Khi chưa bước vào hôn nhân, hai người nam nữlà những người có tài sản
riêng, hoàn toàn tự do trong việc định đoạt tài sản của mình. Khi bước vào hôn
nhân, điều đó đã khác.Tất cảcác vấn đề về tài sản của họ được điều chỉnh bởi
một qui chế pháp lí có tên là “chế độ tài sản vợ chồng”. Theo một logic đơn
thuần: khi chưa bước vào hôn nhân, từngcá nhân được tự do định đoạt tài sản của
mình thì trong hôn nhânhai cá nhânđócũng được thỏa thuận định đoạt chế độ tài
sản vợ chồng. Có lẽ vì thế mà hầuhết các quốc gia trên thế giới cho phép những
người sắp kết hôntự thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng bằngmột văn bản có
tên là “hôn ước”. Việt Namthì không như vậy: chế độ tài sản vợ chồng chỉ do
pháp luật qui định.
Tuy nhiên cùng với sự phát triểncủa xã hội, chế độ tài sản vợ chồng của
Việt Nam đã có những sự thay đổi đáng kể, từ chỗ không chấp nhận bất cứ thỏa
thuận nào của vợ chồng về việc xác lập tài sản (như qui định trong Luật hôn nhân
và gia đình năm 1959) đến chỗ cho phép vợ chồng được thỏathuận về việc chia
tài sản chung trong thời kì hôn nhân thậm chí thỏa thuận cả vềhậu quả của việc
chia tài sản này(Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Nghị định 70/2001/NĐ-CP).Sự thay đổi đó phải chăng đã khiến cho các qui định pháp luật tiến gần hơn
tới chỗ chấp nhận hôn ước? Vì thếnghiên cứu về hôn ước là điều cần thiếtđể giải
đáp câu hỏi này. Mặt khác, trong quá trình hội nhập, các quan hệ hôn nhân có yếu
tố nước ngoài ngày một nhiều, điều đó khiếnchúng ta không thể thờ ơ trước vấn
đề hôn ước bởi hôn ước được pháp luật ở hầu hết các quốc gia trên thế giớighi
nhận. Vì vậy, người viết đã chọn đề tài “Tìm hiểu về hôn ước và khả năng áp
dụng hôn ước ở Việt Nam” để làm khóa luận tốt nghiệp.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, người viết mong muốn khái quát được
nội hàm, đặc điểm của hôn ước và nêu raxu hướng áp dụng hôn ước của xã hội
Việt Nam hiện đại, người viết cũng mong muốn đề nghị một lộ trình phù hợp cho
việc áp dụng hôn ước trong xã hội Việt Nam.
2
Ở nước ta,từ sau khi thống nhất(1975), hôn ước ít khi trở thành đối tượng
chínhcủa các công trình nghiên cứu khoa học. Dù khi đề cập đến chế độ tài sản
vợ chồnghầu như các nghiên cứu khoa học đều có nói đến hôn ước;song theo
người viết tìm hiểu thì hôn ước chỉ được coi làđối tượng nghiên cứu chính trong
hai bài báo “Vấn đề thừa nhận chế độ tài sản ước định trong pháp luật hôn nhân
và gia đình Việt Nam” của ThS Nguyễn Hồng Hải và “Chế độ tài sản theo thỏa
thuận của vợ chồng trong pháp luật Cộng hòa Pháp và pháp luật Việt Nam”của
ThSBùi Minh Hồng. Tuy nhiên với phạm vi của một bài báo khoa học, hai bài
nghiên cứu này chưa thể đề cập một cách tổng quan và đầy đủ về hôn ước cũng
như khả năng áp dụng hôn ước trong xã hội Việt Nam hiện đại.
Vì vậy,khóa luận này,với đề tài đã chọn sẽ cố gắng đưa ra những điểm
mới sauđây:
nghiên cứu khái quát về hôn ước bao gồm lược sử, nội hàm và đặc điểm
của hôn ước;
nghiên cứu và bình luận về hôn ước ở Việt Nam qua từng thời kì lịch sử;
tìm hiểu về hôn ước ở các nước có các đặc điểm hình thái xã hội và pháp
luật khác nhau;
nghiên cứu về sự phù hợp của hôn ước với xu hướng phát triển của xã hội
Việt Nam;
nghiên cứu một giải pháp phù hợp cho việc áp dụng hôn ước ở Việt Nam.
