Khóa luận Vài nét về thị trường cà phê thế giới và tình hình sản xuất, chế biến xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam những năm gần đây

Trong những năm qua, cà phê luôn giữ vai trò là một trong số ít những mặt hàng trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Hàng năm, cà phê đóng góp tới 10% vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Với tầm quan trọng của mình, cà phê được xếp vào danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và được chọn là một trong những mặt hàng trọng điểm cần phát huy trong giai đoạn 2005-2010. Cũng như nhiều mặt hàng nông sản khác, hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khách quan như thời tiết, khí hậu và sự bấp bênh, không ổn định luôn là đặc tính cố hữu của thị trường này. Chỉ trong một thập kỷ qua, thị trường cà phê thế giới đã trải qua tới ba đợt biến động mạnh, đấy là cuộc khủng hoảng thừa niên vụ 1994/1995, cơn sốt cà phê niên vụ 1997/1998 và cuộc khủng hoảng vừa qua, trong đó đợt biến động mới đây được coi là nghiêm trọng nhất. Đến nay, trải qua những ngày giá cà phê xuống tới mức kỷ lục, thấp nhất trong vòng 30 năm trở lại đây, chúng ta mới thực sự cảm thấy được sự tàn phá dữ dội của cuộc khủng hoảng này. Tuy nhiên, mức độ thiệt hại đối với mỗi nước là khác nhau tuỳ thuộc vào sự chủ động của nước đó vào thị trường cà phê thế giới. Có thể nói, Việt Nam là một trong những nước chịu hậu quả nặng nề nhất do tính phụ thuộc của ngành cà phê Việt Nam vào thị trường thế giới rất cao, có tới 98% sản lượng là dành cho xuất khẩu. Bên cạnh đó còn do những yếu kém trong hoạt động của ngành vốn tồn tại từ trước tới nay: cà phê phát triển ồ ạt không theo quy hoạch, khâu chất lượng và chế biến chưa được chú trọng, chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc quảng bá cà phê Việt Nam ra thị trường thế giới và xây dựng thương hiệu cho cà phê Việt Nam. Đây mới chính là nguyên nhân sâu xa của vấn đề và những biến động của thị trường cà phê thế giới vừa qua chỉ là một nguyên nhân khách quan và là giọt nước đầy làm tràn ly. Với những lí do nêu trên, tác giả chọn viết Khoá luận tốt nghiệp với đề tài “Vài nét về thị trường cà phê thế giới và tình hình sản xuất, chế biến xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam những năm gần đây”. Nội dung khoá luận tốt nghiệp gồm 3 chương sau : Chương I: Khái quát về thị trường cà phê thế giới. Chương II: Tình hình sản xuất, chế biến và xuất khẩu mặt hàng cà phê trong những năm gần đây. Chương III: Phương hướng và những biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, chế biến và xuất khẩu cà phê của Việt Nam thời gian tới. Để thực hiện khoá luận với nội dung trên, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra : - Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh.

