Khóa luận Tổ chức xã hội và vai trò của tổ chức xã hội trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật

Tuyên truyền pháp luật, nâng cao hiểu biết, ý thức pháp luật cho nhân dân, từng bước xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật là một trong những đòi hỏi cấp thiết của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, là tiền đề quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang từng bước hội nhập với thế giới về mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội Đối với các TCXH, tuyên truyền pháp luật là một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động của các tổ chức này. Là những tổ chức được hình thành trên cơ sở tự nguyện, thu hút đông đảo nhân dân tham gia nên TCXH có điều kiện thuận lợi để thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho hội viên và quần chúng nhân dân, góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật cho các đối tượng này. Trong thời gian qua, với các quy định về hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH, hoạt động này đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên bên cạnh đó còn những hạn chế cần khắc phục để phát huy hơn nữa vai trò của TCXH trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật. Để tìm hiểu về TCXH và vai trò của TCXH trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật, tác giả đã chọn đề tài này để nghiên cứu làm khóa luận.

doc62 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2957 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tổ chức xã hội và vai trò của tổ chức xã hội trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẢNG TỪ VIẾT TẮT Đảng CSVN: Đảng cộng sản Việt Nam Đoàn TNCSHCM: Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Hội CCB : Hội Cựu Chiến Binh. Hội LHPNVN: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Hội NDVN: Hội Nông dân Việt Nam. MTTQVN: Mặt trận tổ quốc Việt Nam. TCXH: Tổ chức xã hội. . PHẦN MỞ ĐẦU Lí do chọn đề tài. Tuyên truyền pháp luật, nâng cao hiểu biết, ý thức pháp luật cho nhân dân, từng bước xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật là một trong những đòi hỏi cấp thiết của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, là tiền đề quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang từng bước hội nhập với thế giới về mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội…Đối với các TCXH, tuyên truyền pháp luật là một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động của các tổ chức này. Là những tổ chức được hình thành trên cơ sở tự nguyện, thu hút đông đảo nhân dân tham gia nên TCXH có điều kiện thuận lợi để thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho hội viên và quần chúng nhân dân, góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật cho các đối tượng này. Trong thời gian qua, với các quy định về hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH, hoạt động này đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên bên cạnh đó còn những hạn chế cần khắc phục để phát huy hơn nữa vai trò của TCXH trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật. Để tìm hiểu về TCXH và vai trò của TCXH trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật, tác giả đã chọn đề tài này để nghiên cứu làm khóa luận. Mục đích nghiên cứu. Tìm hiểu các quy định về hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH trong các văn bản có liên quan. Tìm hiểu thực trạng hoạt động tuyên truyền pháp luật của các TCXH trên địa bàn một số địa phương, qua đó rút ra những kinh nghiệm trong thực hiện hoạt động này. Đối tượng nghiên cứu. Các quy phạm pháp luật về quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của TCXH trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật trong các văn bản pháp luật có liên quan. Kết quả đạt được từ việc áp dụng các quy định về tuyên truyền pháp luật của TCXH trên thực tế. Phạm vi nghiên cứu. Các quy định pháp luật về hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH trong các văn bản Luật như Luật Mặt trận tổ quốc, Luật Công đoàn…,và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan Các văn bản pháp luật về các chương trình tuyên truyền pháp luật có sự tham gia của TCXH. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Khóa luận tập trung nghiên cứu các vấn đề chung về TCXH và những quy định hiện hành về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của TCXH trong hoạt động tuyên truyền pháp luật được quy định tại Luật Mặt trận tổ quốc, Luật Công đoàn và các văn bản khác có liên quan đến chương trình tuyên truyền pháp luật có sự tham gia của các TCXH. Khóa luận đã đi sâu vào nghiên cứu vai trò của mỗi TCXH trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật tại các địa bàn trên phạm vi cả nước, qua đó rút ra những biện pháp, hình thức tuyên truyền pháp luật có hiệu quả của mỗi loại hình TCXH. Đây là đề tài nghiên cứu mới không chỉ giúp cho việc hiểu thêm về thực trạng hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH mà tác giả còn mong đóng góp công sức trong việc nâng cao hơn nữa vai trò của TCXH trong lĩnh vực tuyên tuyền pháp luật bằng việc chỉ ra những hạn chế trong hoạt động này và đưa ra những giải pháp để khắc phục. Cấu trúc của khóa luận. Khóa luận được chia thành 3 phần lớn: Chương I: Một số vấn đề chung về TCXH. Chương II: Thực trạng quy định pháp luật về hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH và hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH. Chương III: Những giải pháp nâng cao vai trò của TCXH trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật trong giai đoạn hiện nay. CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TCXH 1.1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA TCXH. 1.1.1 Khái niệm Hiện nay vẫn tồn tại một số quan niệm khác nhau về TCXH. Cụ thể : Theo quan niệm của Khoa Luật, Đại Học Quốc Gia Hà Nội thì: “TCXH là bộ phận của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện và hoạt động theo nguyên tắc tự quản của những thành viên tham gia nhằm đáp ứng những lợi ích đa dạng của họ, thu hút đông đảo quần chúng vào quản lý các công việc của nhà nước và xã hội, nâng cao tính tích cực chính trị của cá nhân công dân”. Trường Đại Học Luật Hà Nội cũng đưa ra quan niệm như sau: “TCXH là hình thức tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam có chung mục đích, hoạt động theo pháp luật và theo điều lệ, không vì mục đích lợi nhuận nhằm đáp ứng lợi ích chính đáng của các thành viên và tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội” Theo Nghị Định 88/2003/NĐ-CP ngày 30/07/2003, TCXH được gọi là Hội và được hiểu như sau: “Hội được quy định trong Nghị Định này được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần và việc pháp triển kinh tế, xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan”. Trên đây là những quan niệm hiện nay về TCXH ở nước ta hiện nay, qua đó có thể thấy rằng TCXH được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Quan điểm thứ nhất khẳng định: Các TCXH là bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị ở nước ta, được hình thành trên cơ sở tự nguyện, hoạt động theo nguyên tắc tự quản nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng về lợi ích của các thành viên, nâng cao tính tích cực chính trị của cá nhân công dân. Quan niệm thứ hai cho rằng TCXH là những tổ chức được hình thành trên cơ sở tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam, là tập hợp của những người có chung đặc điểm nhất định, hoạt động theo pháp luật và theo điều lệ, không nhằm mục đích lợi nhuận, nhằm đáp ứng lợi ích chính đáng của các thành viên và tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Như vậy quan niệm thứ nhất và thứ hai đều khẳng định các TCXH được hình thành trên cơ sở tự nguyện của các thành viên tham gia, hoạt động theo nguyên tắc tự quản theo quy định của pháp luật và theo điều lệ, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận mà nhằm bảo vệ quyền lợi của các thành viên và thu hút nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Tuy nhiên hai quan niệm này cũng có sự khác biệt nhất định: Quan niệm thứ nhất khẳng định TCXH là bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam, còn quan niệm thứ hai lại không nhìn nhận TCXH theo góc độ này mà đưa ra quan niệm về TCXH dựa trên các đặc điểm chung của TCXH. Một điểm khác biệt nữa trong hai quan niệm trên là quan niệm thứ nhất đưa ra mục đích hoạt động của TCXH nhằm đáp ứng những lợi ích đa dạng của các thành viên; còn theo quan niệm thứ hai thì không phải mọi lợi ích đều được bảo vệ mà chỉ những lợi ích chính đáng của các thành viên mới được đáp ứng. Đối với quan niệm thứ nhất, nếu xem xét từ góc độ TCXH là thành viên của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì cũng phải nhận thấy rằng không phải tất cả các TCXH đều là thành viên của hệ thống