Kể từ khi chúng ta thực hiện mở cửa nền kinh tế đến nay, Việt Nam đã
đạt đƣợc những thành tựu to lớn mang tính chất bƣớc ngoặt. Trong xu thế
toàn cầu hóa hiện nay, bất cứ một quốc gia nào đứng riêng lẻ cũng không thể
tồn tại đƣợc. Chính từ nhận định này mà Đảng và nƣớc ta đang hết sức nỗ lực 
xây dựng nền kinh tế Việt Nam trở thành nền kinh tế mở, hội nhập với các 
nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ
chức kinh tế khu vực, đã tham gia ký kết nhiều hiệp định hợp tác phát triể n 
kinh tế song phƣơng và đa phƣơng. Trong quá trình hội nhập, thành tích lớn 
nhất mà Việt Nam đạt đƣợc là việc trở thành thành viên của WTO vào ngà y 
07/11/2006 vừa qua.
Trong quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại, tranh chấp là điều khó tránh 
khỏi. Có thể dễ dàng giải thích điều này do các bên có sự khác biệt nhau về
ngôn ngữ, văn hóa, tập quán, trình độ, quyền và lợi ích; đó là còn chƣa nói 
đến những gian lận trong quan hệ hợp tác. Giải quyết những tranh chấp nà y 
một cách thỏa đáng là điều mong mỏi của các bên tham gia. Tuy nhiên, đạt 
đƣợc sự thông cảm và hiểu biết lẫn nhau giữa hai bên không phải là đơn giản. 
Việc giải quyết tranh chấp có thể đƣợc tiến hành thông qua thƣơng lƣợng, hòa 
giải, trung gian, trọng tài, hay tòa án nhƣng cách giải quyết tranh chấp thông 
qua trọng tài vẫn đƣợc ƣa thích nhất bởi nó có nhiều ƣu việt so với các 
phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác.
Tuy nhiên doanh nghiệp Việt Nam vẫn chƣa hiểu biết tƣờng tận về
cách giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài, thậm chí có ngƣời không biết 
đến cơ chế giải quyết tranh chấp này. Khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa 
quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam không chú ý đến điều khoản về giải 
quyết tranh chấp nói chung và giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nói riêng, 
do đó, khi tranh chấp xảy ra thƣờng rơi vào thế bất lợi. Chính vì vậy tôi chọn 
đề tài này nhằ m làm rõ phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, là
một trong những phƣơng thức giải quyết tranh chấp đƣợc ƣa chuộng trong 
kinh doanh quốc tế hiện nay.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 87 trang
87 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2329 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Trọng tài – phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế giữa các doanh nghiệp thực trạng và giải pháp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG 
 KHOA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI 
 CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI 
 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP 
Tên đề tài: 
 TRỌNG TÀI – PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP 
 TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP 
 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Ở VIỆT NAM 
 Họ và tên sinh viên : HÀ THỊ HOÀN 
 Lớp : TRUNG 2 
 Khoá : K41F – KTĐN 
 Số điện thoại : 0983 606 849 
 Giáo viên hướng dẫn : GS., TS. NGUYỄN THỊ MƠ 
 HÀ NỘI, 11/ 2006 
 LỜI MỞ ĐẦU 
 1. Tính cấp thiết của đề tài 
 Kể từ khi chúng ta thực hiện mở cửa nền kinh tế đến nay, Việt Nam đã 
đạt đƣợc những thành tựu to lớn mang tính chất bƣớc ngoặt. Trong xu thế 
toàn cầu hóa hiện nay, bất cứ một quốc gia nào đứng riêng lẻ cũng không thể 
tồn tại đƣợc. Chính từ nhận định này mà Đảng và nƣớc ta đang hết sức nỗ lực 
xây dựng nền kinh tế Việt Nam trở thành nền kinh tế mở, hội nhập với các 
nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ 
chức kinh tế khu vực, đã tham gia ký kết nhiều hiệp định hợp tác phát triển 
kinh tế song phƣơng và đa phƣơng. Trong quá trình hội nhập, thành tích lớn 
nhất mà Việt Nam đạt đƣợc là việc trở thành thành viên của WTO vào ngày 
07/11/2006 vừa qua. 
