Ngô đường ( Zea mays var. Rugosa) là nhóm ngô thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, hàm lượng tinh bột của nội nhũ khoảng 25 - 41% khối lượng hạt, hàm lượng đường và dextrin khá cao: 19 - 31% khối lượng hạt, độ Brix đạt tới 18 - 27. Ngô đường rất thích hợp dùng để ăn tươi và dùng trong công nghiệp thực phẩm. Nhiều nước trên thế giới đã phát triển trồng ngô đường phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu đem lại nguồn thu lớn đóng góp cho thu nhập kinh tế quốc dân như Mỹ, Hungari, Đức, Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan Sản xuất ngô đường phục vụ ăn tươi, chế biến ngày càng được mở rộng diện tích ở các nước trên thế giới. Thái Lan là nước trong khu vực Châu Á, gần điều kiện với Việt Nam, hàng năm Thái Lan sản xuất và chế biến đóng hộp xuất khẩu tăng từ 30.000 tấn năm 2000 lên 82.500 tấn năm 2003 (Ponnarong Prasertsri, 2003).
Ở nước ta ngô thực phẩm mới được nghiên cứu khoảng 15 năm trở lại đây, do vậy những thành tựu chọn tạo giống, kỹ thuật canh tác và chế biến còn rất hạn chế. Những năm gần đây trồng ngô thực phẩm nói chung và ngô đường nói riêng đã bước đầu phát triển, nhưng hầu hết các giống ngô đường đều là nguồn nhập nội như Sugar 75, TN115, TN103, Sakita, Hoa Trân Chính điều này đã hạn chế sản xuất và hiệu quả trồng ngô đường ở nước ta do chi phí hạt giống cao (350.000 – 750.000đ/kg), gây khó khăn cho người sản xuất (Lê Quý Kha, 2006).
Những giá trị dinh dưỡng, kinh tế của ngô đường đã thu hút các quốc gia tập trung nghiên cứu chọn tạo giống, kỹ thuật trồng trọt và chế biến ngô đường. Công tác chọn tạo giống ngô đường trên thế giới đạt được những thành tựu to lớn trong nâng cao năng suất, chất lượng và chống chịu của ngô đường. Tuy nhiên, công tác chọn tạo giống ngô đường có chất lượng cao mới đang ở những bước đầu, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Đặc biệt ở Việt Nam hầu hết các địa phương sản xuất ngô đường đều phải mua hạt giống nhập nội với giá thành cao. Ở nước ta những thành tựu chọn tạo giống, kỹ thuật canh tác và chế biến còn rất hạn chế. Chính những nguyên nhân này mà hạn chế sản xuất và hiệu quả trồng ngô đường ở nước ta. Tuy nhiên nghiên cứu chọn tạo giống ngô đường ưu thế lai trong nước sẽ có khả năng thích nghi cao với điều kiện Việt Nam, góp phần làm giảm giá thành hạt giống, tăng hiệu quả kinh tế cho người sản xuất và làm đa dạng hoá các sản phẩm từ cây ngô. Vì vậy yêu cầu trước hết của ngành sản suất ngô là tạo ra những giống ngô tốt phục vụ công tác lai tạo để cho ra nhiều giống ngô lai năng xuất cao chất lượng tốt. Cùng với việc tạo ra các giống ngô lai có năng suất cao và khả năng chịu mật độ cao, thì việc thu hẹp khoảng cách hàng đã góp phần nâng cao năng suất ngô. Theo Minh Tang Chang, năng suất ngô của Mỹ trong hơn 40 năm qua tăng thêm 58% nhờ giống lai đơn, 21% nhờ tăng mật độ và 5% nhờ thu hẹp khoảng cách hàng.
Ở Việt Nam Mật độ và khoảng cách trồng là những vấn đề được nghiên cứu nhiều trong canh tác ngô. Theo Phan Xuân Hào (2008) thì các giống ngô trong thí nghiệm cho năng suất cao nhất khi trồng với khoảng cách hàng 50cm (hoặc 40 cm), tiếp đó là 70 (cm) và thấp nhất là ở 90 (cm) ở tất cùng một mật độ. Các giống thí nghiệm( kể cả giống thấp cây,lá đứng, thân nhỏ, lá thoáng) cho năng suất cao nhất ở mật độ 8 vạn cây/ha với khoảng cách 50x25 (cm).