doc100 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3830 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Vài nét về thị trường cà phê thế giới và tình hình sản xuất, chế biến xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU T rong những năm qua, cà phê luôn giữ vai trò là một trong số ít những mặt hàng trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Hàng năm, cà phê đóng góp tới 10% vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Với tầm quan trọng của mình, cà phê được xếp vào danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và được chọn là một trong những mặt hàng trọng điểm cần phát huy trong giai đoạn 2005-2010. Cũng như nhiều mặt hàng nông sản khác, hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khách quan như thời tiết, khí hậu và sự bấp bênh, không ổn định luôn là đặc tính cố hữu của thị trường này. Chỉ trong một thập kỷ qua, thị trường cà phê thế giới đã trải qua tới ba đợt biến động mạnh, đấy là cuộc khủng hoảng thừa niên vụ 1994/1995, cơn sốt cà phê niên vụ 1997/1998 và cuộc khủng hoảng vừa qua, trong đó đợt biến động mới đây được coi là nghiêm trọng nhất. Đến nay, trải qua những ngày giá cà phê xuống tới mức kỷ lục, thấp nhất trong vòng 30 năm trở lại đây, chúng ta mới thực sự cảm thấy được sự tàn phá dữ dội của cuộc khủng hoảng này. Tuy nhiên, mức độ thiệt hại đối với mỗi nước là khác nhau tuỳ thuộc vào sự chủ động của nước đó vào thị trường cà phê thế giới. Có thể nói, Việt Nam là một trong những nước chịu hậu quả nặng nề nhất do tính phụ thuộc của ngành cà phê Việt Nam vào thị trường thế giới rất cao, có tới 98% sản lượng là dành cho xuất khẩu. Bên cạnh đó còn do những yếu kém trong hoạt động của ngành vốn tồn tại từ trước tới nay: cà phê phát triển ồ ạt không theo quy hoạch, khâu chất lượng và chế biến chưa được chú trọng, chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc quảng bá cà phê Việt Nam ra thị trường thế giới và xây dựng thương hiệu cho cà phê Việt Nam. Đây mới chính là nguyên nhân sâu xa của vấn đề và những biến động của thị trường cà phê thế giới vừa qua chỉ là một nguyên nhân khách quan và là giọt nước đầy làm tràn ly. Với những lí do nêu trên, tác giả chọn viết Khoá luận tốt nghiệp với đề tài “Vài nét về thị trường cà phê thế giới và tình hình sản xuất, chế biến xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam những năm gần đây”. Nội dung khoá luận tốt nghiệp gồm 3 chương sau : Chương I: Khái quát về thị trường cà phê thế giới. Chương II: Tình hình sản xuất, chế biến và xuất khẩu mặt hàng cà phê trong những năm gần đây. Chương III: Phương hướng và những biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, chế biến và xuất khẩu cà phê của Việt Nam thời gian tới. Để thực hiện khoá luận với nội dung trên, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra : - Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh... Tác giả xin trân trọng cảm ơn các cô chú, anh chị trong Vụ Kế hoạch thống kê - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Trung tâm thông tin Thương mại - Bộ Thương mại, thư viện quốc gia, phòng thư viện - Viện kinh tế thế giới cũng như các thầy cô và anh chị trong khoa Kinh tế Ngoại thương, thư viện trường Đại học Ngoại Thương đã nhiệt tình cung cấp tài liệu và số liệu liên quan, và xin đặc biệt cảm ơn thầy giáo Tô Trọng Nghiệp, người đã trực tiếp hướng dẫn tác giả trong quá trình chọn đề tài, định hướng tài liệu và hoàn thiện khoá luận./. Đại học Ngoại Thương, tháng 12-2003 Sinh viên thực hiện Trần Phúc Long . CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG CÀ PHÊ THẾ GIỚI I. GIỚI THIỆU VÀI NÉT VỀ CÂY CÀ PHÊ 1. Lịch sử cây cà phê Cách đây khoảng 1000 năm, một người du mục Ethiôpi đã ngẫu nhiên phát hiện ra hương vị