Về phương pháp nghiên cứu, khóa luận đã sử dụng kết hợp phương pháp
duy vậtbiện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –Lê Nin, phương pháp
phân tích –tổng hợp, phương pháp Luật học so sánh và phương pháp thu thập
thông tin để giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
Về bố cục, khóa luận kết cấu thành hai chương như sau:
Chương 1: Khái quát chung về hôn ước –đặc trưng của chế độ tài sản
ước định.
Chương 2: Khả năng áp dụng hôn ước trong xã hội Việt Nam hiện đại.
72 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2512 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu về hôn ước và khả năng áp dụng hôn ước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------***--------
PHẠM THỊ LINH NHÂM
TÌM HIỂU VỀ HÔN ƯỚC VÀ
KHẢ NĂNG ÁP DỤNG HÔN ƯỚC Ở VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
HÀ NỘI - 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
PHẠM THỊ LINH NHÂM
DS31B
TÌM HIỂU VỀ HÔN ƯỚC VÀ
KHẢ NĂNG ÁP DỤNG HÔN ƯỚC Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hôn nhân và gia đình
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Lan
HÀ NỘI - 2010
MỤC LỤC
Mục lục trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÔN ƯỚC – ĐẶC TRƯNG CỦA
CHẾ ĐỘ TÀI SẢN ƯỚC ĐỊNH
1.1. Hôn ước và các chế độ tài sản 3
1.1.1. Khái niệm hôn ước và các chế độ tài sản vợ chồng 3
1.1.2. Sơ lược lịch sử hình thành của hôn ước 4
1.1.3. Đặc điểm của hôn ước 8
1.2. Pháp luật Việt Nam với việc qui định về hôn ước 9
1.2.1. Hôn ước trong pháp luật thời kì Pháp thuộc 10
1.2.2. Hôn ước theo hệ thống pháp luật ở miền nam nước ta trước
ngày thống nhất đất nước (1954 - 1975)
12
1.2.3. Hôn ước trong pháp luật Hôn nhân và gia đình của nhà nước ta
từ Cách mạng Tháng tám (1945) đến nay
14
1.3. Hôn ước trong pháp luật một số nước trên thế giới 16
1.3.1 Hôn ước theo pháp luật của Cộng hòa Pháp 16
1.3.2 Hôn ước theo pháp luật của Hoa Kì 19
1.3.3 Hôn ước theo pháp luật của Nhật Bản 21
1.3.4 Hôn ước theo pháp luật của Thái Lan 22
Chương 2 KHẢ NĂNG ÁP DỤNG HÔN ƯỚC
TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
2.1 Hôn ước phổ biến và là xu hướng của thế giới 25
2.1.1 Hôn ước trong tư pháp quốc tế 25
2.1.2 Hôn ước được áp dụng tại nhiều quốc gia 27
2.2. Hôn ước phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội Việt
Nam hiện đại
28
2.2.1. Sự thay đổi về yếu tố cá nhân và chức năng kinh tế trong gia đình 28
2.2.2 Tình trạng chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân để đầu tư
kinh doanh riêng.