118 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2571 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu phản ứng với mật độ trồng của giống ngô đường lai kiểu cây mới tiên việt 3 tại Gia Lâm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA NÔNG HỌC
-------------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
“TÌM HIỂU PHẢN ỨNG VỚI MẬT ĐỘ TRỒNG CỦA GIỐNG NGÔ ĐƯỜNG LAI KIỂU CÂY MỚI TIÊN VIỆT 3 TẠI GIA LÂM”
Người thực hiện : VŨ NGỌC BẮC
Lớp : KHCT A
Khóa : 51
Ngành : KHOA HỌC CÂY TRỒNG
Người hướng dẫn : PGS.TS. VŨ VĂN LIẾT
HÀ NỘI – 2010
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại Viện Nghiên cứu Lúa - Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội, tôi luôn nhận được sự quan tâm, hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của Thầy PGS.TS. Vũ Văn Liết (Bộ môn Di Truyền - chọn giống Cây trồng, ĐHNN Hà Nội). Qua đợt thực tập tốt nghiệp kỳ I năm 2010, tôi đã học hỏi được nhiều kiến thức về cây Ngô, cách theo dõi thí nghiệm cũng như cách xử lý số liệu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Qua đây tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy PGS.TS.Vũ Văn Liết.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới:
- Ban Giám đốcViện Nghiên cứu Lúa
- Các cô, chú, anh, chị trong phòng Ngô - Viện nghiên cứu Lúa
Đã giúp đỡ tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình thực tập tốt nghiệp.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn tới:
- Gia đình luôn động viên cho tôi trong suốt thời gian thực tập
- Các thầy cô trong Bộ môn Di truyền- Chọn giống Cây trồng, ĐHNN Hà Nội cùng bạn bè, những người luôn giúp đỡ trao đổi kinh nghiệm cho tôi.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 01 năm 2010
Sinh viên
Vũ Ngọc Bắc
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. 1.Màu sắc hạt và lõi của một số dạng ngô đường 8
Bảng 2.1: Diện tích, năng suất, sản lượng ngô trên thế giới 32
Bảng 2.2 Sản xuất ngô của Việt Nam giai đoạn 1961 - 2007 35
Bảng 4.1. Ảnh hưởng của mật độ đến thời gian sinh trưởng của giống ngô đường Tiên Việt 3 và Surgar 75 tại Gia Lâm, Hà Nội vụ Hè thu 2009. 45
Bảng 4.2. Ảnh hưởng của mật độ đến tăng trưởng chiều cao cây của 2 giống ngô đường Tiên Việt 3 và Sugar 75 tại Gia Lâm, Hà Nội 47
Bảng 4.3. Ảnh hưởng của mật độ đến tăng trưởng số lá của 2 giống ngô đường Tiên Việt 3 và Sugar 75 tại Gia Lâm, Hà Nội vụ Hè Thu 2009 51
Bảng 4.4. Ảnh hưởng của mật độ đến chiều cao cây, chiều cao đóng bắp, đường kính gốc, tổng số lá và độ hở lá bi của 2 giống ngô đường Tiên Việt 3 và Sugar75 tại Gia Lâm, Hà Nội vụ Hè Thu 2009 53
Bảng 4.5. Ảnh hưởng của mật độ đến diện tích lá, chỉ số diện tích lá của 2 giống ngô đường Tiên Việt 3 và Sugar 75 tại Gia Lâm, Hà Nội Vụ Hè thu 2009. 58
Bảng 4.6. Ảnh hưởng của mật độ đến hiệu suất quang hợp thuần và lượng quang hợp quần thể của 2 giống ngô đường Tiên Việt 3 và Sugar 75 tại Gia Lâm, Hà Nội vụ Hè thu 2009 62
