Trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay, đặc biệt là
khi Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế
giới, thì việc mở rộng thị trường ra nước ngoài đang trở thành một nhu cầu tất 
yếu đối với các doanh nghiệp của Việt Nam, nhất là mở rộng ra các thị trường 
lớn như Mỹ, Nhật Bản và EU.
Với dân số 127,77 triệu người và tổng sản phẩm quốc nội đạt khoảng 5,5 
nghìn tỷ USD (năm 2007), dự trữ ngoại tệ 1.010 tỷ USD (tháng 2/2008), Nhật 
Bản hiện là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Mỹ. Nhật Bản 
cũng là thị trường có sức mua rất lớn, nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng 
ngày càng tăng cùng với xu hướng phục hồi của nền kinh tế trong những năm 
gần đây. Sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản đã mở ra nhiều cơ hội trong 
việc xuất khẩu hàng hóa sang thị trường nước này của các quốc gia trong khu 
vực trong đó có Việt Nam. Hiện nay, Nhật Bản đang là thị trường nhập khẩu 
lớn thứ hai của Việt Nam. Năm 2007, Nhật Bản nhập khẩu khối lượng hàng 
hóa với trị giá khoảng 800 tỷ USD, trong đó nhập khẩu từ Việt Nam là 6,1 tỷ
USD. Ngoài ra, Nhật Bản còn là nước viện trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam 
và là nước đứng đầu về vốn thực hiện trong số các nước và vùng lãnh thổ có
vốn đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. 
Trong những năm gần đây, quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản đang 
phát triển rất tốt đẹp. Tháng 7/2005, sau chuyến thăm chính thức Nhật Bản 
của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, quan hệ giữa hai nước đã nâng lên một tầm 
cao mới “quan hệ đối tác chiến lược”. Và hiện nay, Việt Nam và Nhật Bản
đang tích cực đàm phán hai hiệp định rất quan trọng đó là Hiệp định đối tác 
2
kinh tế toàn diện (EPA) và Hiệp định thương mại tự do (FTA) để dành cho 
nhau những ưu đãi trong thương mại và đầu tư 
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa quan hệ kinh tế thương mại giữa 
Việt Nam và Nhật Bản chỉ hoàn toàn thuận lợi, không có khó khăn. Kim 
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản mặc dù tăng lên khá nhanh 
trong những năm qua nhưng chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong nhu cầu nhập 
khẩu của Nhật Bản, chưa đến 1%. Thị trường Nhật Bản với những rào cản kỹ
thuật khắt khe nhất thế giới đang gây rất nhiều khó khăn cho các doanh 
nghiệp Việt Nam trong việc tiếp cận và thâm nhập vào thị trường này. Hơn 
nữa, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản còn chịu sự cạnh tranh 
rất khốc liệt từ Trung Quốc và các nước trong khu vực ASEAN - những nước 
có cùng lợi thế cạnh tranh như Việt Nam
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 121 trang
121 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1987 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tình hình thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ tại Việt Nam và giải pháp thực hiện giai đoạn sắp tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG 
 KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ 
 CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI 
 -------***------- 
 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP 
 Đề tài: Tình hình thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên 
kỷ tại Việt Nam và giải pháp thực hiện giai đoạn sắp tới 
 Sinh viên thực hiện : Ngô Mạnh Dũng 
 Lớp : Nhật 1 
 Khoá : K43F 
 Giáo viên hướng dẫn : ThS. Vũ Thị Hạnh 
 Hà Nội, 2008 
 LỜI MỞ ĐẦU 
1. Tính tất yếu của đề tài 
 Trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay, đặc biệt là 
khi Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế 
giới, thì việc mở rộng thị trường ra nước ngoài đang trở thành một nhu cầu tất 
yếu đối với các doanh nghiệp của Việt Nam, nhất là mở rộng ra các thị trường 
lớn như Mỹ, Nhật Bản và EU. 