 Trong quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại, tranh chấp là điều khó tránh 
khỏi. Có thể dễ dàng giải thích điều này do các bên có sự khác biệt nhau về 
ngôn ngữ, văn hóa, tập quán, trình độ, quyền và lợi ích; đó là còn chƣa nói 
đến những gian lận trong quan hệ hợp tác. Giải quyết những tranh chấp này 
một cách thỏa đáng là điều mong mỏi của các bên tham gia. Tuy nhiên, đạt 
đƣợc sự thông cảm và hiểu biết lẫn nhau giữa hai bên không phải là đơn giản. 
Việc giải quyết tranh chấp có thể đƣợc tiến hành thông qua thƣơng lƣợng, hòa 
giải, trung gian, trọng tài, hay tòa án nhƣng cách giải quyết tranh chấp thông 
qua trọng tài vẫn đƣợc ƣa thích nhất bởi nó có nhiều ƣu việt so với các 
phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác. 
 Tuy nhiên doanh nghiệp Việt Nam vẫn chƣa hiểu biết tƣờng tận về 
cách giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài, thậm chí có ngƣời không biết 
đến cơ chế giải quyết tranh chấp này. Khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa 
quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam không chú ý đến điều khoản về giải 
quyết tranh chấp nói chung và giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nói riêng, 
do đó, khi tranh chấp xảy ra thƣờng rơi vào thế bất lợi. Chính vì vậy tôi chọn 
đề tài này nhằm làm rõ phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, là 
một trong những phƣơng thức giải quyết tranh chấp đƣợc ƣa chuộng trong 
kinh doanh quốc tế hiện nay. 
 2. Mục đích nghiên cứu 
 Trên cơ sở làm rõ các phƣơng thức giải quyết tranh chấp chủ yếu trong 
kinh doanh quốc tế hiện nay, đề tài chú trọng phân tích phƣơng thức giải 
quyết tranh chấp bằng trọng tài với ý nghĩa là một phƣơng thức đƣợc ƣa 
chuộng trong việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế, từ đó đề 
xuất các kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của phƣơng thức giải quyết tranh 
chấp bằng trọng tài trong kinh doanh quốc tế đối với các doanh nghiệp Việt 
Nam trong giai đoạn sắp tới. 
 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 
 Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là các quy định về giải quyết tranh 
chấp giữa các thƣơng nhân trong kinh doanh quốc tế thông qua các phƣơng 
thức, trong đó có phƣơng thức trọng tài. 
 Phạm vi nghiên cứu của khóa luận giới hạn chỉ ở việc giải quyết các 
tranh chấp phát sinh trong kinh doanh quốc tế giữa các thƣơng nhân với nhau, 
không nghiên cứu việc giải quyết tranh chấp giữa các nhà nƣớc. Thực tiễn 
giải quyết tranh chấp ở Việt Nam bằng trọng tài chủ yếu là xem xét thực tiễn 
giải quyết tranh chấp của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh 
Phòng thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam. 
 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 
 Phƣơng pháp nghiên cứu của khóa luận chủ yếu là phƣơng pháp tổng 
hợp, phân tích, diễn giải, quy nạp, thống kê, so sánh, kết hợp nghiên cứu tài 
liệu với tình hình thực tế ở mức độ cho phép. 
 5. Bố cục của khoá luận 
 Ngoài phần mở đầu, kết thúc, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận 
gồm 3 chƣơng: 
 Chƣơng 1: Tổng quan về trọng tài và giải quyết tranh chấp trong 
kinh doanh quốc tế bằng trọng tài 
 Chƣơng 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp trong kinh doanh 
quốc tế bằng trọng tài ở Việt Nam 
 Chƣơng 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lƣợng giải quyết 
tranh chấp trong kinh doanh quốc tế bằng trọng tài trong thời gian tới 
 Tôi xin chân thành cảm ơn các thày cô giáo Khoa Kinh tế ngoại thƣơng 
đã tận tình chỉ bảo tôi trong suốt quá trình học đại học và quá trình nghiên 
cứu khóa luận vừa qua. 
 Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn của mình tới GS.,TS. Nguyễn Thị Mơ - 
ngƣời đã định hƣớng và hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn thành khóa 
luận này. 
 Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn VIAC đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi 
trong quá trình tìm kiếm tài liệu để viết khóa luận. 
 DANH MỤC NHỮNG TỬ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN 
AAA Hiệp hội trọng tài Mỹ 
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á 
ASEM Diễn đàn hợp tác Á - Âu 
APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dƣơng 
FTAC Hội đồng trọng tài Ngoại thƣơng 
ICC Phòng thƣơng mại Quốc tế 
ICSID Trung tâm Quốc tế giải quyết các tranh chấp đầu tƣ 
MAC Hội đồng trọng tài Hàng hải 
Pháp lệnh Pháp lệnh trọng tài Thƣơng mại 2003 
Quy tắc 1993 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC có hiệu lực từ 
 ngày 20/08/1993 
Quy tắc 1996 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC có hiệu lực từ 
 ngày 15/04/1996 
Quy tắc 2004 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC có hiệu lực từ 
 ngày 01/07/2004 
UNCITRAL Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật thƣơng mại quốc tế 
USD Đô-la Mỹ 
VIAC Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh 
 Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam 
WTO Tổ chức Thƣơng mại Thế giới 
 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRỌNG TÀI 
 VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH 
 QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI 
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ 
1. Tranh chấp là gì ? 
 Trong nền kinh tế thị trƣờng, các nhà kinh doanh có quan hệ kinh tế 
thƣơng mại rất chặt chẽ và khăng khít với nhau. Họ đều muốn xây dựng lòng 
tin, duy trì các mối quan hệ kinh tế, thƣơng mại với các đối tác lâu dài nhằm 
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, thƣơng mại của họ đƣợc ổn định và phát 
triển. Tuy nhiên, đôi khi, vì nhiều lí do chủ quan và khách quan khác nhau, 
các mối quan hệ kinh tế, thƣơng mại giữa các nhà kinh doanh cũng có những 
bất đồng và mâu thuẫn, dẫn đến các tranh chấp kinh tế, thƣơng mại. 
 Để hiểu thế nào là tranh chấp kinh tế, thƣơng mại cần phải hiểu rõ khái 
niệm tranh chấp. Tranh chấp là sự xung đột, mâu thuẫn, tranh giành quyền lợi 
giữa hai hay nhiều chủ thể tham gia vào một quan hệ pháp luật mà trong quá 
trình tranh giành đó, ai cũng cho rằng mình là đúng, lợi ích của mình cần 
đƣợc bảo vệ. 
 Khi các chủ thể tham gia vào các quan hệ do pháp luật điều chỉnh, 
những mâu thuẫn, bất đồng giữa họ thƣờng phát sinh từ, hoặc có liên quan 
đến việc thực hiện nghĩa vụ của một bên, khi mà bên kia, hoặc cho rằng mình 
có quyền yêu cầu bên này phải làm một nghĩa vụ để tạo ra một lợi ích cho 
mình, hoặc cho rằng những thiệt hại mà mình phải gánh chịu là do lỗi của bên 
này... trong khi bên này lại không cho là nhƣ vậy. 
 Tranh chấp xảy ra trong mọi mối quan hệ xã hội. Tranh chấp là một 
hiện tƣợng khách quan, nó tồn tại ngoài ý thức của các chủ thể. Xã hội ngày 
càng phát triển, mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp, do đó, tranh chấp 
phát sinh cũng ngày càng nhiều và phức tạp. Có thể nói, tranh chấp gắn với 
hoạt động xã hội loài ngƣời và yêu cầu đặt ra là phải tìm ra cơ chế giải quyết 
những tranh chấp ấy. 
2. Tranh chấp thƣơng mại 
 Mặc dù tranh chấp xảy ra trong mọi mối quan hệ xã hội, có thể là tranh 
chấp trong chính trị, ý thức hệ, nhân sinh quan, văn hóa, khoa học, kinh tế, 
thƣơng mại... Nhƣng loại hình tranh chấp phổ biến nhất là tranh chấp về kinh 
tế, tranh chấp xảy ra trong hoạt động thƣơng mại. Cũng có thể nói đa số các 
tranh chấp phát sinh đều có mối liên quan chặt chẽ đến lợi ích kinh tế, đến lợi 
nhuận trong các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động thƣơng mại nói 
riêng. 