Bảng 4.7. Ảnh hưởng của mật độ đến khả năng chống chịu của hai giống ngô đường Tiên Việt 3 và Sugar 75 tại Gia Lâm, Hà Nội vụ Hè thu 2009 63
Bảng 4.8. Ảnh hưởng của mật độ đến các yếu tố cấu thành năng suất của 2 giống ngô đường Tiên Việt 3 và Sugar 75 tại Gia Lâm, Hà Nội vụ Hè thu 2009. 66
Bảng 4.9. Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất của 2 giống Tiên Việt 3 và Sugar 75 tại Gia Lâm, Hà Nội vụ Hè Thu 2009 69
Bảng 4.10. Đánh giá một số tính trạng chất lượng của 2 giống ngô đường Tiên Việt 3 và Sugar 75 tại Gia Lâm, Hà Nội vụ Xuân 2009. 73
DANH MỤC HÌNH
Hình 4.1. Động thái tăng trưởng chiều cao cây của giống Tiên Việt 3 và giống Sugar 75. 48
Hình 4.2. Động thái tăng trưởng số lá của giống Tiên Việt 3 và giống Sugar 75 52
Hình 4.3.: Biểu diễn tỉ lệ chiều cao đóng bắp so với chiều cao cây cuối cùng. 54
Hình 4.4: Đồ thì biễu diễn năng suất lý thuyết của các công thức mật độ 71
Hình 4.5: Đồ thị biễu diễn năng suất tươi của các công thức mật độ 72
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CCCCC Chiều cao cây cuối cùng
CĐB Cao đóng bắp
DTL Diện tích lá
ĐC Đối chứng
ĐKG Đường kính gốc.
LAI Chỉ số diện tích lá
NAR Hiệu suất quang hợp thuần.
NSLT Năng suất lý thuyết
P Lượng quang hợp quần thể.
P1000 Khối lượng 1000 hạt.
PR Phun râu
RN Răng đậm
SL Sinh lý
T Trắng
TC Trỗ cờ
XĐ Xanh đậm
VĐ Vàng đậm
VN Vàng đậm
VT Vàng tươi
PHẦN MỘT
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngô đường ( Zea mays var. Rugosa) là nhóm ngô thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, hàm lượng tinh bột của nội nhũ khoảng 25 - 41% khối lượng hạt, hàm lượng đường và dextrin khá cao: 19 - 31% khối lượng hạt, độ Brix đạt tới 18 - 27. Ngô đường rất thích hợp dùng để ăn tươi và dùng trong công nghiệp thực phẩm. Nhiều nước trên thế giới đã phát triển trồng ngô đường phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu đem lại nguồn thu lớn đóng góp cho thu nhập kinh tế quốc dân như Mỹ, Hungari, Đức, Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan… Sản xuất ngô đường phục vụ ăn tươi, chế biến ngày càng được mở rộng diện tích ở các nước trên thế giới. Thái Lan là nước trong khu vực Châu Á, gần điều kiện với Việt Nam, hàng năm Thái Lan sản xuất và chế biến đóng hộp xuất khẩu tăng từ 30.000 tấn năm 2000 lên 82.500 tấn năm 2003 (Ponnarong Prasertsri, 2003).
Ở nước ta ngô thực phẩm mới được nghiên cứu khoảng 15 năm trở lại đây, do vậy những thành tựu chọn tạo giống, kỹ thuật canh tác và chế biến còn rất hạn chế. Những năm gần đây trồng ngô thực phẩm nói chung và ngô đường nói riêng đã bước đầu phát triển, nhưng hầu hết các giống ngô đường đều là nguồn nhập nội như Sugar 75, TN115, TN103, Sakita, Hoa Trân…Chính điều này đã hạn chế sản xuất và hiệu quả trồng ngô đường ở nước ta do chi phí hạt giống cao (350.000 – 750.000đ/kg), gây khó khăn cho người sản xuất (Lê Quý Kha, 2006).