 Với dân số 127,77 triệu người và tổng sản phẩm quốc nội đạt khoảng 5,5 
nghìn tỷ USD (năm 2007), dự trữ ngoại tệ 1.010 tỷ USD (tháng 2/2008), Nhật 
Bản hiện là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Mỹ. Nhật Bản 
cũng là thị trường có sức mua rất lớn, nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng 
ngày càng tăng cùng với xu hướng phục hồi của nền kinh tế trong những năm 
gần đây. Sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản đã mở ra nhiều cơ hội trong 
việc xuất khẩu hàng hóa sang thị trường nước này của các quốc gia trong khu 
vực trong đó có Việt Nam. Hiện nay, Nhật Bản đang là thị trường nhập khẩu 
lớn thứ hai của Việt Nam. Năm 2007, Nhật Bản nhập khẩu khối lượng hàng 
hóa với trị giá khoảng 800 tỷ USD, trong đó nhập khẩu từ Việt Nam là 6,1 tỷ 
USD. Ngoài ra, Nhật Bản còn là nước viện trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam 
và là nước đứng đầu về vốn thực hiện trong số các nước và vùng lãnh thổ có 
vốn đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. 
 Trong những năm gần đây, quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản đang 
phát triển rất tốt đẹp. Tháng 7/2005, sau chuyến thăm chính thức Nhật Bản 
của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, quan hệ giữa hai nước đã nâng lên một tầm 
cao mới “quan hệ đối tác chiến lược”. Và hiện nay, Việt Nam và Nhật Bản 
đang tích cực đàm phán hai hiệp định rất quan trọng đó là Hiệp định đối tác 
 1 
kinh tế toàn diện (EPA) và Hiệp định thương mại tự do (FTA) để dành cho 
nhau những ưu đãi trong thương mại và đầu tư… 
 Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa quan hệ kinh tế thương mại giữa 
Việt Nam và Nhật Bản chỉ hoàn toàn thuận lợi, không có khó khăn. Kim 
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản mặc dù tăng lên khá nhanh 
trong những năm qua nhưng chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong nhu cầu nhập 
khẩu của Nhật Bản, chưa đến 1%. Thị trường Nhật Bản với những rào cản kỹ 
thuật khắt khe nhất thế giới đang gây rất nhiều khó khăn cho các doanh 
nghiệp Việt Nam trong việc tiếp cận và thâm nhập vào thị trường này. Hơn 
nữa, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản còn chịu sự cạnh tranh 
rất khốc liệt từ Trung Quốc và các nước trong khu vực ASEAN - những nước 
có cùng lợi thế cạnh tranh như Việt Nam… 
 Với thực trạng quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản 
như vậy, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Thâm nhập thị trường Nhật Bản 
của các doanh nghiệp Việt Nam, cơ hội và thách thức” làm đề tài nghiên 
cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình. 
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 
 Mục đích nghiên cứu của đề tài là giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam 
thâm nhập tốt hơn vào thị trường Nhật Bản. 
 Nhiệm vụ nghiên cứu: 
 Một là, làm rõ đặc điểm của thị trường Nhật Bản. 
 Hai là, tổng hợp, phân tích và đánh giá thực trạng thâm nhập thị trường 
Nhật Bản của các doanh nghiệp Việt Nam trong những năm gần đây. 
 Ba là, phân tích những cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt 
Nam khi thâm nhập vào thị trường Nhật Bản. 
 Bốn là, đề xuất những giải pháp đối với Nhà nước và các doanh nghiệp 
nhằm làm tăng hiệu quả thâm nhập thị trường Nhật Bản của các doanh nghiệp 
Việt Nam. 
 2 
3. Đối tƣợng nghiên cứu 
 Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động thâm nhập thị trường Nhật 
Bản của các doanh nghiệp Việt Nam. 
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 
 Các phương pháp sử dụng trong quá trình nghiên cứu bao gồm: duy vật 
biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh đối 
chiếu, phương pháp phân tích tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa, lôgíc và 
lịch sử, tổng kết thực tiễn… 
5. Kết cấu của đề tài 
 Kết cấu của đề tài gồm 3 chương: 
 Chương 1: Những lý luận chung về các phương thức thâm nhập thị 
trường nước ngoài 
 Chương 2: Thực trạng thâm nhập thị trường Nhật Bản của các doanh 
nghiệp Việt Nam. 
