợ các hoạt động trao
đổi thương mại điện tử
-TMĐT gắn liền với phản ứng kịp thời với nhu cầu thị trường, tăng tốc
độ ra quyết định, đẩy nhanh tiến trình xâm nhập hàng hoá và nhãn hiệu mới
vào thị trường quốc tế, tăng tốc độ đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tạo
sự khác biệt nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong
nước trong thương trường quốc tế
Phan Lệ Hằng K13QT2
7
-Các quyết định chiến lược trong TMĐT cũng xuất phát và dựa trên cơ
sở sự phát triển của công nghệ, ví dụ như các quyết định về thiết kế siêu thị
trên mạng, các chiến lược khách hàng, quảng cáo trên mạng...
Ngoài ra, TMĐT tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát
huy hiệu quả kinh tế: thu hút ngày càng nhiều người cả trong nước và ngoàI
nước tham gia, chi phí cố định thiết kế và xây dựng mạng càng giảm, hiệu quả
kinh tế càng tăng.
3. Quy trình nghiệp vụ của TMĐT trong hoạt động Ngoại thương
Trước tiên, người mua vào trang Web của công ty tham khảo và đặt
mua hàng. Để đảm bảo an toàn thông tin máy tính cá nhân, Web Browser1 của
khách hàng phải được chọn lọc và nhập vào cửa sổ dữ liệu trong Web Server2.
Web Server sẽ mã hoá các thông tin khách hàng, quản lý trong Server.
Hệ thống thanh toán điện tử sẽ gửi các thông tin đã được mã hoá sang ngân
hàng đại diện của người bán để tiến hành kiểm tra tài khoản của người mua.
Sau khi việc kiểm tra hoàn tất, công ty tiến hành báo giá số hoá cho đối
tác. Ngay khi nhận được đơn đặt hàng chính thức, công ty lập tức gửi đơn
hàng số hoá đến cửa hàng (nếu số lượng hàng hoá ít) và đến kho (nếu số
lượng hàng hoá nhiều). Cửa hàng hoặc kho sẽ tiến hành giao hàng theo thời
gian trong đơn hàng. Sau đó, người mua tiến hành thanh toán tiền hàng qua
ngân hàng phát hành bằng Visa Card hay Master Card. Cuối cùng, ngân hàng
phát hành sẽ thanh toán lại cho ngân hàng người bán.
Như vậy, qua chương I, chúng ta đã có cái nhìn tổng thể về TMĐT,
Điều này sẽ giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc nhìn nhận và đánh giá thực
trạng phát triển của TMĐT trong hoạt động Ngoại thương ở Việt Nam.
1 Trình duyệt Web: là phần mềm cho phép người dùng xem, sử dụng thông tin trên Website
Phan Lệ Hằng K13QT2
8
2 Là những máy chủ cung cấp dịch vụ để đưa tới người sử dụng.
Phan Lệ Hằng K13QT2
9
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN TMĐT TRONG HOẠT ĐỘNG
NGOẠI THƯƠNG Ở VIỆT NAM
I. TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN TMĐT TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI
THƯƠNG Ở NƯỚC TA
Thực tế đã chứng minh, TMĐT ngày một mở rộng và phát triển trên
phạm vi toàn thế giới. Với trên 1300 lĩnh vực ứng dụng, TMĐT đạt mức tăng
trưởng theo cấp số nhân và chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong các ngành
nghề, đặc biệt, TMĐT đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát
triển Ngoại thương của các nước.
Chúng ta thừa nhận rằng, sự ra đời của Internet đã đánh dấu một bước
ngoặt quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Việt Nam đang trong công cuộc
CNH-HĐH đất nước, đồng thời cũng đang trong tiến trình hội nhập kinh tế
thế giới và khu vực nên không thể không chớp lấy những cơ hội mà TMĐT
mở ra, càng không thể đứng ngoài guồng quay của nền kinh tế thế giới. Năm
1997, chúng ta đã tham gia kết nối mạng Internet. Có thể khẳng định rằng,
việc gia nhập Internet của Việt Nam là một tất yếu trước xu thế mở cửa, hội
nhập và những tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ trên thế giới . Đồng
thời việc gia nhập này cũng mở ra con đường cho TMĐT Việt Nam phát
triển.