Những giá trị dinh dưỡng, kinh tế của ngô đường đã thu hút các quốc gia tập trung nghiên cứu chọn tạo giống, kỹ thuật trồng trọt và chế biến ngô đường. Công tác chọn tạo giống ngô đường trên thế giới đạt được những thành tựu to lớn trong nâng cao năng suất, chất lượng và chống chịu của ngô đường. Tuy nhiên, công tác chọn tạo giống ngô đường có chất lượng cao mới đang ở những bước đầu, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Đặc biệt ở Việt Nam hầu hết các địa phương sản xuất ngô đường đều phải mua hạt giống nhập nội với giá thành cao. Ở nước ta những thành tựu chọn tạo giống, kỹ thuật canh tác và chế biến còn rất hạn chế. Chính những nguyên nhân này mà hạn chế sản xuất và hiệu quả trồng ngô đường ở nước ta. Tuy nhiên nghiên cứu chọn tạo giống ngô đường ưu thế lai trong nước sẽ có khả năng thích nghi cao với điều kiện Việt Nam, góp phần làm giảm giá thành hạt giống, tăng hiệu quả kinh tế cho người sản xuất và làm đa dạng hoá các sản phẩm từ cây ngô. Vì vậy yêu cầu trước hết của ngành sản suất ngô là tạo ra những giống ngô tốt phục vụ công tác lai tạo để cho ra nhiều giống ngô lai năng xuất cao chất lượng tốt. Cùng với việc tạo ra các giống ngô lai có năng suất cao và khả năng chịu mật độ cao, thì việc thu hẹp khoảng cách hàng đã góp phần nâng cao năng suất ngô. Theo Minh Tang Chang, năng suất ngô của Mỹ trong hơn 40 năm qua tăng thêm 58% nhờ giống lai đơn, 21% nhờ tăng mật độ và 5% nhờ thu hẹp khoảng cách hàng.
Ở Việt Nam Mật độ và khoảng cách trồng là những vấn đề được nghiên cứu nhiều trong canh tác ngô. Theo Phan Xuân Hào (2008) thì các giống ngô trong thí nghiệm cho năng suất cao nhất khi trồng với khoảng cách hàng 50cm (hoặc 40 cm), tiếp đó là 70 (cm) và thấp nhất là ở 90 (cm) ở tất cùng một mật độ. Các giống thí nghiệm( kể cả giống thấp cây,lá đứng, thân nhỏ, lá thoáng) cho năng suất cao nhất ở mật độ 8 vạn cây/ha với khoảng cách 50x25 (cm).
Cũng theo tác giả năng suất cây trồng tăng do trồng ở hang hẹp là do: Khi trồng ở hàng hẹp, đặc biệt là với mật độ tương đối cao, kéo theo khoảng cách trồng cây trong hàng rộng hơn, từ đó khoảng cách giữa các cây được phân bố đều nhau hơn, nhờ vậy chúng nhận được ánh sang nhiều hơn, giảm tối đa sự cạnh tranh về dinh dưỡng và các yếu tố sinh trưởng phát triển khác. Khoảng cách hàng hẹp cũng làm hạn chế sự rửa trôi đất và dinh dưỡng, hạn chế cỏ dại phát triển và bốc hơi nước do đất sớm bị che phủ.Có thể nói việc nghiên cứu kỹ thuật canh tác để làm tăng năng suất cây trồng cũng là biện pháp khả quan trong việc nâng cao hiệu quả trồng trọt.
Trên cơ sở hợp tác nghiên cứu giữa trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội và Đại học Vân Nam Trung Quốc chúng tôi thực hiện đề tài “Tìm hiểu phản ứng với mật độ trồng của giống ngô đường lai kiểu cây mới Tiên Việt 3 tại Gia Lâm” nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và góp phần vào bộ giống ngô đường tại Việt Nam.
2. Mục đích yêu cầu
2.1. Mục đích
Tìm hiểu mật độ trồng khác nhau đối với giống ngô đường kiểu cây mới Tiên Việt 3 nhằm xác định mật độ trồng thích hợp cho giống ngô đường kiểu cây mới trong điều kiện Việt Nam.
2.2. Yêu cầu
Đánh giá sinh trưởng phát triển của giống ngô đường Tiên Việt 3 trong điều kiện vụ Hè Thu 2009 dưới điều kiện sinh thái đồng bằng sông Hồng.
Đánh giá khả năng quang hợp của giống ngô ngô đường Tiên Việt 3 ở các mật độ khác nhau.
Đánh giá khả năng chống chịu của giống ngô đường Tiên Việt 3 ở các mật độ trồng khác nhau.
Đánh giá năng suất và yếu tố tạo thành năng suất của giống ngô đường Tiên Việt 3 ở các mật độ trồng khác nhau.