31
2.2.3 Tình trạng li hôn gia tăng kèm theo vấn đề chia tài sản khi li hôn 33
2.2.4 Hiện tượng kết hôn với người nước ngoài trở nên phổ biến 34
2.2.5 Dư luận xã hội 35
2.2.6 Quan điểm của các nhà nghiên cứu luật 35
2.3 Xu hướng tương thích của pháp luật Việt Nam với hôn ước 36
2.3.1 Qui định về công nhận và cho thi hành bản án của tòa án
nước ngoài
36
2.3.2 Những qui định cho phép vợ chồng được thỏa thuận làm thay
đổi về căn cứ xác lập tài sản
39
2.4 Một số kiến nghị về việc áp dụng hôn ước tại Việt Nam 47
2.4.1 Hoàn thiện các qui định về các vấn đề về tài sản vợ chồng mà
vợ chồng được thỏa thuận và lộ trình áp dụng hôn ước
47
2.4.2 Hình thức và nội dung của các qui định kiến nghị áp dụng 50
LỜI KẾT 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phụ lục 1
Phụ lục 2
1
LỜI MỞ ĐẦU
Khi chưa bước vào hôn nhân, hai người nam nữ là những người có tài sản
riêng, hoàn toàn tự do trong việc định đoạt tài sản của mình. Khi bước vào hôn
nhân, điều đó đã khác. Tất cả các vấn đề về tài sản của họ được điều chỉnh bởi
một qui chế pháp lí có tên là “chế độ tài sản vợ chồng”. Theo một logic đơn
thuần: khi chưa bước vào hôn nhân, từng cá nhân được tự do định đoạt tài sản của
mình thì trong hôn nhân hai cá nhân đó cũng được thỏa thuận định đoạt chế độ tài
sản vợ chồng. Có lẽ vì thế mà hầu hết các quốc gia trên thế giới cho phép những
người sắp kết hôn tự thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng bằng một văn bản có
tên là “hôn ước”. Việt Nam thì không như vậy: chế độ tài sản vợ chồng chỉ do
pháp luật qui định.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển của xã hội, chế độ tài sản vợ chồng của
Việt Nam đã có những sự thay đổi đáng kể, từ chỗ không chấp nhận bất cứ thỏa
thuận nào của vợ chồng về việc xác lập tài sản (như qui định trong Luật hôn nhân
và gia đình năm 1959) đến chỗ cho phép vợ chồng được thỏa thuận về việc chia
tài sản chung trong thời kì hôn nhân thậm chí thỏa thuận cả về hậu quả của việc
chia tài sản này (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Nghị định 70/2001/NĐ-
CP). Sự thay đổi đó phải chăng đã khiến cho các qui định pháp luật tiến gần hơn
tới chỗ chấp nhận hôn ước? Vì thế nghiên cứu về hôn ước là điều cần thiết để giải
đáp câu hỏi này. Mặt khác, trong quá trình hội nhập, các quan hệ hôn nhân có yếu
tố nước ngoài ngày một nhiều, điều đó khiến chúng ta không thể thờ ơ trước vấn
đề hôn ước bởi hôn ước được pháp luật ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi
nhận. Vì vậy, người viết đã chọn đề tài “Tìm hiểu về hôn ước và khả năng áp
dụng hôn ước ở Việt Nam” để làm khóa luận tốt nghiệp.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, người viết mong muốn khái quát được
nội hàm, đặc điểm của hôn ước và nêu ra xu hướng áp dụng hôn ước của xã hội
Việt Nam hiện đại, người viết cũng mong muốn đề nghị một lộ trình phù hợp cho
việc áp dụng hôn ước trong xã hội Việt Nam.
2
Ở nước ta, từ sau khi thống nhất (1975), hôn ước ít khi trở thành đối tượng
chính của các công trình nghiên cứu khoa học. Dù khi đề cập đến chế độ tài sản
vợ chồng hầu như các nghiên cứu khoa học đều có nói đến hôn ước; song theo
người viết tìm hiểu thì hôn ước chỉ được coi là đối tượng nghiên cứu chính trong
hai bài báo “Vấn đề thừa nhận chế độ tài sản ước định trong pháp luật hôn nhân
và gia đình Việt Nam” của ThS Nguyễn Hồng Hải và “Chế độ tài sản theo thỏa
thuận của vợ chồng trong pháp luật Cộng hòa Pháp và pháp luật Việt Nam” của
ThS Bùi Minh Hồng. Tuy nhiên với phạm vi của một bài báo khoa học, hai bài
nghiên cứu này chưa thể đề cập một cách tổng quan và đầy đủ về hôn ước cũng
như khả năng áp dụng hôn ước trong xã hội Việt Nam hiện đại.
Vì vậy, khóa luận này, với đề tài đã chọn sẽ cố gắng đưa ra những điểm
mới sau đây:
nghiên cứu khái quát về hôn ước bao gồm lược sử, nội hàm và đặc điểm
của hôn ước;
nghiên cứu và bình luận về hôn ước ở Việt Nam qua từng thời kì lịch sử;
tìm hiểu về hôn ước ở các nước có các đặc điểm hình thái xã hội và pháp
luật khác nhau;
nghiên cứu về sự phù hợp của hôn ước với xu hướng phát triển của xã hội
Việt Nam;
nghiên cứu một giải pháp phù hợp cho việc áp dụng hôn ước ở Việt Nam.
