Sau Hội nghị lần thứ bốn Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa VIII, khái niệm “xã hội hóa giáo dục” chính thức được đưa vào đời sống. Kể từ đây, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước đã chung tay chia sẻ với ngân sách nhà nước gánh nặng đầu tư cho hoạt động giáo dục. Nó khơi dậy và phát huy những nguồn lực dồi dào trong xã hội và thúc đẩy sự nghiệp giáo dục ngày càng phát triển. Để tạo ra cơ chế đầu tư thuận lợi, bình đẳng và ổn định, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống pháp luật về hoạt động đầu tư cho giáo dục đã được hình thành và không ngừng hoàn thiện.
Luật Đầu tư 2005 ra đời là một bước tiến lớn trong sự phát triển của pháp luật đầu tư hướng vào việc tạo cơ sở pháp lí bình đẳng cho nhà đầu tư. Theo quy định của Luật đầu tư 2005, “phát triển sự nghiệp giáo dục” là hoạt đông đầu tư có điều kiện và được ưu đãi đầu tư. Luật Đầu tư 2005 đã chú trọng đến việc quy định khung pháp lí cho hoạt động đầu tư đặc thù này. Luật Giáo dục 2005 đã tạo cơ sở pháp lí quan trọng cho tổ chức và hoạt động giáo dục trong đó có hoạt động đầu tư cho giáo dục. Qua nhiều năm thực hiện, Luật Đầu tư và Luật Giáo dục đã góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục theo hướng “nhà nước và nhân dân cùng làm”, góp phần nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã nảy sinh một số vấn đề chưa phù hợp với thực tế, chưa đáp ứng được nhu cầu hội nhập, vẫn có những nội dung chưa rõ ràng, gây khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật.
Hiện nay, chất lượng giáo dục là mối quan tâm hàng đầu của xã hội, cả xã hội đang cố gắng tìm mọi giải pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục. Trong đó, khuyến khích đầu tư cho giáo dục thiết nghĩ là giải pháp hàng đầu, cơ bản và quan trọng nhất. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đang là một vấn đề vô cùng thiết thực. Với mục tiêu có được một cái nhìn tổng quan về các quy định pháp luật, từ đó góp phần tìm ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục, người viết đã lựa chọn vấn đề: “Tìm hiểu pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục” để làm khóa luận tốt nghiệp.
70 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1954 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sau Hội nghị lần thứ bốn Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa VIII, khái niệm “xã hội hóa giáo dục” chính thức được đưa vào đời sống. Kể từ đây, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước đã chung tay chia sẻ với ngân sách nhà nước gánh nặng đầu tư cho hoạt động giáo dục. Nó khơi dậy và phát huy những nguồn lực dồi dào trong xã hội và thúc đẩy sự nghiệp giáo dục ngày càng phát triển. Để tạo ra cơ chế đầu tư thuận lợi, bình đẳng và ổn định, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống pháp luật về hoạt động đầu tư cho giáo dục đã được hình thành và không ngừng hoàn thiện.
Luật Đầu tư 2005 ra đời là một bước tiến lớn trong sự phát triển của pháp luật đầu tư hướng vào việc tạo cơ sở pháp lí bình đẳng cho nhà đầu tư. Theo quy định của Luật đầu tư 2005, “phát triển sự nghiệp giáo dục” là hoạt đông đầu tư có điều kiện và được ưu đãi đầu tư. Luật Đầu tư 2005 đã chú trọng đến việc quy định khung pháp lí cho hoạt động đầu tư đặc thù này. Luật Giáo dục 2005 đã tạo cơ sở pháp lí quan trọng cho tổ chức và hoạt động giáo dục trong đó có hoạt động đầu tư cho giáo dục. Qua nhiều năm thực hiện, Luật Đầu tư và Luật Giáo dục đã góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục theo hướng “nhà nước và nhân dân cùng làm”, góp phần nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã nảy sinh một số vấn đề chưa phù hợp với thực tế, chưa đáp ứng được nhu cầu hội nhập, vẫn có những nội dung chưa rõ ràng, gây khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật.