chính trị, trên thực tế chỉ có các tổ chức sau: Đảng cộng sản Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam mới là thành viên của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt khác cũng phải thấy rằng tuy TCXH hình thành chủ yếu nhằm đáp ứng cho lợi ích của các thành viên trong tổ chức, nhưng không phải bất cứ lợi ích nào cũng được đáp ứng mà chỉ những lợi ích “chính đáng, hợp pháp” không xâm hại đến lợi ích chung của nhà nước, của cộng đồng mới được đáp ứng. Do vậy quan niệm thứ nhất này không thể áp dụng chung cho tất cả các TCXH, không thể dùng làm khái niệm chung về TCXH. TCXH được xác định trong Nghị Định 88/2003/NĐ-CP ngày 30/07/2003 phải thỏa mãn các tiêu chí sau: Là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, cùng chung mục đích. Hoạt động thường xuyên không vì lợi nhuận mà nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên Hoạt động nhằm pháp triển kinh tế - xã hội đất nước. Một TCXH nào đó đáp ứng các tiêu chí trên mới là TCXH theo phạm vi điều chỉnh của Nghị định này. Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 thì Nghị định này không áp dụng với: “ a; Mặt Trận tổ Quốc Việt Nam, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam, Hội Cựu Chiến Binh, Hội Nông Dân Việt Nam. b; Các tổ chức giáo hội…” Trong khi đó khoản 2 điều 4 Nghị Định này lại quy định “Hội được công nhận là tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp”. NHư vậy quy định về TCXH tại khoản 2 điều 1 và khoản 2 điều 4 mâu thuẫn với nhau, bởi vì thực chất các tổ chức được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 1 là tổ chức chính trị - xã hội như quy định tại khoản 2 Điều 4, là một bộ phận cấu thành của hệ thống TCXH ở nước ta, vậy nhưng các TCXH này lại không được coi là TCXH theo quy định của Nghị định này. Hơn nữa, khoản 4 điều 2 quy định Hội được công nhận là tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tuy nhiên đó là những tổ chức nào thì Nghị định lại không đưa ra cách hiểu cụ thể sau khi đã gạt các tổ chức MTTQ, Hội LHPNVN, Hội CCBVN, Đoàn TNCSHCM, Hội NDVN ra ngoài phạm vi điều chỉnh của Nghi định, điều này cũng có nghĩa là theo quan niệm của Nghị định 88/2003 thì các tổ chức trên không phải là tổ chức chính trị - xã hội. Đây là điểm bất cập của Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 30/07/2003, nó làm cho quan niệm về TCXH quy định tại Nghị định này có nội hàm hẹp, trong khi đó trên thực tế các TCXH có nội hàm rộng và được phân loại thành tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, và các tổ chức khác…với sự góp mặt của MTTQ và các tổ chức thành viên dưới tên gọi chung là các tổ chức chính trị - xã hội. Các tổ chức này đều có những đặc điểm chung của TCXH như được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện, hoạt động tự quản vì lợi ích hợp pháp của các thành viên, không nhằm mục đích lợi nhuận, hoạt động nhằm pháp triển kinh tế xã hội của đất nước. Như vậy, quan niệm về TCXH theo quy định tại Nghị định 88/2003/NĐ-CP không dành cho các tổ chức chính trị - xã hội hay các tổ chức giáo hội, mà chỉ được dùng để chỉ một bộ phận trong hệ thống các TCXH ở nước ta. Do đó quy định này có phạm vi hẹp và không thể áp dụng chung cho các TCXH. Khắc phục nhược điểm đã nêu trên của Nghị Định 88/2003, dự thảo Luật về Hội lần thứ 11 đưa ra khái niệm hội như sau: “ Hội là tổ chức tự nguyện bao gồm những người có cùng nhu cầu, mục đích, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội, hội viên và cộng đồng, góp phần phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hội bao gồm hội có tư cách pháp nhân và hội không có tư cách pháp nhân…” So với Nghị định 88/2003 thì đối tượng áp dụng của Dự thảo Luật về Hội đã được mở rộng, dự thảo cũng đưa ra các dấu hiệu để nhận diện một tổ chức có phải là TCXH hay không, tuy nhiên với khái niệm này, một đặc điểm quan trọng của TCXH đó là “hoạt động theo nguyên tắc tự quản” lại không được đề cập đến. Đây là những điểm bất cập cần được quy định cụ thể. Giáo trình Luật Hành Chính của trường Đại Học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm về TCXH, tuy không mới nhưng khá ngắn gọn, trình bày một cách đầy đủ, bao quát về TCXH, giúp ta dễ dàng hình dung về TCXH với những đặc điểm của tổ chức này. 1.1.2 Đặc điểm của TCXH Mỗi TCXH đều có những hoạt động đặc thù phản ánh vị trí, vai trò của mình trong hệ thống chính trị. Mặt khác các TCXH lại có những đặc điểm chung