 Chương 3: Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam khi 
thâm nhập vào thị trường Nhật Bản. 
 3 
 CHƢƠNG 1 
 NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC PHƢƠNG THỨC 
 THÂM NHẬP THỊ TRƢỜNG NƢỚC NGOÀI 
I. NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG 
1. Khái niệm thị trƣờng 
 Người ta đưa ra rất nhiều khái niệm khác nhau về thị trường: 
 Trong kinh tế chính trị học người ta định nghĩa “thị trường là lĩnh vực 
lưu thông, ở đó hàng hoá thực hiện được giá trị của mình đã được tạo ra trong 
lĩnh vực sản xuất”. Định nghĩa này muốn khẳng định giá trị của hàng hoá chỉ 
có thể thực hiện được thông qua hoạt động trao đổi, hoạt động trao đổi này 
được diễn ra trong quá trình lưu thông – một trong những khâu của quá trình 
tái sản xuất. 
 Trong Marketing, khái niệm về thị trường cũng dựa trên nền tảng là sự 
trao đổi. Theo Philip Kotler: “Thị trường là tập hợp tất cả những người mua 
thực sự và những người mua tiềm tàng đối với một sản phẩm”. 
 Song đối với các doanh nghiệp, tốt nhất nên hiểu thị trường là nơi có nhu 
cầu cần được đáp ứng. 
2. Chức năng của thị trƣờng 
 Thị trường có 4 chức năng cơ bản: 
  Chức năng thừa nhận 
 Việc tiêu thụ hàng hoá của một doanh nghiệp được thực hiện thông qua 
chức năng thừa nhận của thị trường. Thị trường thừa nhận chính là sự chấp 
nhận của người mua đối với hàng hoá, dịch vụ. 
 4 
 Mỗi thị trường có sự thừa nhận rất khác nhau về số lượng, chất lượng, 
giá cả, công dụng, kiểu cách mẫu mã... đối với sản phẩm của doanh nghiệp. 
Ngoài ra, thị trường còn thừa nhận hành vi trao đổi mua bán giữa các đối tác 
trên thị trường. 
  Chức năng thực hiện 
 Thị trường thực hiện hành vi trao đổi hàng hoá; thực hiện hoạt động cung 
cầu, cân bằng cung - cầu của mỗi loại hàng hoá; thực hiện giá trị của hàng hoá 
thông qua giá cả... Thông qua chức năng này của thị trường, giá trị trao đổi 
của các loại hàng hoá được hình thành. 
  Chức năng điều tiết kích thích 
 Chức năng này được thể hiện như sau: 
 - Thông qua nhu cầu về các loại hàng hoá, dịch vụ, thị trường sẽ hướng 
dẫn doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. Mỗi nhà sản xuất, kinh doanh phải 
dựa vào thị trường để chủ động di chuyển các nguồn lực từ ngành này sang 
ngành khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác hay từ khu vực này sang khu 
vực khác để đạt được mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Hơn nữa, 
trên thị trường có rất nhiều sản phẩm cùng loại, muốn tồn tại trên thị trường 
các doanh nghiệp buộc phải liên tục đổi mới nhằm tạo ra những sản phẩm 
mới, sản phẩm có chất lượng cao hơn và giá thành thấp để được người tiêu 
dùng chấp nhận. Do vậy, thị trường kích thích các doanh nghiệp tiết kiệm chi 
phí, phát huy sáng kiến, cải tiến quản lý và trình độ công nghệ để tạo ra 
những sản phẩm và dịch vụ có sức cạnh tranh ngày càng cao. 
 - Thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế, thị trường hướng dẫn 
tiêu dùng. Trên thị trường có rất nhiều sản phẩm cùng loại, thị trường sẽ cung 
cấp cho người tiêu dùng những thông tin về các sản phẩm để họ có thể quyết 
định lựa chọn sản phẩm nào. 