 Tranh chấp thƣơng mại có thể là tranh chấp giữa các quốc gia hoặc 
tranh chấp giữa các chủ thể kinh doanh. Trong giới hạn của khóa luận này, 
ngƣời viết chỉ nghiên cứu về tranh chấp thƣơng mại phát sinh giữa các chủ 
thể kinh doanh. Đó là các tranh chấp thƣơng mại liên quan đến hoạt động của 
các doanh nghiệp - là tranh chấp trong kinh doanh. 
 Tranh chấp thƣơng mại là tranh chấp phát sinh từ hoặc có liên quan đến 
các hoạt động thƣơng mại. Vậy hoạt động thƣơng mại là gì? Khái niệm này 
đƣợc hiểu khác nhau tùy từng nƣớc khác nhau, phụ thuộc vào nhận thức về 
thƣơng mại cũng nhƣ về trình độ phát triển của nền kinh tế. 
 Trƣớc đây, hoạt động thƣơng mại đƣợc hiểu là hoạt động mua và bán 
hàng hóa hữu hình nhằm mục đích thu lợi nhuận. Cho đến nay, khái niệm này 
đã đƣợc mở rộng ra cả với khu vực dịch vụ - hàng hóa vô hình. Tổ chức 
thƣơng mại thế giới (WTO) cho rằng hoạt động thƣơng mại là tất cả các hoạt 
động nhằm mục đích thu lợi nhuận, bất kể đó là hàng hóa, dịch vụ hay sở hữu 
công nghiệp, đầu tƣ... Chính vì vậy, WTO đã mở rộng phạm vi điều chỉnh của 
mình sang các lĩnh vực dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tƣ với việc ban hành các 
Hiệp định đa biên nhƣ GATT (thƣơng mại hàng hóa), GATS (thƣơng mại 
dịch vụ), TRIPS (các khía cạnh thƣơng mại liên quan đến sở hữu trí tuệ), 
TRIMS (các khía cạnh thƣơng mại liên quan đến đầu tƣ). 
 Ở Việt Nam, khái niệm hoạt động thƣơng mại cũng đƣợc hiểu khác 
nhau theo từng thời kỳ. Nói cách khác, khái niệm này đƣợc xem xét ở trạng 
thái động, đƣợc hiểu theo nghĩa ngày càng rộng hơn. Luật Thƣơng mại Việt 
Nam năm 1997 quy định: “hoạt động thƣơng mại là việc thực hiện một hay 
nhiều hành vi thƣơng mại của thƣơng nhân, bao gồm việc mua bán hàng hóa, 
cung ứng dịch vụ thƣơng mại và các hoạt động xúc tiến thƣơng mại khác 
nhằm mục đích thu lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế, xã 
hội. Dịch vụ thƣơng mại gồm những dịch vụ gắn với việc mua bán hàng hóa. 
Xúc tiến thƣơng mại là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán 
hàng hóa và cung ứng dịch vụ thƣơng mại” (Điều 5 Khoản 2). Đây là một 
khái niệm về hoạt động thƣơng mại hẹp. Nằm trong phạm vi đƣợc coi là hoạt 
động thƣơng mại, đƣợc Luật Thƣơng mại năm 1997 điều chỉnh chỉ bao gồm 
14 hành vi. Đến năm 2005, Luật Thƣơng mại của Việt Nam đã mở rộng hơn 
nội hàm của khái niệm hoạt động thƣơng mại bằng quy định: “hoạt động 
thƣơng mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, 
cung ứng dịch vụ, đầu tƣ, xúc tiến thƣơng mại và các hoạt động nhằm mục 
địch sinh lợi khác” (Điều 3 Khoản 1). Đây là một sự đổi mới vƣợt bậc trong 
cách hiểu về khái niệm hoạt động thƣơng mại, phù hợp với cách hiểu của 
Luật mẫu UNCITRAL: “Khái niệm thƣơng mại cần phải đƣợc giải thích theo 
nghĩa rộng, bao gồm các vấn đề phát sinh từ tất cả các quan hệ có bản chất 
thƣơng mại, dù có hợp đồng hay không có hợp đồng. Quan hệ có bản chất 
thƣơng mại bao hàm nhƣng không chỉ giới hạn đối với các giao dịch sau đây: 
bất kỳ giao dịch buôn bán nào nhằm cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hay dịch 
vụ, hợp đồng phân phối đại diện thƣơng mại hay đại lý, các công việc sản 
xuất, thuê máy móc thiết bị, xây dựng, tƣ vấn thiết kế cơ khí, li-xăng, đầu tƣ, 
ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc chuyển nhƣợng, 
liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh, 
vận tải hàng hóa hoặc hành khách bằng đƣờng hàng không, đƣờng biển, 
đƣờng sắt hoặc đƣờng bộ” (Điều 1 Luật mẫu UNCITRAL). 