tuyệt vời của 1 cây lạ mọc ở làng Capfa gần thủ đô Ethiôpi. Đàn gia súc của ông sau khi ăn xong những cây này bỗng “tươi tỉnh” và đã không chịu để chủ lùa vào bãi trú đêm, thấy vậy, ông nếm thử và cảm thấy rất sảng khoái, tỉnh táo và từ đó trái cây đó đã trở thành đồ uống cho con người. Từ thế kỷ VI, cà phê không chỉ được người Ethiôpi dùng mà do tác dụng kích thích mạnh mẽ mà thời đó được coi là hiện tượng thần kỳ, cây cà phê được lan cả sang Yemen, các nước khác ở Trung Cận Đông và nhanh chóng vượt biển đổ sang ARập (Arabica) do đó có loại cà phê tên là Arabica. Thế kỷ XVI các nhà buôn nước cộng hòa Vernize nhập khẩu cà phê vào Châu Âu, như vết dầu loang, cà phê lan sang Châu Á, Châu Đại Dương. Giống cà phê Arabica do người Hà Lan đưa vào Xrilanca, Côlômbia và Java (Inđônêxia) năm 1670. Cuối thế kỷ XVII, cây cà phê đã tìm được chỗ đứng vững chắc trên thế giới. 2. Các loại cà phê Vẫn còn nhiều tranh cãi về số lượng loại cà phê, người ta nói rằng có thể có từ 25-100 loại cà phê trên thế giới nhưng những loại quan trọng nhất là: Cà phê chè (Coffee Arrabica L): Loại này chiếm 65 % số lượng cà phê sản xuất trên thế giới Cà phê vối (Coffee canephora pirre): Loại này chiếm 35% lượng cà phê sản xuất trên thế giới Cà phê mít (Excelsa) phát hiện đầu tiên năm 1902 ở Ubangui Chari nên thường được gọi là cà phê Chari. Do có vị đậm nên người ta thường trộn với cà phê chè để tạo ra vị thơm hơn. 3. Ích lợi của cây cà phê Cây cà phê được dùng trong y học, trong công nghiệp thực phẩm. Cà phê còn tạo ra công ăn việc làm, góp phần bảo vệ môi trường. Đặc biệt cây cà phê đem lại nguồn thu nhập lớn. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu cà phê thế giới khoảng 10 tỷ USD/năm. II. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ CÀ PHÊ THẾ GIỚI Trong vài thập kỷ qua sản xuất cà phê thế giới tăng giảm thất thường, nhưng nhìn chung có xu hướng tăng lên (biểu 1). Sự biến động ở tất cả các khía cạnh của sản xuất là sản lượng, diện tích, canh tác và năng suất đều không giống nhau. 1. Diện tích Diện tích trồng cà phê thế giới từ năm 1990 đến 2002 tăng trung bình là 0,1%/năm, đạt 14.593.940 ha năm 2002. Diện tích trồng cà phê ở các khu vực khác nhau trên thế giới tăng giảm không đồng đều. Trong khi diện tích trồng cà phê của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương tăng trung bình là 2,8%/năm thì diện tích trồng cà phê ở những nước khác lại giảm 0,3% (tính từ 1990 đến 2002). 2. Năng suất Trái với việc gia tăng về diện tích, năng suất trồng cà phê trên thế giới lại có xu hướng giảm xuống, giảm 0,2%/năm. Nếu như năng suất cà phê của thế giới năm 1990 đạt trung bình là 580kg/ha thì năng suất năm 2002 chỉ đạt 553kg/ha. Tất nhiên năng suất trồng cà phê trong thời gian qua không giảm ở tất cả các nước – chẳng hạn ở các nước Châu Á- Thái Bình Dương năng suất cà phê không những không giảm mà lại còn tăng lên trung bình 0,4%/năm. 3. Sản lượng Sản xuất cà phê thế giới đã tăng lên. Qua bảng tổng kết sản lượng cà phê thế giới (biểu đồ 1) trong thời gian là 42 năm của các nhà phân tích kinh tế của Bộ Nông nghiệp Mỹ, ta thấy rằng sản lượng cà phê vụ 2001/2002 là 118,8 triệu bao, tăng 51 triệu bao tương đương với 77% so với năm 1960/1961. Trung bình mỗi năm tăng 1,2 triệu bao hay nói cách