  Chức năng thông tin 
 5 
 Thị trường thông tin cho doanh nghiệp về tổng cung và tổng cầu, cân 
bằng cung - cầu đối với từng loại hàng hoá; thông tin về giá cả hàng hoá; các 
yếu tố ảnh hưởng đến thị trường; chất lượng hàng hoá; xu hướng vận động 
của hàng hoá... 
 Thông tin từ thị trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với những nhà 
quản lý kinh tế và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để đưa 
ra một quyết định điều tiết nền kinh tế, hay chiến lược sản xuất, kinh doanh 
đúng đắn thì doanh nghiệp cần phải có thông tin đầy đủ và chính xác. Mà 
thông tin quan trọng nhất chính là thông tin từ thị trường vì đó là những thông 
tin khách quan, phản ánh chân thực những biến động không chỉ của thị trường 
mà còn của cả nền kinh tế. 
 Trên đây là bốn chức năng của thị trường. Bốn chức năng này có mối 
quan hệ mật thiết với nhau, mỗi hiện tượng kinh tế trên thị trường đều thể 
hiện bốn chức năng này. 
3. Mối quan hệ giữa thị trƣờng và doanh nghiệp 
 Thị trường chính là nơi quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp nên 
doanh nghiệp luôn luôn phải gắn bó với thị trường. Mối quan hệ giữa doanh 
nghiệp với thị trường thực chất là mối quan hệ giữa doanh nghiệp với những 
người tiêu dùng trên thị trường, được thể hiện thông qua các quá trình trao đổi. 
Các quá trình trao đổi đó được đơn giản hoá bằng hai chu trình. 
 Chu trình thứ nhất, thị trường và doanh nghiệp trao đổi thông tin với 
nhau. Thị trường cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cần thiết cho 
hoạt động của doanh nghiệp. Trước hết là những thông tin về nhu cầu của thị 
trường: thị trường cần cái gì? cái đó như thế nào? số lượng là bao nhiêu?... 
Doanh nghiệp cung cấp cho thị trường thông tin về các sản phẩm, dịch vụ mà 
thị trường sẽ được đáp ứng, những lợi ích mà người tiêu dùng sẽ nhận được 
khi sử dụng hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp, hoặc người tiêu dùng có thể 
tìm kiếm các hàng hoá dịch vụ ấy ở đâu?... 
 6 
 Chu trình thứ hai, doanh nghiệp và thị trường trao đổi với nhau về kinh 
tế. Doanh nghiệp cung cấp cho thị trường những hàng hoá, dịch vụ mà thị 
trường cần, đồng thời doanh nghiệp nhận được từ thị trường số tiền tương ứng 
với giá trị những hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đã cung cấp. 
4. Vai trò của thị trƣờng nƣớc ngoài đối với hoạt động sản xuất kinh 
doanh của doanh nghiệp 
 Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn mong muốn 
ngày càng mở rộng thị trường. Nhưng nếu doanh nghiệp chỉ kinh doanh ở thị 
trường nội địa với lượng người tiêu dùng hữu hạn và ngày càng xuất hiện 
nhiều đối thủ cạnh tranh thì mong muốn đó khó có thể đạt được, thậm chí thị 
phần còn có nguy cơ bị thu hẹp. Để khắc phục tình trạng này, doanh nghiệp 
có thể di chuyển nguồn lực sang lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác hay cũng 
có thể đầu tư nghiên cứu, cải tiến sản phẩm để tạo ra những sản phẩm mới, 
hoặc những sản phẩm có tính năng vượt trội. Song những việc làm này 
thường là rất khó, tốn kém và không phải bao giờ cũng có thể thực hiện được. 
Vì vậy, tìm kiếm và phát triển ra thị trường nước ngoài là một giải pháp hữu 
ích đối với doanh nghiệp trong giai đoạn toàn cầu hoá. Thị trường nước ngoài 
với đặc điểm vô cùng rộng lớn, đa dạng nhu cầu sẽ mở ra cho doanh nghiệp 
những cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp. 