Về phương pháp nghiên cứu, khóa luận đã sử dụng kết hợp phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, phương pháp
phân tích – tổng hợp, phương pháp Luật học so sánh và phương pháp thu thập
thông tin để giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
Về bố cục, khóa luận kết cấu thành hai chương như sau:
Chương 1: Khái quát chung về hôn ước – đặc trưng của chế độ tài sản
ước định.
Chương 2: Khả năng áp dụng hôn ước trong xã hội Việt Nam hiện đại.
3
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÔN ƯỚC – ĐẶC TRƯNG CỦA
CHẾ ĐỘ TÀI SẢN ƯỚC ĐỊNH
1.1. HÔN ƯỚC VÀ CÁC CHẾ ĐỘ TÀI SẢN
1.1.1. Khái niệm hôn ước và các chế độ tài sản vợ chồng
1.1.1.1. Chế độ tài sản vợ chồng
Do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân mà các vấn đề về quyền sở
hữu đối với tài sản của vợ chồng không thể chỉ điều chỉnh bằng các qui định
chung về sở hữu tài sản thông thường. Tất cả các quốc gia trên thế giới dù chế
độ xã hội khác nhau, trình độ phát triển kinh tế khác nhau, điều kiện về phong
tục tập quán, truyền thống văn hóa khác nhau, tất cả các quốc gia đó dù đã qui
định về quyền sở hữu tài sản thông thường nhưng ít hay nhiều cũng đều có qui
định riêng về vấn đề sở hữu tài sản của vợ chồng.
“Tổng hợp các qui định của pháp luật về căn cứ xác lập tài sản, quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng, nguyên tắc phân
chia tài sản vợ chồng là chế độ tài sản của vợ chồng”1. Nói đến chế độ tài sản
vợ chồng là nói đến vấn đề sở hữu đối với tài sản của vợ chồng. Chế độ tài sản
của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kì hôn nhân (từ khi kết hôn cho đến khi hôn
nhân chấm dứt) và cũng do đó chế độ tài sản vợ chồng không bao gồm các vấn
đề thừa kế tài sản giữa vợ và chồng, vấn đề cấp dưỡng của vợ chồng.
1.1.1.2. Chế độ tài sản pháp định và chế độ tài sản ước định
Về hình thức pháp lí, chế độ tài sản vợ chồng có thể được xác định theo
căn cứ pháp luật (chế độ tài sản pháp định) hoặc theo thỏa thuận của vợ chồng
(chế độ tài sản ước định).
Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã dự liệu về
căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
đối với các loại tài sản, các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản của vợ
chồng. Chế độ tài sản pháp định được pháp luật của tất cả các quốc gia trên thế
giới dự liệu.
1 TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, NXB Tư pháp,
2008, tr 8.
4
Khác với chế độ tài sản pháp định, chế độ tài sản ước định là chế độ tài
sản mà trong đó căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản, quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản, các trường hợp và nguyên tắc chia tài
sản của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận.
1.1.1.3. Hôn ước
Khi áp dụng chế độ tài sản ước định, vợ chồng được tự do thỏa thuận
về chế độ tài sản trong thời kì hôn nhân. Văn bản ghi nhận sự thỏa thuận đó
là hôn ước.
Hôn ước là văn bản do hai bên nam nữ lập trước khi kết hôn theo thể
thức nhất định trong đó ghi nhận sự thỏa thuận của họ về chế độ tài sản vợ
chồng được áp dụng trong thời kì hôn nhân và chỉ phát sinh hiệu lực trong thời
kì hôn nhân.
1.1.2. Sơ lược lịch sử hình thành của hôn ước
Theo quan điểm thịnh hành của các luật gia Việt Nam, hôn ước ra đời do
quan điểm của các nhà lập pháp phương Tây, theo họ hôn nhân thực chất chỉ là
một loại hợp đồng dân sự chỉ khác ở sự trang trọng khi thiết lập và trong việc
chấm dứt; bên cạnh đó, các nhà làm luật của phương Tây cũng đề cao quyền tự
do cá nhân, quyền định đoạt tài sản của vợ chồng2. Tuy nhiên nếu tóm lược sự ra
đời của hôn ước như vậy sẽ không phản ánh được hết nguyên nhân khách quan
của sự tồn tại của hôn ước. Theo người viết, như các qui định khác, hôn ước có
nguồn gốc lịch sử lâu đời, có quá trình phát triển.