Hiện nay, chất lượng giáo dục là mối quan tâm hàng đầu của xã hội, cả xã hội đang cố gắng tìm mọi giải pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục. Trong đó, khuyến khích đầu tư cho giáo dục thiết nghĩ là giải pháp hàng đầu, cơ bản và quan trọng nhất. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đang là một vấn đề vô cùng thiết thực. Với mục tiêu có được một cái nhìn tổng quan về các quy định pháp luật, từ đó góp phần tìm ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục, người viết đã lựa chọn vấn đề: “Tìm hiểu pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục” để làm khóa luận tốt nghiệp.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Gần đây có rất nhiều công trình nghiên cứu về Luật đầu tư, về các nội dung cơ bản của Luật đầu tư, về các lĩnh vực đầu tư. Về phía luật giáo dục, vì nhu cầu sửa đổi Luật giáo dục 2005 nên đã thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này tập trung đề cập các khía cạnh khác của luật Đầu tư hoặc nghiên cứu Luật Giáo dục trên phạm vi rộng. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện cả về lí luận và thực tiễn các quy định của pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục.
Phạm vi nghiên cứu đề tài
Hoạt động đầu tư cho giáo dục trong thực tế rất đa dạng, khóa luận tốt nghiệp chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động đầu tư trực tiếp sử dụng nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài (chủ yếu là hoạt động đầu tư thành lập cơ sở giáo dục ngoài công lập).
Phương pháp nghiên cứu đề tài
Khóa luận có sự kết hợp của các phương pháp nghiên cứu: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh pháp luật, dự báo, hệ thống hóa, khái quát, đối chiếu với thực tiễn các quy định pháp luật để từ đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp hợp lý.
Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục, làm rõ cơ sở lí luận, từ đó đưa ra những kiến nghị, phương hướng nhằm đưa các quy định của pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục phù hợp với thực tiễn áp dụng , thu hút nhà đầu tư, nâng cao hiệu quả và chất lượng cho sự nghiệp “trồng người”.
Để đạt được những mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài có những nhiệm vụ sau:
Làm sáng tỏ các khái niệm, đặc điểm, các hình thức đầu tư trong lĩnh vực giáo dục; khái niệm, sự hình thành và phát triển pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục.
Làm rõ những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục.
Đề xuất một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục.
Những kết quả nghiên cứu mới của khóa luận
Khóa luận là công trình nghiên cứu sâu về pháp luật trong hoạt động đầu tư cho giáo dục. Người viết đã cố gắng trình bày một cách đầy đủ các vấn đề liên quan đến pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục.
Tuy còn ít kinh nghiệm trong nghiên cứu nhưng người viết đã đưa ra một số kiến nghị góp phần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật theo hướng thống nhất sự điều chỉnh giữa quy định của pháp luật về đầu tư và pháp luật về giáo dục trong hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục.
Kết cấu của khóa luận
Khóa luận gồm 66 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận có ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục và pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục
Chương 2: Pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục
NỘI DUNG
Chương 1. Một số vấn đề lí luận về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục và pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục
Lí luận về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục
Khái niệm hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục
Hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục không phải là một hoạt động đầu tư mới mẻ tuy nhiên vẫn chưa có một khái niệm cụ thể và thống nhất về hoạt động này. Việc xác định rõ khái niệm “hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục” có vai trò vô cùng quan trọng, là cơ sở cho việc áp dụng các quy định XXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXpháp luật. Qua việc tìm hiểu những nghiên cứu của các nhà khoa học và sự đúc rút của bản thân, em xin trình bày về khái niệm “đầu tư” nói chung và cụ thể hóa khái niệm “đầu tư trong lĩnh vực giáo dục”.
Khái niệm đầu tư
“Đầu tư” không còn là khái niệm xa lạ hay trừu tượng khi mà mọi lúc mọi nơi trên thế giới đều đang diễn ra hoạt động đầu tư như “hơi thở” của hội nhập, như là một quy luật tất yếu của tồn vong và phát triển. Tuy vậy, trên thế giới không có khái niệm “đầu tư” duy nhất và bất biến. WTO – Tổ chức thương mại thế giới là mô hình tối cao của hội nhập cũng không quy định gì về vấn đề đầu tư. Nhiều vòng đàm phán không giải quyết được bất đồng xung quanh khái niệm “đầu tư” nên mặc dù có ý định soạn thảo Hiệp ước đa phương về vấn đề đầu tư vào năm 1978 nhưng OECD – tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế - cũng không thành công. Pháp luật các nước trên thế giới có những cách nhìn nhận về khái niệm “đầu tư” khác nhau, thậm chí, pháp luật một số nước không có điều khoản nào đưa ra định nghĩa về “đầu tư” (Cambodia).