 Gia nhập thị trường thế giới có tác động tích cực tới sự phát triển của 
doanh nghiệp trên nhiều mặt: 
 - Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: Tham gia thị 
trường quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải lấy nhu cầu của thị 
trường thế giới làm cơ sở để sản xuất. Quá trình sản xuất hướng về xuất khẩu, 
hướng ra thị trường nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp phải đặt mình trong 
mối quan hệ cạnh tranh với các doanh nghiệp quốc tế, từ đó buộc doanh 
 7 
nghiệp phải thường xuyên đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật, nâng cao 
năng suất lao động để tạo những sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và 
có giá thành rẻ. Điều này rất có lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp, 
buộc doanh nghiệp phải tự hoàn thiện để nâng cao năng lực cạnh tranh. 
 - Tìm kiếm khách hàng mới: Thị trường nước ngoài rất rộng lớn, nhu 
cầu đa dạng vì vậy sản phẩm doanh nghiệp đang sản xuất sẽ có nhiều khả 
năng đáp ứng được nhu cầu của một nhóm khách hàng nào đó trên thị trường. 
Sản phẩm của doanh nghiệp dù đã quen thuộc với khách hàng trong nước 
nhưng với khách hàng nước ngoài, nó có thể rất mới lạ và hấp dẫn người tiêu 
dùng, từ đó tăng doanh số bán hàng và lợi nhuận cho doanh nghiệp. 
 - Cho phép doanh nghiệp kéo dài vòng đời sản phẩm: Sản phẩm của 
doanh nghiệp đang ở giai đoạn chín muồi hoặc suy tàn trên thị trường nội địa 
khi được đưa ra bán trên thị trường nước ngoài có thể bắt đầu một vòng đời 
mới, kéo dài thời gian tồn tại của nó trên thị trường, từ đó tối đa hoá doanh số 
bán cho doanh nghiệp. 
 - Cho phép doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất: Khi thị trường nước 
ngoài được mở ra sẽ cho phép doanh nghiệp sản xuất với quy mô lớn hơn, từ 
đó có được lợi thế nhờ quy mô bằng việc tận dụng được công suất của máy 
móc, nhà xưởng và khai thác được lợi thế về chi phí của đường cong kinh 
nghiệm. Do vậy, doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí trên mỗi đơn vị sản 
phẩm và nâng cao khả năng cạnh tranh. Hơn nữa, doanh nghiệp còn có thể 
tìm kiếm lợi thế vị trí bằng cách di chuyển các hoạt động sản xuất, kinh doanh 
đến những nơi chúng hoạt động hiệu quả nhất. 
 - Trải rộng thị trường để giảm bớt rủi ro trong kinh doanh: Nếu một 
doanh nghiệp chỉ kinh doanh ở một thị trường nhất định thì khi thị trường đó 
gặp phải những rủi ro như: khủng hoảng kinh tế, bất ổn chính trị, chính sách 
của nhà nước thay đổi theo hướng bất lợi cho doanh nghiệp, hay gia tăng đối 
thủ cạnh tranh... thì sẽ gây ra hậu quả rất trầm trọng cho hoạt động kinh doanh 
 8 
của doanh nghiệp. Do vậy, để giảm bớt những rủi ro do thị trường các doanh 
nghiệp nên mở rộng phạm vi kinh doanh sang thị trường nhiều nước. Mặt 
khác, khi hoạt động ở thị trường nước ngoài doanh nghiệp còn có thể tận 
dụng được những chính sách ưu đãi mà nước sở tại dành cho doanh nghiệp, 
giảm cường độ cạnh tranh... 
II. CÁC PHƢƠNG THỨC THÂM NHẬP THỊ TRƢỜNG NƢỚC NGOÀI 
 Hiện nay, có 5 phương thức chủ yếu để thâm nhập thị trường nước ngoài 
bao gồm: 
1. Xuất khẩu 
 Xuất khẩu hàng hoá là hình thức đầu tiên của quá trình thâm nhập thị 
trường quốc tế thông qua hoạt động tiêu thụ những hàng hoá được sản xuất 
trong nước ra thị trường bên ngoài. Phần lớn các công ty bắt đầu mở rộng ra 
thị trường thế giới bằng hình thức xuất khẩu rồi sau đó mới chuyển từ phương 
thức này sang các phương thức khác. 