khác là 1,83%/năm. Tuy nhiên sản lượng tăng không đều ở các năm. Sản lượng thấp nhất là 53 triệu bao/năm (1964/1965) và mức cao nhất là 118,8 triệu bao/năm (2001/2002 – niên vụ năm ngoái). Nhìn chung sản lượng tăng từ năm 1976/1977 đến nay. Sản lượng thấp vào đầu những năm 1960 và năm 1975 do sương muối. Từ năm 1987/1988 đến nay sản xuất cà phê cũng tăng giảm thất thường nhưng nhìn chung là có xu hướng tăng lên về sản lượng. (Chi tiết xin xem tại phụ lục 1) Sản xuất cà phê tập trung chủ yếu ở các nước đang phát triển: Chiếm hơn 90% sản lượng của cà phê thế giới, các nước phát triển sản xuất với khối lượng rất nhỏ và chủ yếu nhập khẩu để tiêu dùng. Châu Mỹ la tinh là khu vực trồng cà phê lớn nhất thế giới, trong đó Braxin có sản lượng đứng đầu thế giới. Trước chiến tranh thế giới lần thứ II, sản xuất cà phê của Braxin chiếm 80% sản lượng của cả thế giới, những năm sau này do nhiều nước Châu Á, Châu Phi đẩy mạnh sản xuất nên hiện nay sản lượng cà phê của Braxin chỉ chiếm khoảng 30% sản lượng thế giới. Tính từ tháng 9/2002 đến tháng 8/2003, sản xuất cà phê của Braxin đạt 27,7 triệu bao, chiếm tỷ trọng 31,5% trong tổng sản lượng cà phê thế giới. Sản lượng cà phê của các nước Châu Á, Châu Phi tăng đáng kể và đã tăng dần tỷ trọng so với sản lượng thế giới. Hiện nay nhiều nước đã chú trọng đến sản xuất cà phê hòa tan để xuất khẩu. Tóm lại, về sản xuất cà phê thế giới nhìn chung trong thời gian gần đây có xu hướng tăng lên về sản lượng và diện tích, đặc biệt ở khu vực Châu Á và Châu Phi. Nhiều nước trên thế giới đã đi vào sản xuất cà phê hòa tan để xuất khẩu. Cà phê chè vẫn chiếm ưu thế trong tổng sản lượng cà phê thế giới ( chừng 70%). Tuy nhiên, năng suất cà phê thế giới có xu hướng giảm xuống. 4. Tình hình tiêu thụ cà phê Cà phê là một mặt hàng buôn bán có giá trị kim ngạch lớn thứ 2 của thế giới đang phát triển sau dầu mỏ. Cà phê được trồng và xuất khẩu ở các nước đang phát triển thuộc vành đai nhiệt đới và á nhiệt đới, phần lớn sản phẩm được nhập khẩu và tiêu thụ ở các nước công nghiệp phát triển. Năm 1922 tổng lượng cà phê tiêu thụ trên thế giới là 31,2 triệu bao thì 80 năm sau lượng tiêu thụ đã lên đến 112,4 triệu bao (2002) tăng đến 3,6 lần. Trong những năm gần đây lượng cà phê được tiêu thụ trên thế giới tăng bình quân mỗi năm 1%. Gần 75% lượng cà phê được tiêu thụ ở các nước phát triển. Sự tăng trưởng tiêu thụ cà phê là khá ổn định. 4.1. Tiêu thụ cà phê ở các nước nhập khẩu thành viên ICO Bảng 4: Tiêu thụ cà phê ở các nước nhập khẩu thành viên ICO Đơn vị: triệu bao Niên vụ/ Thị trường  1995-1996  1996-1997  1997-1998  1998-1999  1999-2000  2000-2001  2001-2002   Tổng số  60,177  61,380  61,420  57,929  58,557  61,380  59,386   Mỹ  18,111  18,255  18,077  17,457  17,758  18,468  17,897   ECP  34,528  35,681  35,436  32,904  33,972  35,033  33,297   Pháp  5,611  5,445  5,432  5,085  5,402  5,625  5,449   Đức  10,204  10,657  10,064  10,641  9,032  10,270  9,513   Italia  4,428  4,780  4,837  4,656  4,824  4,852  4,654   Áo  2,384  2,558  2,737  2,178  2,426  2,372  2,922   Tây Ban Nha  2,943  2,095  2,820  2,684  2,828  3,139  2,803   Hà Lan  2,512  2,301  2,713  2,306  2,265  2,549  2,496   Thuỵ Điển  1,528  1,633  1,703  1,629  1,124  1,418  1,333   Nhật Bản  5,800  5,587  6,110  