1.1.2.1. “Thỏa thuận hôn nhân” và “thỏa thuận về điều kiện của
hồi môn”
Có lẽ những hôn ước đầu tiên đã được xuất hiện từ thời La Mã cổ đại
dưới hình thức thỏa thuận hôn nhân (nuptias consensus facit)3 trong hôn nhân
2 Dễ dàng tìm đọc quan điểm này tại các bài viết về chế độ tài sản vợ chồng. xin trích dẫn một vài tài liệu: Nguyễn
Hồng Hải, Xác định tài sản của vợ chồng một số vấn đề lí luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ trường Đại học Luật
Hà Nội, 2002; TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,
NXB Tư pháp, 2008; …
3 Tiếng Latinh, thuật ngữ tiếng Việt được lấy theo Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã (chủ biên
ThS Nguyễn Minh Tuấn), NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2001
5
không dưới quyền của người chồng (sine manu)4 hoặc thỏa thuận về điều kiện
của hồi môn (stipuliatio)5.
Thỏa thuận hôn nhân (nuptias consensus facit)
Dưới thời La Mã vợ chồng không có tài sản chung bởi quyền gia trưởng
của người chồng gần như tuyệt đối, đặc biệt trong hôn nhân dưới quyền của
người chồng (cum manu6), tất cả tài sản của gia đình đều bị coi là tài sản của
người chồng, thậm chí vợ con cũng được coi là tài sản của chồng, người chồng
có thể kiện đối với vợ theo hình thức kiện vật quyền (actio in rem). Hôn nhân
sine manu được đánh giá là một hình thức giải phóng người phụ nữ khỏi quyền
lực (manus) của người chồng. Sine manu được thiết lập trên cơ sở của nuptias
consensus facit7. Nuptias consentus facit thực chất chỉ là một thỏa thuận ghi
nhận và phân định khối tài sản riêng của người vợ có trước thời kì hôn nhân với
các tài sản khác (khối tài sản này được coi là tài sản của người chồng), theo đó
người vợ hoàn toàn được tự chủ trong quan hệ tài sản, người chồng chỉ có thể
thực hiện quản lí tài sản riêng của vợ trên cơ sở hợp đồng ủy quyền quản lí của
người vợ8. Nuptias consentus facit chỉ tồn tại trong hôn nhân sine manu và sine
manu được áp dụng khi con gái của một nhà giàu kết hôn với người nghèo.
Thỏa thuận về điều kiện của hồi môn (stipuliatio)
Vào cuối thời Cộng hòa, để ngăn ngừa việc cưới vợ nhằm lấy của hồi
môn, sau đó li dị, luật La Mã đã qui định: trước khi kết hôn cho phép bố mẹ
hoặc người chủ hộ (Pater familias) của cô dâu thỏa thuận điều kiện về của hồi
môn nếu hai người li hôn hoặc người chồng chết trước thì của hồi môn được trả
lại cho vợ9. Thỏa thuận đó được gọi là stipuliatio, thỏa thuận stipuliatio thường
có nội dung sau:
của hồi môn sẽ thuộc về chồng hoặc nhà chồng nếu như vợ chết
hoặc của hồi môn sẽ được trả lại cho bố mẹ vợ nếu như vợ chết trước.
4 Hình thức hôn nhân này tồn tại trước thời hoàng đế Justinian, thuật ngữ tiếng Việt được lấy theo Trường Đại học
Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd.
5 Thỏa thuận này tồn tại vào cuối thời kì cộng hòa, khoảng thế kỉ thứ 2 trước công nguyên, thuật ngữ tiếng Việt được
lấy theo Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd
6 Thuật ngữ tiếng Việt được lấy theo Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd.
7 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd, tr. 160
8 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd, tr. 160
9 Có sự thay đổi thiên về phía bảo vệ quyền lợi cho người phụ này có lẽ bởi khi nhà nước La Mã mở rộng lãnh thổ,
người đàn ông thường phải xa nhà đi chiến đầu và có thể không quay trở về, người phụ nữ buộc phải học cách quản
lí gia đình và quyết định những việc mà trước kia người quyết định luôn là người đàn ông, chính vì vậy giá trị gia
đình đã thay đổi phần nào.
6
trong trường hợp người chồng chết thì của hồi môn buộc phải trả lại
cho bố đẻ hoặc pater familias của vợ10.