nhất định phân biệt với các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế. Trên cơ sở khái niệm đã nêu, ta có thể thấy rõ những đặc điểm chung nhất của TCXH, bao gồm: Thứ nhất: Các TCXH được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện của các thành viên cùng chung một lợi ích hay cùng giai cấp, cùng nghề nghiệp, cùng sở thích. Đây là dấu hiệu đặc trưng thể hiện quyền tự do của công dân trong việc tham gia hoặc không tham gia một TCXH nhất định. Bất kì TCXH nào được lập ra đều xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của mỗi cá nhân, không ai có quyền ép buộc người khác phải tham gia hoặc không được tham gia vào các TCXH. Ở nước ta các TCXH chủ yếu là do nhân dân thành lập trên cơ sở tự nguyện của các thành viên có chung một đặc điểm nào đó, ví dụ: Đảng cộng sản Việt nam là tập hợp những người cùng chung mục đích, lý tưởng chính trị. Những ai có chung chí hướng, mục tiêu, lý tưởng, mong muốn được đứng trong hàng ngũ của Đảng và đáp ứng các yêu cầu khác thì có thể trở thành Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, không phân biệt thành phần xuất thân, giới tính. Yếu tố tự nguyện còn thể hiện trong việc kết nạp hay khai trừ các thành viên của TCXH hoàn toàn do TCXH và các thành viên quyết định. Mặc dù một số TCXH do nhà nước sáng kiến thành lập ví dụ Đoàn Luật Sư.. nhưng nhà nước không can thiệp và cũng không sử dụng quyền lực nhà nước để chi phối việc gia nhập, kết nạp thành viên hay lựa chọn những người đứng đầu tổ chức, mà vấn đề này do điều lệ quy định phù hợp với tôn chỉ, mục đích hoạt động và dấu hiệu tập hợp thành viên của chính TCXH đó. Mỗi TCXH là tập hợp của những thành viên có cùng chung dấu hiệu, đặc điểm, đó có thể là cùng chung giai cấp như Hội Nông Dân, cùng giới tính như Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam…hay cùng chung mục đích, lý tưởng như Đảng Cộng Sản Việt Nam. Với những điểm chung đó, họ liên kết nhau lại, tìm tiếng nói chung trong một hình thức TCXH nhất định nhằm đáp ứng và bảo vệ những lợi ích chính đáng của họ. Thứ hai: Các TCXH nhân danh chính mình tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Chỉ trong trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định, TCXH mới hoạt động nhân danh nhà nước. Xuất phát điểm của nguyên tắc này là bởi các TCXH được thành lập và hoạt động với mục đích chủ yếu là bảo vệ lợi ích của tổ chức và các thành viên chứ không phải hoạt động với mục đích thực hiện công vụ, vì lợi ích của nhà nước và xã hội, hơn nữa là do địa vị của TCXH chỉ là các tổ chức hình thành trên cơ sở tự nguyện của những người tham gia mà không phải là bộ phận trong cơ cấu của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là đặc điểm phân biệt giữa TCXH và cơ quan nhà nước, khác với TCXH chỉ nhân danh chính mình, trong trường hợp đặc biệt mới được nhân danh nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước thì cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình do pháp luật quy định luôn nhân danh nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước. Nhà nước thừa nhận và bảo hộ sự tồn tại của các TCXH bằng việc cho phép TCXH được thành lập và hoạt động, quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các tổ chức đó. Do vậy khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý này TCXH luôn nhân danh chính tổ chức mình. Chỉ trong một số trường hợp nhất định được nhà nước trao quyền, cho phép thì TCXH mới được nhân danh nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước. Ví dụ: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam phối hợp với Bộ lao động -Thương binh và Xã hội ban hành văn bản liên tịch Trong trường hợp này, quyết định của TCXH có thể có hiệu lực đối với thành viên bên ngoài tổ chức. Thứ ba : Các TCXH hoạt động tự quản theo quy định của pháp luật và điều lệ do các thành viên trong tổ chức xây dựng. Mô hình tổ chức tự quản được hiểu là các thành viên của TCXH tự quyết định cách thức quản lý của tổ chức mà mình tham gia thông qua điều lệ của tổ chức mà không cần có sự can thiệp từ bên ngoài. Nói cách khác là các thành viên của TCXH tự quyết định những nội dung quản lý của tổ chức mình như: việc kết nạp thành viên, bầu ban lãnh đạo, tôn chỉ mục đích hoạt động của tổ chức. Dù TCXH hoạt động theo điều lệ hay theo quy định của nhà nước thì hoạt động của nó vẫn mang tính tự quản, nhà nước không trực tiếp can thiệp vào công việc nội bộ của TCXH. Phần