  Ưu điểm 
 Phương thức xuất khẩu có hai ưu điểm rõ nét. Một là, tránh được chi phí 
đầu tư cho các hoạt động sản xuất ở nước sở tại, mà các chi phí này thường là 
khá lớn. Hai là, có thể thực hiện được lợi thế quy mô và lợi thế vị trí bằng 
việc sản xuất sản phẩm ở một địa điểm tập trung và sau đó xuất khẩu sang các 
thị trường khác. 
  Nhược điểm 
 Xuất khẩu cũng có một số nhược điểm. Thứ nhất, các sản phẩm xuất 
khẩu được sản xuất từ cơ sở của công ty ở chính quốc có thể không phù hợp 
với nhu cầu và điều kiện thị trường nước ngoài. Thứ hai, chi phí vận chuyển 
cao có thể làm cho việc xuất khẩu trở nên không hiệu quả, đặc biệt trong 
trường hợp hàng hóa cồng kềnh. Hơn nữa, các hàng rào thuế quan cũng có thể 
làm cho việc xuất khẩu trở nên khó khăn. Thứ ba, những rủi ro bắt nguồn từ 
 9 
nguyên nhân ít kinh nghiệm xuất khẩu, ít am hiểu thị trường của các công ty 
mới bắt đầu xuất khẩu. 
 Xuất khẩu có hai hình thức là xuất khẩu gián tiếp và xuất khẩu trực tiếp: 
  Xuất khẩu gián tiếp 
 Xuất khẩu gián tiếp là hình thức doanh nghiệp xuất khẩu ra thị trường 
nước ngoài thông qua các tổ chức độc lập trong nước. Các tổ chức độc lập đó 
là các trung tâm bán buôn trong nước, các công ty thương mại, các đại lý đặt 
trong nước, người mua thường trú, người môi giới xuất nhập khẩu, đại lý xuất 
khẩu của người sản xuất, công ty quản lý xuất khẩu... 
  Xuất khẩu trực tiếp 
 Xuất khẩu trực tiếp là hình thức doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu thẳng 
cho người mua hay người nhập khẩu ở thị trường nước ngoài. Có nhiều dạng 
xuất khẩu trực tiếp như: phòng xuất khẩu của công ty chịu trách nhiệm bán 
hàng ở thị trường nước ngoài, chi nhánh thương mại, người bán hàng lưu 
động, đại lý và nhà phân phối đặt ở nước ngoài... 
 Bảng 1.1: Những lợi thế và hạn chế của các hình thức xuất khẩu 
 Xuất khẩu gián tiếp Xuất khẩu trực tiếp 
 - Giảm chi phí cho việc bán hàng - Tiếp xúc trực tiếp với thị trường 
 Lợi thế - Mức độ rủi ro thấp - Mức độ kiểm soát sản phẩm, giá cả 
 - Tính linh hoạt cao cao 
 - Khả năng bán hàng cao hơn 
 - Khả năng chớp cơ hội thấp - Chi phí cho lực lượng bán hàng cao 
 Hạn - Khó kiểm soát việc phân phối - Mức độ rủi ro cao 
 chế - Ít liên hệ với thị trường - Bị ràng buộc vào thị trường nước 
 ngoài 
 Hiện nay, xuất khẩu gián tiếp được các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng 
phổ biến do mới tham gia vào thương mại quốc tế và khả năng mở rộng thị 
 10 
trường bằng các con đường khác còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, hình thức này 
phù hợp với nguồn lực hạn chế và kinh nghiệm xuất khẩu thấp của các doanh 
nghiệp nước ta. 
 Hình thức xuất khẩu gián tiếp thông qua các trung gian xuất khẩu còn có 
những ưu điểm khác: 
 Thứ nhất, giúp cho người xuất khẩu thâm nhập nhanh chóng vào thị 
trường nước ngoài. Chẳng hạn, doanh nghiệp có thể sử dụng công ty quản lý 
xuất khẩu có nhiều kinh nghiệm hoạt động trên thị trường nước ngoài, do đó 
giảm bớt được rủi ro gắn liền với việc bán hàng trong một môi trường xa lạ. 