3. Tranh chấp trong kinh doanh quốc tế 
 Trong thực tế, ở phạm vi trong nƣớc ngƣời ta không phân biệt khái 
niệm tranh chấp thƣơng mại với khái niệm tranh chấp trong kinh doanh. 
Nguyên nhân chủ yếu là do không có sự phân biệt rõ giữa khái niệm kinh 
doanh và thƣơng mại. Ở một số nƣớc, có sự đồng nhất cách hiểu về hai khái 
niệm này. 
 Pháp luật Việt Nam hầu nhƣ đồng nhất hai khái niệm kinh doanh và 
thƣơng mại: đó là các hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích thu lợi 
nhuận. Tranh chấp thƣơng mại và tranh chấp trong kinh doanh là những tranh 
chấp gắn liền với hoạt động kinh doanh - thƣơng mại của doanh nghiệp. 
 Do không có sự phân định hai khái niệm kinh doanh và thƣơng mại nên 
khi đƣa ra những loại hình tranh chấp thuộc thẩm quyền xét xử của trọng tài 
thƣơng mại, Pháp lệnh trọng tài Thƣơng mại Việt Nam 2003 cho rằng hoạt 
động thƣơng mại là hoạt động của các cá nhân, tổ chức kinh doanh mà xét về 
mặt bản chất, đó cũng là hoạt động của doanh nghiệp. Điều 2 Khoản 3 Pháp 
lệnh trọng tài Thƣơng mại Việt Nam 2003 quy định: "hoạt động thƣơng mại 
là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thƣơng mại của cá nhân, tổ chức kinh 
doanh, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại 
lý thƣơng mại, ký gửi, thuê, cho thuê, thê mua, xây dựng, tƣ vấn, kỹ thuật, li-
xăng, đầu tƣ, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thăm dò, khai thác, vận chuyển 
hàng hóa, hành khách bằng đƣờng hàng không, đƣờng biển, đƣờng sắt, đƣờng 
bộ và các hành vi thƣơng mại khác theo quy định của pháp luật". 
 Tuy nhiên, ở phạm vi quốc tế, các hoạt động thƣơng mại lại đƣợc tiếp 
cận khác. Ở phạm vi quốc tế, các mối quan hệ xã hội phát sinh thƣờng và chủ 
yếu đƣợc chia thành hai nhóm quan hệ: Nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa 
các quốc gia với nhau và nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa các doanh 
nghiệp với nhau. Tranh chấp thƣơng mại quốc tế là những tranh chấp phát 
sinh giữa các quốc gia với nhau khi các quốc gia tiến hành hoạt động thƣơng 
mại ở phạm vi quốc tế, còn tranh chấp trong kinh doanh quốc tế là những 
tranh chấp phát sinh giữa các doanh nghiệp, các công ty ở các nƣớc khác nhau 
với nhau khi các doanh nghiệp, công ty này thực hiện các hoạt động kinh 
doanh, thƣơng mại. 
4. Tranh chấp trong kinh doanh quốc tế là tranh chấp chủ yếu liên quan 
đến hoạt động của các thƣơng nhân trong thƣơng mại quốc tế. 