Đánh giá chất lượng của giống ngô đường Tiên Việt 3 ở các mật độ trồng khác nhau.
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Giới thiệu chung về cây ngô
2.1.1. Nguồn gốc phân loại
Việc trồng ngô được bắt nguồn ở Trung Mỹ, Đặc biệt là Mêhicô, từ đó ngô được truyền bá lên phía bắc tới Canada và xuống phía nam tới Achentina. Ngô cổ nhất khoảng 7000 năm, được các nhà khảo cổ học tìm thấy ở Teotihuncan, một thung lũng gần Puebla ở Mêhicô, nhưng có lẽ còn có các trung tâm khởi nguyên thứ cấp ở Châu Mỹ (Vũ Đình Hoà, Bùi Thế Hùng,1995)[8]. Nguồn gốc này ảnh hưởng tới một số đặc điểm sinh trưởng, phát triển của cây ngô, ảnh hưởng đến một số yêu cầu của cây ngô đối với các điều kiện ngoại cảnh và là những điều cần được chú ý đến trong quá trình tác động các yếu tố kỹ thuật tăng năng suất ngô (Đường Hồng Dật, 2004).
Vào cuối thế kỷ 15, sau sự khám phá lục địa Châu Mỹ của Christopher Columbus, ngô được nhập vào Châu Âu qua Tây Ban Nha. Sau đó ngô được truyền bá qua các vùng khí hậu ấm áp của Địa Trung Hải và lên Bắc Âu. Mangelsdorf và Reeves (1939) chỉ ra ngô được trồng ở mọi vùng nông nghiệp thích hợp trên thế giới và tất cả các tháng trong năm ngô đều được thu hoạch ở đâu đó trên thế giới. Ngô được trồng từ vĩ độ 580 Bắc ở Canada và Liên xô cũ tới vĩ độ 400 Nam bán cầu. Ngô cũng được trồng ở những vùng thấp hơn mực nước biển ở đồng bằng Caspia và ở độ cao trên 4000 m ở dãy Anđơ của Pêru.
Mặc dù ngô có tính đa dạng rất lớn, tất cả các loại ngô được biết đến ngày nay đều đã được người dân bản xứ tạo ra khi khám phá ra Châu Mỹ. Tất cả các loại hình ngô được phân loại là Zeamays. Hơn nữa, bằng chứng thực vật học, di truyền và tế bào học chỉ ra một nguồn gốc chung đối với mọi loại hình ngô hiện có. Hầu hết các nhà nghiên cứu tin rằng ngô hình thành từ teosinte, Euchlaena mexicana Shrod, một loại cây trồng hang năm có lẽ có họ hang gần nhất với ngô. Tuy vậy, các nhà nghiên cứu khác tin rằng ngô bắt nguồn từ một dạng ngô dại mà nay không còn nữa. Sự gần gũi của teosinte với ngô xuất phát từ thực tế là cả 2 có 10 nhiễm sác thể và đồng dạng với nhau hoặc đồng dạng không hoàn toàn.
Việc chuyển gen giữa cây teosinte và ngô đã xảy ra trong quá khứ và vẫn xảy ra trong ngày nay ở một vài nơi của Mêhicô và Guatemala nơi teosinte mọc giữa những cây ngô. Galinat (1977) đã chỉ ra rằng những giả thuyết khác nhau về nguồn gốc của ngô về cơ bản 2 giả thuyết vẩn tồn tại: trước hết, teosinte ngày nay là tổ tiên của cây ngô hoặc teosinte nguyên thuỷ là tổ tiên chung của cả cây ngô và teosinte, thứ hai, dạng ngô bọc đã bị diệt chủng là tổ tiên của ngô, với teosinte là dạng đột biến của ngô bọc này.
Trong bất kỳ trường hợp nào hầu hết những ngô ngày nay tạo ra từ những vật liệu đã phát triển ở miền nam nước Mỹ, Mêhicô, Trung và Nam Mỹ. (Vũ Đình Hoà, Bùi Thế Hùng, 1995) .
Phân loại thực vật
Ngô thuộc họ hoà thảo Poacea tộc Tripsacaea (Maydea). Tên khoa học là Zeamays L. Tộc Tripsacaea có 4 chi:
Chi Zea L.