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (NXB Đà Nẵng 2003, tr301) khái niệm đầu tư là việc “bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào công việc gì, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế xã hội”. Trong kinh tế học, đầu tư được hiểu là hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế, xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn những nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó (Giáo trình Kinh tế đầu tư – Đại học Kinh tế quốc dân). Đầu tư có vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Hoạt động đầu tư do các chủ thể khác nhau, có thể là tổ chức hoặc cá nhân tiến hành, được pháp luật quy định cụ thể. Hoạt động đầu tư sử dụng tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ của con người để tạo ra giá trị gia tăng chính là các kết quả đầu tư. Các kết quả của hoạt động đầu tư có thể là tài sản vật chất, có thể là tài sản trí tuệ, có thể chính là tiền, có thể là nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Như vậy, hoạt động đầu tư mang lại những lợi ích được xác định trước cho nền kinh tế và cho toàn xã hội.
Theo quan điểm của luật học, hoạt động đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo các h́nh thức và cách thức do pháp luật quy định để thực hiện hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế xã hội khác. Hoạt động đầu tư có thể có có tính chất kinh doanh (thương mại) hoặc phi thương mại. Trong khoa học pháp lí cũng như thực tiễn xây dựng chính sách, pháp luật về đầu tư, hoạt động đầu tư chủ yếu đựợc đề cập là hoạt động đầu tư kinh doanh, với bản chất là “sự chi phí của cải vật chất nhằm mục đích làm tăng giá trị tài sản hay tìm kiếm lợi nhuận” – Black’s Law Dictionary, Centennital Edition Sixth Edition, 1991, page 825.
Trước khi Luật đầu tư 2005 ra đời, khái niệm đầu tư kinh doanh chưa được định nghĩa thống nhất trong các văn bản pháp luật. Lúc bấy giờ hoạt động đầu tư được điều chỉnh bởi Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Cả hai văn bản này đều không có định nghĩa về đầu tư nói chung mà chỉ có khái niệm đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Luật Đầu tư 2005 với phạm vi điều chỉnh là hoat động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh đã đưa ra định nghĩa: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Luật đầu tư thống nhất có sự phân biệt về thuật ngữ giữa đầu tư và hoạt động đầu tư, theo đó hoạt động đầu tư được hiểu là hoạt động của các nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lí dự án đầu tư.
Dưới góc độ điều chỉnh các hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh, có thể thấy hoạt động đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư 2005 chính là một bộ phận của hoạt động thương mại, phù hợp với khái niệm của Luật Thương mại 2005 (Khoản 1 Điều 3). Hoạt động đầu tư có những đặc điểm của hoạt động thương mại nói chung đó chính là mục đích lợi nhuận, đồng thời hoạt động đầu tư cũng có mối liên hệ mật thiết với các hoạt động thương mại khác như mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại… Tuy nhiên, hoạt động đầu tư có đặc thù riêng so với các hoạt động thương mại khác, hoạt động đầu tư là hoạt động có tính chất tạo lập, là sự bỏ vốn, tài sản… nhằm hình thành cơ sở vật chất, kĩ thuật cũng như các điều kiện khác để thực hiện hoạt động tìm kiếm lợi nhuận.
Tóm lại, hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ ra những nguồn lực ở hiện tại để tiến hành hoạt động nào đó nhằm thu về những kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn những nguồn lực đã bỏ ra trong quá khứ, hoạt động đầu tư chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu tư 2005 và những văn bản pháp luật có liên quan.
Khái niệm đầu tư trong lĩnh vực giáo dục
Hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là một hoạt động đầu tư đặc thù, là một bộ phận của hoạt động đầu tư nói chung, chủ yếu chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư 2005 và Luật giáo dục 2005.
Theo Luật đầu tư, “Hoạt động đầu tư đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó” ( Khoản 2, Điều 5). Cũng theo Luật Đầu tư, “Phát triển sự nghiệp giáo dục” được quy định là lĩnh vực ưu đãi đầu tư (Điều 27), và là lĩnh vực đầu tư có điều kiện (Điều 29). Theo Luật giáo dục 2005, “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu” (Điều 9); “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển” (Điều 13). Giáo dục là loại hình dịch vụ đặc biệt, việc đầu tư cho giáo dục được quy định theo hướng thống nhất, đồng bộ giữa Luật đầu tư và Luật giáo dục, là một hoạt động chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nhưng hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục lại được thực hiện theo quy định của hệ thống pháp luật chuyên ngành.
Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển bền vững của đất nước là vô cùng to lớn nên ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục không ngừng tăng. Tuy nhiên phạm vi nghiên cứu của khóa luận chỉ nghiên cứu hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục của các lực lượng xã hội ngoài nhà nước, gồm cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội và đầu tư nước ngoài.
Đầu tư cho giáo dục là lĩnh vực đầu tư có điều kiện và được ưu đãi đầu tư. Hoạt động đầu tư cho giáo dục có những đặc điểm cơ bản của hoạt động đầu tư nói chung, đều là sự hi sinh một nguồn lực trong hiện tại để tiến hành những hoạt động trong môi trường giáo dục nhằm thu được những kết quả trong tương lai và kết quả thu được từ hoạt động đó phải lớn hơn những nguồn lực đã bỏ ra.
Nguồn lực phải hi sinh có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn); tài sản vật chất (trường học, cơ sở vật chất phục vụ giáo dục…); tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, quản lí, khoa học…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả xã hội được thụ hưởng. Chẳng hạn, một trường học được xây dựng, tài sản vật chất của người đầu tư trực tiếp tăng thêm, đồng thời xã hội cũng được hưởng thành quả của hoạt động đầu tư này.
Hoạt động đầu tư cho giáo dục không chỉ đem lại kết quả cho nhà đầu tư mà còn cả nền kinh tế xã hội được thụ hưởng chính là đầu tư phát triển. Còn các loại đầu tư chỉ trực tiếp làm tăng tài sản chính của người đầu tư tác động gián tiếp làm tăng tài sản của nền kinh tế thông qua sự đóng góp tài chính tích lũy của các hoạt động đầu tư này cho đầu tư phát triển, cung cấp vốn cho hoạt động đầu tư phát triển và thúc đẩy quá trình lưu thông, phân phối các sản phẩm do kết quả của hoạt động đầu tư phát triển tạo ra thì đó là đầu tư tài chính và đầu tư thương mại.
Như vậy, đầu tư cho lĩnh vực giáo dục là một bộ phận của đầu tư nói chung, đều mang lại những lợi ích tăng thêm cho nhà đầu tư và góp phần mang lại cho xã hội những giá trị quan trọng như nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Hoạt động đầu tư cho lĩnh vực giáo dục phải được định hướng rõ ràng, phải được quản lí tốt để đạt được mục đích nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập quốc tế, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đặc điểm của hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển
“Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư. Là việc chi dùng trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kĩ năng…) vì mục tiêu phát triển” (Giáo trình kinh tế phát triển – Đại học Kinh tế quốc dân).
Đầu tư phát triển đòi hỏi lớn nhiều loại nguồn lực. Với xu hướng phát triển hiện tại, nguồn lực đầu tư có thể đến từ nhà nước, cũng có thể do tổ chức cá nhân trong và ngoài nước bỏ ra. Phạm vi đầu tư của các nhà đầu tư ngoài nhà nước mở rộng theo lộ trình xã hội hóa giáo dục. Hoạt động đầu tư có hiệu quả cao là kết quả của việc huy động tích cực nguồn lực đầu tư trong xã hội. Đa số đầu tư nguồn lực nhằm mục đích sinh lợi, cũng có chủ thể đầu tư vì tâm huyết với sự học, vì trách nhiệm với xã hội (nhiều cá nhân tình nguyện hiến đất đai để xây dựng trường học).
Đối tượng của đầu trong lĩnh vực giáo dục là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Theo quan điểm phân công lao động xã hội thì đây là đầu tư theo ngành. Dưới góc độ đối tượng tính chất đầu tư thì đầu tư trong lĩnh vực giáo dục nổi trội tính chất phi lợi nhuận (mục tiêu lợi nhuận không phải là tuyệt đối). Trên góc độ xem xét sự quan trọng, đầu tư trong lĩnh vực giáo dục có đối tượng được khuyến khích đầu tư.