Sau đây, để hiểu rõ hơn tính tất yếu của việc phát triển TMĐT trong
hoạt động Ngoại thương ở nước ta, chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích một số lợi
ích cơ bản nhất của việc áp dụng TMĐT trong hoạt động Ngoại thương (có
tính đến những đặc điểm riêng của Việt Nam).
Phan Lệ Hằng K13QT2
10
1. Thứ nhất, TMĐT giúp các doamh nghiệp khắc phục được tình trạng
“đói thông tin”. Từ trước đến nay, một trong những yếu điểm của doanh
nghiệp Việt Nam là vấn đề thiếu thông tin trong việc tiếp cận thị trường bên
ngoài. Việc định hướng sản xuất thường chậm hoặc không nhận được tín
hiệu kịp thời từ thị trường, xuất khẩu thường ở trong tình trạng bị động. Khi
nhu cầu của thị trường thế giới tăng, sản xuất trong nước không đáp ứng kịp
thời. Ngược lại, khi cầu giảm sẽ dẫn đến tình trạng bị hẫng hụt. Trong kinh
doanh hiện đại ngày nay, thông tin là một nhân tố cực kì quan trọng, quyết
định sự thành công trong cạnh tranh. Sử dụng TMĐT với công cụ Internet,
doanh nghiệp có thể khắc phục được trở ngại này.
Internet là một biển thông tin khổng lồ, được cập nhật liên tục và nhanh
chóng với khối lượng thông tin không hạn chế. Các doanh nghiệp có thể dễ
dàng thu thập thông tin về thị truờng, thương mại, luật pháp, giá cả, mặt
hàng... và tiến hành theo dõi sát biến động của thị trường đó bằng Internet.
Đây là những cơ sở để doanh nghiệp xúc tiến hoạt động kinh doanh của mình
với đối tác nước ngoài.
2. Thứ hai, TMĐT tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể xuất
khẩu trực tiếp. Xuất khấu qua trung gian do sự yếu kém của công tác tìm kiếm
thị trường, tìm kiếm đối tác kinh doanh vốn là những bất lợi thường thấy của
các doanh nghiệp Việt Nam. Lợi nhuận bị chia sẻ, thị trường luôn luôn phụ
thuộc vào thiện chí của người trung gian gây trở ngại cho việc phát triển kinh
doanh và tiêu thụ sản phẩm. Sử dụng Internet có thể giúp chúng ta tránh được
những trung gian không cần thiết, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, chủ
động về thị trường mà vẫn thu được lợi nhuận.
3. Thứ ba, TMĐT cũng góp phần làm giảm chi phí kinh doanh cho các
doanh nghiệp. Chúng ta phải thấy rằng các doanh nghiệp Việt Nam là những
Phan Lệ Hằng K13QT2
11
doanh nghiệp nhỏ, rất nhỏ so với thế giới. Việc đầu tư mở rộng tiêu thụ, thiết
lập đại lý, chi nhánh giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài luôn luôn là vấn đề
khó khăn đối với hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì vậy, ngay cả
những mặt hàng mà chúng ta có ưu thế về giá, chất lượng nhưng chưa xuất
khẩu được chỉ vì một lý do đơn giản: “không tiếp cận được”. Thiếu vốn luôn
là vấn đề nan giải của các doanh nghiệp nước ta vì những khoản đầu tư dành
cho chiến lược này không phải là nhỏ. TMĐT có thể giúp cho doanh nghiệp
khắc phục một phần hạn chế này. Cụ thể:
+ Giảm chi phí thiết lập cơ sở kinh doanh
Nếu tính chi phí các khoản đầu tư dành cho việc thiết lập một cơ sở
kinh doanh ở nước ngoài thì khoản này ngoài tầm với của các doanh nghiệp
Việt Nam. Song nếu sử dụng Internet – TMĐT thì các doanh nghiệp sẽ khắc
phục những hạn chế của mình. Chỉ dành một khoản tiền nhỏ nằm trong tầm
tay của các doanh nghiệp chi cho việc thiết lập một “văn phòng kinh doanh
ảo” là doanh nghiệp đã có thể tham gia vào thị trường quốc tế một cách dễ
dàng.