Chi Euchlaena
Chi Tripsacum
Chi Coix
(Đinh Thế Lộc và cộng sự, 2001).
Từ tộc (tribus) Maydeae, 2 chi (genus) Euchlaena Schrad và Tripsacum L là gần với chi ngô Zea L.
Cơ sở của bảng phân loại ngô là hệ thống do Sturtevant đề xuất năm 1899 dựa trên các đặc diểm hình thái nội nhũ trong hạt.
Theo bảng phân loại này loài ngô được phân thành các loài phụ (các nhóm) sau đây:
1-Ssp amilaceae - ngô bột.
2- Ssp indentata – ngô răng ngựa.
3- Ssp indurate – ngô đá rắn: ngô tẻ.
4- Ssp everta – ngô nổ.
5- Ssp saccharata - ngô đường.
6- Ssp ceratina – ngô nếp.
7- Ssp tunicate – ngô vảy, ngô bọc.
(Nguyễn Văn Hiển, 2000)
Ngô đường (Zea mays L.) đôi khi gọi theo biến chủng là Zea mays L. var. rugosa (hoặc saccharata) là cây hàng năm, họ hoà thảo, bộ nhiễm sắc thể 2n=20.( Tom Barnes và cộng sự, 2001)
Ngô đường là một đột biến lặn của ngô thường, một số là đột biến lặn của gen điều khiển tổng hợp tinh bột (su) và những biến đổi khác, gen điều khiển độ ngọt hay nhăn nheo (sh2) (USDA ,2008).
Ngô đường siêu ngọt được nhà khoa học John Laughnan của đại học Urbana phát hiện năm 1959 khi thử hạt ngô khô, ông rất ngạc nhiên vể độ ngọt của một hạt ngô đột biến được nhận từ trung tâm dự trữ di truyền cây ngô của trường ở Urbana. Đột biến đó được biết là shrunken2 và sau đó được biết là một dạng ngô siêu ngọt trên thế giới (Linda Mc Graw, Martin M. Sachs, 2000).
Đặc điểm của ngô đường được nhiều nghiên cứu công bố như Abedon, BG and Tracy, WF (1996), Tom Barnes và cộng sự (2001) với đặc điểm nổi bật về chất lượng hạt và màu sắc hạt. Ngô đường có rất nhiều màu sắc khác nhau: trắng, vàng, đỏ, tím và dạng lẫn tạp. Trong đó phổ biến là dạng có nội nhũ vàng và nội nhũ trắng, nội nhũ vàng. Sự lẫn tạp phấn của các dạng nội nhũ vàng và nội nhũ trắng tạo ra dạng lẫn tạp vàng - trắng ( Bi- colors) (gồm 75% vàng và 25% trắng trên cùng 1 bắp) ở ngô đường. Tuy nhiên, nếu dạng lẫn vàng - trắng giao phấn với dạng màu vàng thì màu của nội nhũ sẽ có màu vàng là chính. (Abedon, BG and tracy, WF, 1996)(Steve Diver, George Keeper, Preston Sullivan 2001)
Phân loại ngô đường có thể dựa trên hàm lượng đường và một số đặc diểm khác. Vince Fritz và cộng sự (2003,2006) dựa trên hàm lượng đường và một số đặc điểm phân ngô đường thành 3 nhóm:
+ Ngô ngọt thường-Normal sugary (su) là ngô tiêu chuẩn cho tiêu dùng ăn tươi, nảy mầm được ở nhiệt độ 15 - 180C.
+ Ngô ngọt đậm – Sugary enhanced (se) độ đường cao hơn và thời gian chuyển đường thành tinh bột chậm hơn sau thu hoạch, nội nhũ rất mềm, nảy mầm ở nhiệt độ 15-180C.
+ Ngô siêu ngọt- Supersweet or shrunken-2 (sh2) ngô có hàm lượng đường cao gấp 2-3 lần ngô ngọt tiêu chuẩn, ngô cho thị trường ăn tươi, hạt nhỏ và nhẹ hơn hai loại trên, hạt nhăn nheo(USDA ,2008).