 Thƣơng nhân là một khái niệm khá quen thuộc trong pháp luật thƣơng 
mại của các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng nhƣng lại còn rất xa lạ đối với 
những nƣớc có nền kinh tế kế hoạch hóa, bao cấp. 
 Ở các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển, đặc biệt là ở Mỹ, Pháp, 
Đức... thƣơng nhân là một thuật ngữ, một từ dùng để chỉ những ngƣời mà 
hoạt động của họ mang hai đặc điểm. Thứ nhất, ký kết các hợp đồng thƣơng 
mại và tiến hành các hoạt động kinh doanh khác một cách thƣờng xuyên 
nhằm mục đích thu lợi nhuận. Thứ hai, nhân danh bản thân mình để thực hiện 
các hoạt động kinh doanh đó, nghĩa là, thƣơng nhân là những ngƣời hoạt động 
kinh doanh độc lập. 
 Việc đƣa ra khái niệm thƣơng nhân là rất quan trọng bởi thƣơng nhân 
sẽ chịu quy chế quản lý riêng. Quy chế quản lý thƣơng nhân đƣợc đƣa ra 
nhằm tạo điều kiện cho thƣơng nhân hoạt động thuận lợi hơn, đồng thời cũng 
đƣa ra những điều kiện ràng buộc thƣơng nhân, bảo vệ những ngƣời không 
phải là thƣơng nhân. 
 Thƣơng nhân có thể là cá nhân hoặc tập thể. Trong một số trƣờng hợp 
Nhà nƣớc cũng đƣợc coi là một thƣơng nhân đặc biệt. 
 Các thƣơng nhân là cá nhân chính là các tự nhiên nhân hay còn gọi là các 
thể nhân mà với tƣ cách là chủ sở hữu một xí nghiệp, hoạt động nhƣ các nhà 
kinh doanh, các nhà buôn riêng lẻ. Thông thƣờng họ tiến hành kinh doanh những 
hoạt động không đòi hỏi phải có một số vốn lớn. Còn các pháp nhân là các 
thƣơng nhân tập thể, thƣờng tồn tại dƣới hình thức là các hội, các công ty, các 
hãng kinh doanh khác nhau và là chủ sở hữu của một hoặc một số doanh nghiệp. 
 Tuy nhiên, không phải bất kì cá nhân hay tập thể nào đều có thể trở 
thành thƣơng nhân. Để đƣợc thừa nhận là thƣơng nhân, cần phải thỏa mãn 
một số điều kiện nhất định do Pháp luật từng nƣớc đƣa ra. Theo các nƣớc 
phƣơng Tây, có hai điều kiện: điều kiện liên quan đến con ngƣời và điều kiện 
liên quan tới công việc, tới hoạt động, nghề nghiệp của ngƣời đó. 
 Về điều kiện liên quan tới con ngƣời, luật pháp của hầu hết các nƣớc 
đều có quan điểm tƣơng đối thống nhất: thƣơng nhân phải là những ngƣời có 
năng lực hành vi và năng lực pháp luật. Tuổi có năng lực hành vi do luật của 
từng nƣớc quy định khác nhau. 
 Về điều kiện liên quan tới hoạt động của thƣơng nhân, luật pháp của 
các nƣớc quy định không giống nhau. 
 Luật của Nhật quy định thƣơng nhân là “một ngƣời nhân danh bản 
thân mình tham gia vào các giao dịch thƣơng mại nhƣ một nhà kinh doanh”. 
Theo quy định này thì một thƣơng nhân tham gia vào việc mua bán với một 
cửa hàng hoặc một hình thức tƣơng tự hoặc một ngƣời tiến hành kinh doanh 
về hầm mỏ cũng đƣợc coi là thƣơng nhân. 
 Luật của Mỹ quy định thƣơng nhân là những ngƣời “thực hiện nghiệp 
vụ với những hàng hóa thuộc chủng loại nhất định hoặc thực hiện những 
nghiệp vụ bằng cách khác nhau nào đó và xét về tính chất nghiệp vụ của 
mình, họ đƣợc coi nhƣ là những ngƣời có kiến thức hoặc có kinh nghiệm đặc 
biệt trong những nghiệp vụ hoặc đối với những hàng hóa là đối tƣợng của các 
hợp đồng thƣơng mại”. 