Kết quả của đầu tư cho giáo dục là sự tăng thêm về tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kĩ thuật…), tài sản vật chất (trường học, trang thiết bị…) và tài sản vô hình (phát minh, sáng chế, công trình khoa học…). Các kết quả của hoạt động đầu tư cho giáo dục góp phần làm tăng thêm những giá trị và chất lượng cho xã hội. Đặc thù của kết quả đầu tư cho giáo dục so với các hoạt động đầu tư khác chính là tương quan so sánh giữa kết quả kinh tế xã hội thu được với chi phí chi ra để đạt kết quả đó. Kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển cần được xem xét cả trên phương diện đối với chủ đầu tư và xã hội, đảm bảo hài hòa giữa các loại lợi ích, khuyến khích vai trò chủ động của chủ đầu tư, vai trò quản lí, kiểm tra giám sát của cơ quan nhà nước các cấp. Đầu tư trong lĩnh vực giáo dục tuy không trực tiếp tạo ra tài sản cố định và tài sản lưu động như các hoạt động đầu tư khác nhưng lại rất quan trọng để nâng cao chất lượng cuộc sống và vì mục tiêu phát triển.
Mục đích của hoạt động đầu tư cho giáo dục là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích của quốc gia, cộng đồng và của nhà đầu tư.
Đầu tư cho lĩnh vực giáo dục thường được thực hiện bởi một chủ đầu tư nhất định. Xác định rõ chủ đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quản lí đầu tư nói chung và vốn đầu tư nói riêng. Chủ đầu tư là cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị xã hội, cộng đồng dân cư, nhà đầu tư nước ngoài…
Hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là một quá trình, diễn ra trong thời kì dài và tồn tại vấn đề “độ trễ về thời gian”. “Độ trễ thời gian” là sự không trùng hợp giữa thời gian đầu tư với thời gian vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư hiện tại nhưng kết quả đầu tư thường thu được trong tương lai xa.
Nội dung đầu tư trong lĩnh vực giáo dục được quy định trong pháp luật về đầu tư và pháp luật về giáo dục. Bao gồm hình thức đầu tư; điều kiện đầu tư; quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; quy trình, thủ tục và triển khai dự án đầu tư; đảm bảo khuyến khích và ưu đãi đầu tư; quản lí nhà nước về đầu tư.
Đầu tư cho giáo dục là hoạt động đầu tư đặc thù
Thứ nhất, giáo dục là loại hình dịch vụ đặc biệt
Thực tế còn nhiều tranh luận rằng giáo dục có phải là một ngành dịch vụ hay không bởi nhiều ý kiến cho rằng gắn giáo dục với “dịch vụ” với “kinh tế thị trường”, với “thương mại hóa” là làm mất đi giá trị cao quý của ngành, là một hiện tượng tiêu cực… Lâu nay, người ta vẫn coi giáo dục là sự nghiệp công ích, là phúc lợi xã hội cần phải được bao cấp hoàn toàn; đối với các nho sĩ phong kiến thì giáo dục là một hình thái hoạt động thanh cao, thuần tuý trau dồi hiểu biết và đức hạnh, không liên quan gì đến những sinh hoạt vật chất như sản xuất hàng hoá, tính toán giá cả, lưu thông trao đổi...
Thời đại của nền văn minh trí tuệ đã bật sáng những tín hiệu mới, buộc chúng ta phải chuyển đổi quan niệm. Giáo dục không thể là một ốc đảo, đứng ngoài nền kinh tế thị trường, đứng ngoài những yêu cầu phát triển của xã hội; sản phẩm của giáo dục cũng phải coi là hàng hoá, dù là một thứ hàng hoá đặc biệt. Hoạt động của giáo dục phải phù hợp với kế hoạch tổng thể của đất nước, chịu sự chi phối trực tiếp những yêu cầu của kinh tế, xã hội.
Trong gần thập kỷ qua, trong nhiều diễn đàn ở hội thảo, trên báo chí, phát thanh truyền hình trong nước cũng như ngoài nước, đề tài "có hay không yếu tố thương mại trong hoạt động giáo dục" đã được đề cập đến khá sôi nổi. Ý kiến khác nhau diễn ra kéo dài, có khi tranh luận rất gay gắt. Nhưng thực tiễn đã nhanh chóng trở thành người trọng tài công minh; sự phát triển của nền kinh tế mới với cuộc hành trình toàn cầu hoá của nhân loại đã cho phép chúng ta nhận thức lại nhiều điều có ý nghĩa. Thương mại không còn chỉ là cái đuôi của sản xuất, không còn chỉ là một thứ sinh hoạt trao đổi hàng hoá giản đơn mà nó đã trở thành một hoạt động quan trọng có tác dụng rộng lớn đến nhiều mặt của đất nước; nó có khả năng phát ra nhiều tín hiệu có ý nghĩa định hướng cho các hoạt động kinh tế, xã hội. Chúng ta không nên nuôi giữ những định kiến sai lầm về việc buôn bán, không nên nhì