Ngoài ra B. Rosie Lerner và N. Dana dựa trên đột biến đã phân ngô đường thành 6 nhóm như sau:
1) Ngô đường cơ bản: (su su*)
2) Loại ngô đường dã bị biến đổi một phần tội thiểu là 23% nội nhũ biến đổi như sau:
- Sự phối hợp hoặc ngô siêu ngọt (su sh2*).
- Ngô đường ngọt đậm (su se).
3) Dạng biến đổi hoàn toàn (su se*) biến đổi tất cả nội nhũ .
4) Chỉ có 1 gen thay thế (su) thông thường là (sh2).
5) Có nhiều gen thay thế gen (su-se, và wx* là nhóm thay thế (su).
6) Một dạng tương đối mới của ngô đường được biết như “ bộ ba” gồm hai phần gen tăng cường (se) và một phần gen siêu ngọt (sh2) trong nội nhũ trên một bắp. (B. Roise lerner and Michael N. Dana, 1998)
Tracy, W.F và cộng sự dựa trên di truyền phân tử phân thành 4 nhóm là su1, su2, se và sh2, 4 nhóm này khác nhau chủ yếu về khả năng tổng hợp đường, độ mềm của nội nhũ (Tom Barnes và cộng sự, 2001).
Sự đa dạng của ngô đường còn được biểu hiện ở màu sắc hạt và màu sắc lõi.
Bảng 1.1. Màu sắc hạt và lõi của một số dạng ngô đường
Màu sắc
Tên thứ
Hạt
Lõi
Trắng
Trắng
Var. duleis Korn
Hồng(đỏ nhạt)
Đỏ
Var. subduleis Kulesh et Kzhuh
Hồng(đỏ nhạt)
Trắng
Var. flavoduleis Kiorn
Đỏ
Đỏ
Var. rubentiduleis
Tím
Var. subrubentideis Kulesho et Kzhuh
Xanh
Var. rubroduleis Korn
Đen
Trắng
Var. cocruleoduleis Korn
Hạt trong với vạch đỏ
Var. atratoduleis Kulesh et Kozhuh
Hạt trên bắp có nhiều màu
Var. varioduleiss Korn
Nguồn: Cây ngô, Cao Đắc Điểm, NXB Nông nghiệp(Cao Đặc điển và cs, 1988).
2.1.2. Đặc điểm sinh vật học
2.1.2.1 Đặc điểm cơ quan sinh dưỡng
- Rễ ngô:
Ngô có hệ rễ chùm tiêu biểu cho bộ rễ các cây họ hoà thảo, bao gồm 3 loại rễ chính là: rễ mầm, rễ đốt và rễ chân kiềng.
Rễ mầm bao gồm rễ mầm sơ sinh và rễ mầm thứ sinh. Rễ mầm sơ sinh (phôi) là cơ quan xuất hiện đầu tiên sau khi ngô được gieo. Sau một thời gian ngắn xuất hiện, rễ mầm sơ sinh có thể ra nhiều lông hút và nhánh. Thường thì rễ mầm sơ sinh ngừng phát triển, khô đi và biến mất sau một thời gian ngắn vào khoảng giai đoạn lá thứ 3 – V3.
Rễ mầm thứ sinh xuất hiện từ trụ gian lá mầm (mesosotyle) của phôi phía dưới mấu của bao lá mầm (coleoptyle) sau sự xuất hiện của rễ chính.
Rễ đốt: Còn gọi là rễ phụ cố định xuất hiện ở các đốt thấp của thân, mọc vòng quanh các đốt dưới mặt đất. Ngô ra rễ đốt đầu tiên lúc 3 – 4 lá và có số lượng lớn từ 8 – 16 rễ ở mỗi đốt.
Rễ chân kiềng: Rễ chân kiềng mọc quanh các đốt trên mặt đất sát gốc. Rễ chân kiềng to, nhẵn, ít phân nhánh, không có rễ con và lông hút ở phần trên mặt đất.