Nuptias consentus facit hay stiputliatio thực chất cũng chưa mang tất
cả những đặc điểm của hôn ước nhưng cũng mang những yếu tố sơ khai ban đầu
của hôn ước – đặc trưng của chế độ tài sản ước định.
1.1.2.2. Hôn ước là sản phẩm của một quá trình lịch sử lâu dài
Hôn ước ra đời từ quá trình đấu tranh và dung hòa của các truyền thống
văn hóa, quyền lực nhà nước, quyền tự do của con người và tư tưởng tôn giáo (ở
đây là ki tô giáo - tôn giáo có tầm ảnh hưởng lớn nhất từ trước tới nay11).
Vào thời kì khởi thủy của Ki tô giáo, quan niệm về hôn nhân chịu ảnh
hưởng của hai truyền thống: truyền thống Do Thái12 và truyền thống Roma13.
Theo truyền thống Do Thái, tôn giáo đóng vai trò rất quan trọng trong hôn nhân,
nó được thể hiện thông qua các nghi lễ, các lời chúc tốt lành. Người Do Thái cử
hành hôn nhân thành hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là lễ đính hôn việc cử
hành lễ đính hôn bao gồm cả việc đọc kinh chúc phúc; giai đoạn hai là hôn lễ,
cử hành khoảng một năm sau lễ đính hôn với những nghi lễ long trọng. Trong
khi đó truyền thống Roma lại coi trọng sự thỏa thuận, chính quyền Roma không
can thiệp vào sự cử hành các nghi lễ, họ tôn trọng các phong tục của các dân tộc
sống trên đế quốc La Mã14 tuy nhiên các luật gia La Mã lại sớm ấn định các yếu
tố pháp lí phòng khi xảy ra các trường hợp kiện tụng15. Vì thế, ai muốn cử hành
hôn lễ theo nghi thức nào cũng được nhưng bắt buộc phải có sự thỏa thuận, nếu
như chưa có sự thỏa thuận công khai thì luật pháp coi như hai người chưa phải
là vợ chồng của nhau. Thời kì đầu này có lẽ ki tô giáo chịu ảnh hưởng của
truyền thống Do Thái nhiều hơn16 nên Ki tô giáo không đề cập đến vấn đề thỏa
thuận trong hôn nhân, theo kinh Tân ước: người chồng không được đối xử với
10 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd, tr. 162
11 Almanach những nên văn minh thế giới, NXB Văn hóa thông tin 1996, tr. 1043
12 Bởi đạo ki tô phát sinh từ trong lòng đạo Do Thái.
13 Đạo Ki tô ra đời tại vùng đất của đế chế La Mã đến năm 61 thì đạo ki tô trở nên phổ biến ở La Mã
14 Khi đó đế quốc La Mã đã rất rộng lớn bao trùm phần lớn châu Âu hiện nay và có nhiều dân tộc sinh sống và các
nghi lễ là vô cùng đa dạng, việc không thể thống nhất nghi lễ kết hôn là điều tất yếu.
15 Kiện tụng có thể xảy ra bởi dưới thời La Mã một thời gian dài người vợ được coi là tài sản của người chồng, tính
chất giống như tài sản của người vợ cũng được biểu hiện ở nghi lễ kết hôn: Ví dụ: nghi lễ Coemptio (nghi lễ này
giống như một hình thức mua vợ), nghi lễ Usus (nghi lễ này có nội dung là hôn nhân xác lập trên thời hiệu kết hôn,
người nam và người nữ theo nguyên tắc consensus chung sống với nhau một năm, chỉ khi trọn 1 năm chung sống thì
mới dược coi là kết hôn và manus của người chồng mới được thiết lập)
16 Bởi có lẽ lúc đó ki tô giáo chưa phát triển mạnh, nó chỉ ở trong phạm vi hạn hẹp của vùng Jerusalem và cũng chưa
được chính quyền dùng đến nhiều
7
người vợ như là một món đồ sở hữu theo quan điểm Roma, vợ chồng phải chung
thủy với nhau, việc li hôn bị cấm.