5,975  5,951  6,265  5,953   Nước khác  1,718  1,957  1,797  1,593  1,576  1,612  1,659   Nguồn: ICO, coffee statistics (9/2003) Trong 21 nước nhập khẩu thành viên ICO thì Mỹ là nước tiêu thụ cà phê lớn nhất và ổn định từ 17,5-18 triệu bao/năm, chiếm 30% thị trường cà phê thế giới, nhưng cũng chỉ đạt bình quân 4kg/người/năm, còn thấp hơn so với các nước ở Châu Âu. Các nước EU cà phê là đồ uống thông dụng, chiếm khoảng 20% thị trường đồ uống, tiêu thụ cà phê hàng năm từ 33-35 triệu bao, chiếm 57-58% thị trường thế giới. Nhật Bản là nước tiêu thụ cà phê lớn nhất Châu Á, với mức tiêu thụ 6 triệu bao/năm. Các nước đang phát triển lượng tiêu thụ tăng lên đáng kể là do điều kiện kinh tế được cải thiện. 4.2. Tiêu thụ cà phê ở các nước sản xuất. Đơn vị: triệu bao Niên vụ  1997/1998  1998/1999  1999/2000  2000/2001  2001/2002   Tổng số  22,045  22,976  24,079  24,352  22,918   Nguồn: ICO statisctics on coffee Các nước sản xuất cà phê không chỉ để xuất khẩu mà xu hướng tiêu dùng nội địa ngày càng tăng. Năm 1996 tiêu thụ khoảng 20,5 triệu bao, đến năm 2002 mức tiêu thụ đã là 23 triệu bao. Hai nước Brazil và Indonexia và có mức tiêu thụ nội địa cao, thường chiếm trên 30% sản lượng hàng năm. Theo kế hoạch thì đến hết năm 2003 Brazil có thể tiêu thụ tới 15,5 triệu bao, Clombia 1,6 triệu bao, Indonexia 2,1 triệu bao. Khối lượng tiêu dùng ở các nước Châu Á cũng tăng lên. Tiêu thụ cà phê ở các nước sản xuất khá ổn định, riêng vụ cà phê 2001/2002 có xu hướng giảm xuống do tình hình khủng hoảng kinh tế trên thế giới, đặc biệt là các nước Châu Á, Mỹ La tinh. Ngoài ra người dân ở các nước Trung và Đông Âu rất thích uống cà phê, hàng năm các nước này tiêu thụ khoảng 5-6 triệu bao. Các nước nhập khẩu cà phê không phải là thành viên ICO hàng năm nhập khẩu khoảng 5 triệu bao như Angirni, Triều Tiên, Achentina,... Về chủng loại, thì cà phê Arabica vẫn được ưa chuộng hơn và ngày càng có nhu cầu tiêu thụ nhiều hơn bởi chất lượng cũng như hương vị thơm ngon của nó. Do vậy giá cà phê Arabica thường cao gấp 2-2.5 lần giá cà phê Robusta. III. MẬU DỊCH CÀ PHÊ THẾ GIỚI 1. Tình hình xuất khẩu cà phê thế giới 1.1. Khái quát chung về xuất khẩu cà phê thế giới Xuất khẩu cà phê thế giới trong tháng 9 năm nay đạt 6,55 triệu bao, giảm 7,3% so với tháng 9 năm ngoái. Tuy nhiên, tổng xuất khẩu tất cả các loại cà phê trong niên vụ 2002/2003 (từ tháng 10/2002 đến tháng 9/2003) đạt 87,34 triệu bao, tăng 1,7% so với niên vụ trước (2001-2002). Xuất khẩu cà phê của Braxin niên vụ 2002/03 tăng 5,9% đạt 27,5 triệu bao chiếm tới 31% tổng sản lượng xuất khẩu cà phê thế giới. Xuất khẩu của Việt Nam đạt 11,56 triệu bao, đứng thứ hai thế giới và nước có sản lượng xuất khẩu cao thứ ba là Colombia với 10,48 triệu bao. Nhiều nước khác cũng có mức xuất khẩu tăng trong niên vụ 2002/03 như Burundi, Camơrun, Ecuađo, Ethiôpia, Guantêmala, Inđônêxia, Mađagaxca, Nicaragoa, Niu Ghinê, Tanzania và Thái Lan trong khi một số nước lại có mức xuất khẩu giảm so với cùng kì là Coxta Rica, Bờ biển Ngà, Ele Xanvađo, Honđurax, Mêhicô và Uganđa. (Chi tiết xin xem phụ lục 3). * Các loại cà phê xuất khẩu: Trước năm 1962, cà phê thường được phân loại khi xuất khẩu theo chủng loại: là cà phê chè (Arabica) và cà phê vối (Robusta). Nhưng sau này, Tổ chức Cà phê