- Thân, lá ngô:
Ngô thuộc họ hoà thảo song có thân khá chắc, có đường kính từ 2 – 4cm tuỳ theo giống, điều kiện sinh thái và chăm sóc. Thân có chiều cao khoảng 1,5 – 4m. Thân chính của ngô có nguồn gốc từ chồi mầm (plumule) bao phủ bởi bao lá mầm (coleotyle) nằm trong phôi của hạt ngô. Thân ngô trưởng thành bao gồm nhiều lóng nằm giữa các đốt và kết thúc bằng bông cờ. Số lượng của lóng và chiều dài của lóng là chỉ tiêu quan trọng trong việc phân loại các giống ngô. Thường các giống ngắn ngày có khoảng 14 – 15 lóng, các giống trung bình ngày 18 – 20 lóng và các giống dài ngày có khoảng 20 – 22 lóng. Lóng mang bắp có một rãnh dọc cho phép sự bám và phát triển bình thường của bắp.
Lá ngô: Sau khi bao lá mầm mọc lên khỏi mặt đất, các lá bắt đầu lần lượt mở ra. Mỗi một lá được cấu tạo bởi bản lá (phiến lá) và bẹ lá ôm chặt lấy thân và lưỡi lá (thìa lá). Các giống khác nhau có số lá khác nhau, chiều dài chiều rộng, độ dày, lông tơ, màu lá gân lá cũng có sự thay đổi.
- Bông cờ và bắp:
Ngô là loại cây có hoa khác tính cùng gốc. Hai cơ quan sinh sản đực (bông cờ và cái (bắp) tuy cùng nằm trên cùng một cây song ở những vị trí khác nhau.
2.1.2.2 Đặc điểm cơ quan sinh sản
-Hoa đực:
Hoa đực thường là bông cờ nằm ở đỉnh cây. Hoa đực xếp theo chùm gồm một trục chính và nhiều nhánh. Hoa đực mọc thành bông nhỏ còn gọi là chét, bông con hoặc gié. Các gié mọc đối diện nhau trên trục chính hay trên các nhánh. Trong mỗi bông nhỏ có hai chùm hoa, một chùm cuống dài và một chùm cuống ngắn. Đôi khi một bông nhỏ có một hoặc ba chùm hoa. Mỗi chùm hoa có hai hoa, có vỏ trấu dài chung cho hai hoa (mày trên và mày dưới) với gân và lông tơ. Ở giữa mỗi hoa có thể thấy dấu vết thoái hoá của của nhụy hoa cái, quanh đó có ba chỉ đực mang ba nhị đực và hai mày nhỏ - mày ngoài tương ứng với lá đài hoa. Khi hoa chín các mày phồng lên, các chỉ nhị dài ra, bao phấn tách ra khỏi hoa và tung các phấn hình trứng có đường kính khoảng 0,1 mm. Mỗi bông nhỏ có hai hoa, mỗi hoa có ba nhị đực, mỗi nhị đực có một bao phấn, mỗi bao phấn có 2 hai ô và trong mỗi ô (phòng) chứa khoảng 1000 – 2500 hạt phấn. Khi bắt đầu nở, các hoa ở 1/3 phía đỉnh trục chính tung phấn trước, sau đó tung phấn theo thứ tự từ trên xuống dưới và từ ngoài vào trong. Một bông cờ trong mùa xuân, hè đủ ấm thường tung phấn trong trong 5 – 8 ngày, mùa lạnh khô có thể kéo dài 10 – 12 ngày. Hoa tung phấn rộ vào khoảng 8 – 10 giờ sang và 14 – 16 giờ chiều. Phấn ngô thích hợp cho thụ tinh tốt nhất khi thời tiết mát mẻ, nhiệt độ khoảng 18 – 20oC, độ ẩm không khí khoảng 80% và ngay sau khi bứt khỏi bao phấn nếu không khả năng thụ tinh sẽ giảm. Theo Cao Đắc Điểm (1988) nếu lấy phấn rồi thụ tinh ngay tỉ lệ hoa tạo thành hạt là 100%, sau 72 tiếngchỉ còn 75%.
-Hoa cái:
Hoa cái (bắp ngô) phát sinh từ chồi nách các lá, song chỉ một đến 3 chồi khoang giữa thân mới tạo thành bắp. Hoa có cuống gồm nhiều đốt ngắn, mỗi đốt trên cuống có một lá bi bao bọc, lá bi thường không có phiến lá. Trên trục đính hoa cái (cùi, lõi ngô), hoa mọc từng đôi bông nhỏ. Mỗi bông nhỏ có