lớn các TCXH đều có điều lệ hoạt động, đó là những quy định do các thành viên trong tổ chức xây dựng và ban hành làm cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của mỗi TCXH, điều lệ này được xây dựng thông qua đại hội đại biểu hoặc đại hội toàn thể các thành viên, và phải được cơ quan nhà nước phê chuẩn. Điều lệ của TCXH không phải là văn bản pháp luật, các quy định trong điều lệ không mang tính pháp lý do đó chúng chỉ điều chỉnh các quan hệ trong nội bộ TCXH và chỉ có hiệu lực đối với các thành viên trong tổ chức. Để quản lý các TCXH, nhà nước ban hành quy chế pháp lý hành chính của TCXH, trong quá trình hoạt động các tổ chức này sẽ tự xử lý các công việc nội bộ của mình, nhà nước chỉ can thiệp nếu hoạt động của TCXH trái với các quy định của pháp luật. Thứ tư : TCXH hoạt động không nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên. Đây là đặc điểm rõ nét nhất để phân biệt TCXH với các tổ chức kinh tế như Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hay các Hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ…Trong khi các tổ chức kinh tế luôn coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu, quyết định sự tồn tại và hoạt động thì TCXH thường hướng tới các mục tiêu khác, không mang tính lợi nhuận như tương trợ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên; hoạt động vì cộng đồng , vì xã hội trong các lĩnh vực như y tế, giáo dục, môi trường. Thành viên của TCXH không tham gia vào tổ chức với ý định tìm kiếm lợi nhuận mà hướng tới đáp ứng những nhu cầu của cá nhân, xã hội do họ lựa chọn. Tuy vậy cũng phải hiểu một cách đầy đủ rằng TCXH hoạt động không nhằm mục đích lợi nhuận nhưng vẫn có thể có các hoạt động có lợi nhuận. Các TCXH có thể làm kinh tế từ các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch hoặc kinh doanh gây quỹ nhưng lợi nhuận thu được sẽ được sử dụng cho hoạt động của TCXH theo điều lệ mà không chia cho bất cứ cá nhân nào trong tổ chức. Trong quá trình hoạt động, một số hội viên đảm nhận những nhiệm vụ chuyên trách có thể được trả tiền công nhưng đó không phải là sự phân chia lợi nhuận, và các hoạt động trên không được coi là mục đích hoạt động chính của TCXH. Qua những phân tích trên, có thể thấy rằng mỗi TCXH dù có vị trí, vai trò khác nhau đối với nhà nước và xã hội nhưng đều có những điểm chung nhất định đó là: được hình thành trên cơ sở ý chí tự nguyện của các thành viên có chung mục đích, giai cấp, nghề nghiệp; trong hoạt động các TCXH luôn nhân danh chính tổ chức mình, chỉ trong trường hợp được nhà nước trao quyền, cho phép thì mới được nhân danh nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước; TCXH hoạt động tự quản theo quy định của pháp luật và theo điều lệ do các thành viên xây dựng; các TCXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên. Đây cũng là những dấu hiệu để nhận biết tổ chức nào là TCXH. 1.2 PHÂN LOẠI TCXH. Hiện nay ở nước ta có nhiều TCXH thành lập và hoạt động với những mục đích, tôn chỉ hoạt động khác nhau, do vậy việc phân loại các TCXH là rất cần thiết để có các quy định phù hợp với từng loại TCXH. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có văn bản pháp luật nào quy định các tiêu chí cho việc phân loại các TCXH. Do vậy, mỗi người có thể đưa ra cách phân loại khác nhau tùy theo tiêu chí mà họ lựa chọn như: căn cứ vào phạm vi hoạt động, mục đích của TCXH, độ tuổi … thông thường chúng ta có thể phân loại chúng dựa vào vị trí, vai trò của TCXH đối với nhà nước và xã hội. Với tiêu chí này, TCXH được phân loại như sau: Tổ chức chính trị: là tổ chức mà thành viên gồm những người cùng hoạt động với nhau vì một khuynh hướng chính trị nhất định, theo đuổi mục tiêu chính trị, có cương lĩnh, đường lối và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị. Tổ chức chính trị tập trung những người tiên phong nhất đại diện cho một giai cấp hay một lực lượng xã hội nhất định thực hiện những hoạt động có liên quan đến mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và tầng lớp xã hội. Ở nước ta hiện nay chỉ có một tổ chức chính trị là Đảng cộng sản Việt Nam được Hiến pháp 1992 quy định là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội (Điều 4). Tổ chức chính trị - xã hội: Đây là những tổ chức quần chúng rộng rãi có cơ cấu tổ chức hoàn thiện được chia thành nhiều cấp để hoạt động trong phạm vi cả nước bao gồm những cơ quan, tổ chức, hình thành từ trung ương đến địa phương