+ Giảm chi phí cho quảng cáo – trao đổi
Để quảng cáo được trên thị trường thế giới, thông thường chỉ có các
công ty rất lớn mới có thể thực hiện được. Tuy nhiên, nếu biết vận dụng
Internet trong hoạt động này, doanh nghiệp có thể thực hiện quảng cáo của
mình ngay trong nước mà vẫn tới dược khách hàng nước ngoài.
Ngoài ra, trong kinh doanh quốc tế, các chi phí cho trao đổi giao dịch,
đi lại, đàm phán, điện thoại, fax, thư tín... cũng không phải là nhỏ. Nhưng với
công nghệ mới, chỉ bằng một phần chi phí này, TMĐT đã có thể giúp doanh
nghiệp thực hiện được thực hiện toàn bộ các hoạt động trên.
Phan Lệ Hằng K13QT2
12
Tóm lại, TMĐT áp dụng vào hoạt động Ngoại thương là mô hình áp
dụng phù hợp nhất đối với nước ta hiện nay cũng như trong tương lai. Nếu áp
dụng được triệt để TMĐT thì Ngoại thương nước ta sẽ giải quyết được những
bất cập lớn hiện vẫn còn tồn tại, mở đường cho sự phát triển mạnh mẽ của
giao lưu, buôn bán, trao đổi hàng hoá và dịch vụ với thị trường thế giới.
II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT
ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG Ở VIỆT NAM
1. KháI quát chung về TMĐT ở Việt Nam
“Thương mại điện tử”- khái niệm này đến nay còn rất mới và mơ hồ
đối với người đân Việt Nam nói chung, cho dù các phương tiện thông tin đại
chúng đã nhắc đến nhiều. Còn đối với doanh nghiệp Ngoại thương, đặc biệt là
các doanh nghiệp Việt Nam, TMĐT vẫn ở giai đoạn phôi thai. Ngay bản thân
Internet cũng chưa thực sự đi sâu vào đời sống xã hội của người Việt Nam
nên TMĐT chưa thực sự phát triển.
Theo Bộ Thương mại, kết quả của cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy:
hiện chỉ có 2% các doanh nghiệp XNK quan tâm và triển khai TMĐT cùng
với khoảng 7% doanh nghiệp khác là bắt đầu triển khai hình thức kinh doanh
mới này. Có nhiều lý do khiến các doanh nghiệp chưa nhận ra lợi ích và áp
dụng TMĐT, nhưng sự chậm trễ làm cho các doanh nghiệp XNK bị thua thiệt
khi tham gia buôn bán với khu vực và thế giới. Cũng theo kết quả điều tra, có
đến 90% các doanh nghiệp XNK chưa quan tâm và cũng chưa có bất cứ
nghiên cứu gì về TMĐT. Hiện nay, Việt Nam đã đi gần hết 1/3 lộ trình để tiếp
cận với TMĐT và nhiều doanh nghiệp đã nhận ra lợi ích các loại hình kinh
doanh qua mạng này, tuy nhiên sau 4 năm kết nối mạng Internet, trong tổng
số 56000 doanh nghiệp Việt Nam, hiện chỉ có khoảng 1500 doanh nghiệp có
trang web và vài nghìn doanh nghiệp có quảng cáo trên mạng. Tuy nhiên,
Phan Lệ Hằng K13QT2
13
những trang we