 Thứ hai, người sản xuất có thể nhận được sự hỗ trợ ngay về tài chính khi 
các thoả thuận mua bán được thông qua. 
 Thứ ba, việc chuyên môn hoá hoạt động trong nước có thể làm tăng hiệu 
quả của hoạt động đó và tạo ra những cơ hội đem lại lợi nhuận lớn hơn. Khi 
khách hàng nước ngoài đã quan tâm đến một loại sản phẩm của công ty thì họ 
cũng có thể có nhu cầu mua loại sản phẩm khác do công ty sản xuất. Vì đa số 
người mua thích làm việc với số ít người cung cấp nhằm tiết kiệm chi phí 
giao dịch và các chi phí liên quan đến quá trình mua. 
2. Chuyển nhƣợng giấy phép (licence) 
 Chuyển nhượng giấy phép là việc người sản xuất ký hợp đồng với bạn 
hàng nước ngoài với nội dung trao cho họ quyền sử dụng một quy trình sản 
xuất, một nhãn hiệu, một sáng chế hay bí quyết kinh doanh có giá trị thương 
mại. Một công ty với công nghệ, bí quyết và có trình độ chất xám cao có thể 
sử dụng các thoả ước cấp giấy phép để làm tăng thêm khả năng lợi nhuận của 
mình mà không phải tiến hành bất cứ một hoạt động đầu tư nào với một chi 
phí rất hạn chế. Trên thực tế, việc cấp giấy phép thường đưa lại một khoản thu 
vô tận đối với việc đầu tư. Còn các chi phí ở đây bao gồm chi phí ký kết thoả 
ước và kiểm soát việc thực hiện chúng. 
  Ưu điểm 
 11 
 - Doanh nghiệp không chịu chi phí phát triển và chịu rủi ro thấp khi thâm 
nhập thị trường nước ngoài. Chuyển nhượng giấy phép là một sự lựa chọn hay 
cho doanh nghiệp thiếu vốn để phát triển ở nước ngoài. Thêm vào đó, chuyển 
nhượng giấy phép còn phù hợp với các doanh nghiệp không muốn bỏ nguồn 
lực vào thị trường không quen thuộc hoặc thị trường bất ổn về chính trị. 
Ngoài ra, nó còn được sử dụng khi một doanh nghiệp mong muốn tham gia 
vào thị trường nước ngoài nhưng bị cấm vì chính sách hạn chế đầu tư của 
nước sở tại, hạn ngạch nhập khẩu hoặc đánh thuế nhập khẩu cao... 
 - Chuyển nhượng giấy phép cũng có thể đẩy mạnh việc phổ biến các sản 
phẩm và công nghệ mới. Ví dụ, khi hãng máy tính Apple đưa ra phần mềm kỹ 
thuật số trợ giúp cá nhân Newton vào mùa thu năm 1993, công ty đã cấp giấy 
phép sản xuất sản phẩm này cho hãng Sharp, Matsushita và một số công ty 
khác. Các nhà quản lý của Apple tin tưởng rằng những hãng này sẽ tạo ra các 
sản phẩm có liên quan và do vậy có thể thúc đẩy sự tiêu thụ của Newton. 
  Nhược điểm 
 - Việc chuyển nhượng giấy phép khiến cho công ty cấp giấy phép phải 
tiết lộ bí quyết công nghệ của mình cho bên nhận giấy phép do đó công ty sẽ 
có nguy cơ mất quyền kiểm soát đối với công nghệ. Ví dụ, công ty RCA cấp 
giấy phép cho một số công ty Nhật Bản bao gồm cả Sony, Natsushita... về sản 
xuất TV màu. Sau đó, các công ty Nhật đã nhanh chóng tiếp thu công nghệ, 
cải tiến và sử dụng nó để xuất khẩu trở lại thị trường Mỹ. 
 - Phương thức này không tạo ra cho công ty một sự g