 Luật của Pháp quy định thƣơng nhân là tất cả những ngƣời ký hợp 
đồng thƣơng mại, thực hiện các hợp đồng thƣơng mại và coi việc ký và thực 
hiện các hợp đồng thƣơng mại đó là nghề nghiệp thƣờng xuyên của mình. Từ 
khái niệm trên luật Thƣơng mại Pháp đƣa ra 3 tiêu chuẩn: 
  Thực hiện các hành vi, các hoạt động thƣơng mại 
  Nhân danh bản thân mình để thực hiện các hành vi thƣơng mại 
 đó, với tƣ cách là một ngƣời độc lập 
  Coi đó là nghề nghiệp thƣờng xuyên của mình 
 Từ 3 tiêu chuẩn này, Bộ luật Thƣơng mại Pháp liệt kê ra một danh mục 
dài những hành vi đƣợc coi là hành vi thƣơng mại. Cũng từ 3 tiêu chuẩn trên, 
luật Thƣơng mại Pháp không thừa nhận những ngƣời làm một số nghề nhất 
định là thƣơng nhân. 
 Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 2005 quy định “thƣơng nhân bao gồm 
tổ chức kinh tế đƣợc thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thƣơng mại một 
cách độc lập, thƣờng xuyên và có đăng ký kinh doanh”, trong đó hoạt động 
thƣơng mại đƣợc hiểu là “hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua 
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tƣ, xúc tiến thƣơng mại và các hoạt động 
nhằm mục đích sinh lợi khác”. 
II. CÁC PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH 
QUỐC TẾ 
1. Các phƣơng thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế 
thƣờng gặp 
 Trong hoạt động kinh doanh quốc tế, khi tranh chấp xảy ra các bên 
thƣờng sử dụng một hoặc kết hợp các phƣơng thức giải quyết sau: thƣơng 
lƣợng trực tiếp giữa các bên, qua trung gian, thông qua hòa giải viên, thông 
qua bộ máy tƣ pháp - kiện ra tòa án hoặc trọng tài. 
1.1. Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng trực tiếp giữa các bên 
 Thƣơng lƣợng là một phƣơng thức giải quyết tranh chấp theo đó các 
bên đang tranh chấp với nhau sẽ trực tiếp thƣơng lƣợng để giải quyết tranh 
chấp. Nếu thƣơng lƣợng thành công thì đồng nghĩa với việc giải quyết đƣợc 
tranh chấp đã phát sinh. 
 Thƣơng lƣợng trực tiếp giữa các bên là phƣơng thức giải quyết tranh 
chấp thƣờng đƣợc áp dụng. Ƣu điểm của phƣơng pháp này là: các bên có thể 
giải quyết tranh chấp một cách nhanh gọn, ít tốn kém; các bên tranh chấp có 
thể tập trung vào vấn đề chính của việc giải quyết tranh chấp, tránh đƣợc 
những vấn đề mang tính thủ tục, hình thức; bảo vệ đƣợc uy tín, vị thế của các 
nhà kinh doanh cũng nhƣ giữ đƣợc bí mật kinh doanh cho các bên; giữ đƣợc 
hòa khí, mối quan hệ hữu hảo giữa các bên. 
 Thƣơng lƣợng trực tiếp có thể đƣợc tiến hành bằng cách hai bên trực 
tiếp gặp nhau để thỏa thuận thƣơng lƣợng hoặc trao đổi thông qua thƣ từ, các 
phƣơng tiện truyền thông dƣới hình thức khiếu nại và trả lời khiếu nại. 
 Thƣơng lƣợng bằng cách hai bên trực tiếp gặp gỡ nhau khi có tranh 
chấp phát sinh. Khi gặp nhau hai bên đều có thể bộc lộ ý định của mình một 
cách thẳng thắn, nêu hết đƣợc ý kiến của mình, nắm bắt và thấu hiểu đƣợc 
nguyện vọng của bên kia và do đó các bên có thể giải quyết đƣợc tranh chấp. 
Tuy nhiên, thƣơng lƣợng bằng cách gặp nhau trực tiếp thƣờng rất tốn kém chi