thế giới (ICO) lại phân loại cà phê Arabica ra làm 3 loại: loại cà phê dịu Colombia (Colombian Milds), loại cà phê dịu khác (Other Milds) và cà phê chè không rửa (unwashed Arabica). Sau này loại cà phê chè không rửa lại được gọi tên là cà phê Brazil (Brazilian Naturals) và các loại cà phê chè khác. Nhưng sau đó, Brazils không những chỉ xuất khẩu cà phê chè mà Brazils còn xuất khẩu cà phê vối nên cách phân loại trên lại gặp rắc rối. Một cách phân loại khác theo chất lượng cà phê là: + “Cà phê hảo hạng”(gourmet coffee) đó là loại cà phê có chất lượng cao được xuất khẩu từ nước xuất xứ, thường là từ một trang trại hoặc một khu vực nào đó và giá thường cao. + Ngày nay do yêu cầu bảo vệ môi trường và sức khỏe, người sản xuất và xuất khẩu lại đưa ra một tên gọi mới cho cà phê là “cà phê sạch” (organic coffee) đó là loại cà phê được trồng mà không cần dùng đến phân bón và thuốc trừ sâu. Loại cà phê này đang càng ngày càng được ưa chuộng ở liên minh Châu Âu và Mỹ. + Cà phê đã tách cafein (decaffemated coffee) Tuy nhiên nhiều người còn nghi ngờ về phẩm chất thực của các loại cà phê được phân loại theo kiểu trên. Theo ICO thì hơn 90% khối lượng cà phê xuất khẩu của thế giới là loại cà phê hạt còn sống. Trên thị trường cũng xuất hiện kinh doanh cà phê dạng đã rang chín (Roasted coffee) và dạng đã qua chế biến kỹ có thể hòa tan được ngay (instant coffee). 1.2. Một số nước xuất khẩu cà phê chủ yếu * Braxin Là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới, trung bình hàng năm nước này bán ra thị trường thế giới 16 triệu bao (60 kg/bao), chiếm hơn 20% xuất khẩu thế giới trong đó 75% là cà phê chè (Arabica), còn 25% là cà phê vối (Robusta). Mỗi khi khối lượng xuất khẩu của Braxin thay đổi, xuất khẩu của thế giới cũng thay đổi theo. Theo số liệu của chính phủ Braxin, từ tháng 10/2002 đến tháng 9/2003, sản lượng xuất khẩu của nước này là 27,5 triệu bao. Gần đây Braxin đã trở thành đối thủ cạnh tranh của các nước Châu Á và Châu Phi về cà phê vối. Hàng năm Braxin xuất khẩu 4-5 triệu bao cà phê vối. * Côlômbia Là nước đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu cà phê, trung bình hàng năm nước này xuất khẩu 12 triệu bao. Điều đáng chú ý là nước này dùng khoa học kỹ thuật để tăng năng suất cà phê đều tăng sản lượng mà không phải dùng biện pháp tăng diện tích trồng trọt. Một điều thú vị là xuất khẩu cà phê hạt của Colombia lại thường được đóng trong bao nặng 70 kg, trong khi đó nhiều nước đóng 60 kg/bao. * Côxtarica Đây là một nước nổi tiếng về sản xuất cà phê chè ướt có chất lượng cao. Xuất khẩu trung bình là 2,3 triệu bao/năm. Nhưng vụ 10/2002-9/2003 xuất khẩu của nước này chỉ đạt 1,7 triệu bao. * Cốt-đi-voa (Bờ biển Ngà) Là một trong những nước sản xuất và xuất khẩu cà phê vối lớn nhất thế giới. Đầu những năm 80, sản xuất của Cốt-đi-voa đứng thứ 3 thế giới, sau Braxin và Côlômbia. Nhưng đến đầu năm 1990. do chính phủ không quan tâm đến sản xuất cà phê nên nhiều người trồng cà phê lại chuyển sang trồng ca cao, một loại hàng nông sản xuất khẩu số một của Cốt-đi-voa. Lúc này, Cốt-đi-voa đứng hàng thứ 12 trên thế giới, xuất khẩu chỉ trên 2 triệu bao. Sau đó chính phủ Cốt-đi-voa đã nhìn nhận lại vấn đề và tăng giá thu mua cà phê, tăng cường đầu tư cho ngành này. Ngoài ra với sự tự do