Thế kỉ thứ II trở đi lãnh thổ của La mã không những không được mở rộng
thêm nữa mà còn luôn bị đe dọa. Giữa thế kỉ thứ IV các bộ lạc người Giéc
Manh17 đã tràn vào xâm lược La Mã, đến thể kỉ thứ V trên sự tan rã của đế quốc
La Mã người Giéc manh đã thiết lập được một số đế quốc phong kiến ở Tây
Âu18. Ở giai đoạn này các cơ cấu xã hội bị đảo lộn, quyền lực chuyển dần về tay
giáo hội. Lúc này các giám mục không những chỉ phải giảng giải về đạo đức
trong hôn nhân, không phải chỉ lo khuyên bảo, răn dạy cho các cặp đôi mà nhiều
lần phải đảm đương vai trò của pháp luật. Thêm vào đó để dung hòa xung đột
với dân truyền thống của dân Giecmanh, sự thỏa thuận trong hôn nhân đã được
khẳng định rõ ràng trong giáo luật. Và để sự thỏa thuận này được thực hiện
nghiêm túc, giáo luật cho rằng sự thỏa thuận cần diễn ra theo thể thức pháp định
thì mới có giá trị.
Sang thế kỉ 13, quan điểm của tôn giáo lại cho rằng sự thỏa thuận là
nguyên nhân tác thành của hôn nhân nhưng nhưng bản chất của sự tác thành nên
hôn nhân lại không phải là một sự thỏa thuận. Đối tượng của sự thỏa thuận
chính là sự kết hợp của vợ chồng mang theo những nghĩa vụ và quyền lợi căn
bản của hôn nhân, vì thế thỏa thuận này đã bao hàm cả những vấn đề quyền lợi
và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, thời kì mà chỉ có điểm bắt đầu
chứ không có điểm kết thúc nếu như một người không qua đời. Có lẽ từ đây mới
xuất hiện một loại khế ước về quyền lợi và nghĩa vụ giữa vợ chồng (bao gồm cả
vấn đề tài sản của vợ chồng) được lập trước khi kết hôn. Loại khế ước này đã
mang đầy đủ hơn các yếu tố của một hôn ước. Giá trị pháp lí của hôn ước đã
được ghi nhận trong Bộ Luật dân sự đầu tiên trên thế giới – Bộ luật dân sự
Napoleon 1804.
Một nguyên do nữa mà theo người viết cũng là lí do khiến cho hôn ước
trở nên phổ biến đối với những người theo công giáo, đó là theo quan niệm của
công giáo thì hôn nhân là một vợ một chồng và bất khả phân li nên giáo hội
không cho phép việc li hôn. Dưới thời trung cổ do giáo hội nắm quyền nên
17 Lúc đó người Giec Manh vẫn chưa có nhà nước, sau khi xâm lược La Mã họ đã có bước nhảy vọt chuyển từ xã hội
thị tộc sang xã hội phong kiến, không qua giai đoạn xã hội chủ nô.
18 Vương quốc Vi di gôt gồm Tây Ba Nha và miền tây nam Gô lơ, Vương quốc Buyếc gông ở miền nam Gô lơ,
Vương quốc Frăng ở Bắc Gô lơ, vương quốc Xắc xông ở Anh, vương quốc Ôxtorogot ở Italya…
8
pháp luật các nước cũng không cho phép vợ chồng li hôn. Tuy nhiên trong đời
sống chung vợ chồng không thể tránh khỏi những mâu thuẫn và nhiều trường
hợp mâu thuẫn đó dẫn đến tình trạng vợ chồng không muốn chung sống hay
không thể chung sống với nhau nữa. Lúc đó cần có một giải pháp để giải tỏa
xung đột giữa vợ chồng và việc sống li thân cùng với sự biệt lập về tài sản là
cần thiết. Vậy nên việc qui định trước về vấn đề tài sản của vợ chồng là cần
thiết để đảm bảo tự do cho cá nhân.
Theo người viết, có nhìn nhận về sự ra đời của hôn ước như trên
mới thấy được tính khách quan của sự tồn tại của hôn ước, của chế độ tài
sản ước định.
1.1.3. Đặc điểm của hôn ước
Về chủ thể: Hôn ước chỉ phát sinh hiệu lực giữa những người có
quan hệ hôn nhân hợp pháp (có làm các thủ tục cần thiết để đăng kí kết hôn với
cơ quan có thẩm quyền). Do hôn ước có tính hoạch định cao nên các cặp vợ
chồng thuộc trường hợp hôn nhân