hóa mậu dịch và giá cả cà phê thế giới tăng lên làm cho người trồng cà phê lại trồng cà phê và sản xuất bắt đầu tăng. Sản xuất hàng năm trung bình đạt 4,4 triệu bao và xuất khẩu trung bình là 4 triệu bao chiếm 4,8% xuất khẩu của thế giới. Xuất khẩu cà phê của Cốt-đi-voa chủ yếu sang Pháp và Italia, EEC chiếm 80% lượng cà phê xuất khẩu của nước này, trong đó 7% - 10% là cà phê hòa tan. Tương lai với việc trồng lại cà phê có thể đưa sản lượng cà phê của Cốt-đi-voa lên mức 5 triệu bao/năm * Inđônêxia Với mức sản xuất trung bình là 6,8 triệu bao/năm (1990-1997) và 6,34 triệu bao ( 1998-2002), Inđônêxia chiếm 7% sản xuất cà phê thế giới và đứng vào hàng thứ 3 sau Braxin và Côlômbia, sản xuất cà phê vối lớn nhất, vượt Cốt-đi-voa. Xuất khẩu trung bình là 5,5 triệu bao (cả hai loại cà phê vối và cà phê chè, nhưng chủ yếu là cà phê vối). Inđônêxia xuất khẩu nhiều cà phê vối được chế biến bằng phương pháp khô sang Châu Âu, Nhật và Mỹ. Để đáp ứng với yêu cầu của thị trường, tháng 3/1998, Inđônêxia đã chính thức khai trương một nhà máy làm cà phê hòa tan trị giá 25 triệu đô la Mỹ. Đây là nhà máy liên doanh của hãng Parasidha ở Indonexia và hãng Itochu và Ieshima (Nhật Bản). Indonexia hy vọng sẽ sản xuất 3600 tấn cà phê hòa tan và 2400 tấn cà phê đã xay hàng năm. Tuy nhiên, năm 2001 do ảnh hưởng của ElNino, Indonexia đã phải mua 30.000 tấn cà phê của Việt Nam để đảm bảo hợp đồng với các nước. * Ấn Độ Là một nước trồng cả 2 loại cà phê ( cà phê chè và cà phê vối). Sản xuất trung bình là 2,5 triệu bao, trong đó chừng 50% là cà phê chè. Ấn Độ đứng sau Indonexia về xuất khẩu cà phê chè ở Châu Á. Xuất khẩu hàng năm chừng 2 triệu bao. Trong ba năm qua Ấn Độ đã đầu tư nhiều vào việc quản lý và trồng cà phê và đã thu được nhiều kết quả trong ngành cà phê. Theo dự báo của Ủy ban kế hoạch Ấn Độ, sản lượng cà phê của Ấn Độ sẽ tăng lên mức 5 triệu bao vào năm 2004. * Goatêmala Sản xuất của Guatemala gần đây đạt 4,1 triệu bao/năm (1999-2003), chủ yếu là cà phê chè. Xuất khẩu hàng năm chừng 3,7 triệu bao chủ yếu sang Mỹ và Đức. Trong những thập kỷ qua, do sự căng thẳng về chính trị và xã hội cũng đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành cà phê. * Ethiôpia Là nước xuất khẩu cà phê thế giới lâu đời nhất, đây cũng là nước đầu tiên trồng cà phê chè. Cà phê chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế của đất nước, chiếm 60% kim ngạch xuất khẩu. Hàng năm sản xuất chừng 2,9 triệu bao (1990-1996) chủ yếu là cà phê chè và 50% dùng cho xuất khẩu. Đây là một nước tiêu thụ cà phê lớn nhất ở Châu Phi. Ethiopia xuất khẩu chủ yếu sang Đức, Mỹ, Pháp và Nhật Bản, trước đây chủ yếu xuất sang Liên Xô cũ và các nước Đông Âu. * Uganđa Là một trong những nước sản xuất cà phê Robusta chính của thế giới, Uganda chỉ sản xuất 10% cà phê Arabica. Do sự bất ổn về chính trị trong những năm 70 và đầu những năm 80 đã làm ảnh hưởng lớn đến ngành cà phê( giảm từ 3,5 triệu bao đầu những năm 60 xuống còn 2,5 triệu bao những năm 80). Nhưng sau đó do có sự thay đổi về chính trị và tự do hóa kinh tế đã làm cho sản xuất cà phê phục hồi lại. Hai năm qua sản xuất chừng 3,1 triệu bao/năm. Dự báo vụ 2003/2004 sản xuất giảm xuống còn chừng 2,8 triệu bao, nhưng sẽ tăng lên đến mức 5 triệu bao/năm vì Ugand
Luận văn liên quan