Khóa Luận Văn Hoá Doanh Nghiệp Của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam - Nghiên Cứu Điển Hình Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Hai Bà Trưng

Trong vài năm gần đây chủ đề văn hoá doanh nghiệp đã nhận được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu và các doanh nghiệp. Là một vấn đề rộng và là tài sản vô cùng quan trọng đối với mỗi tổ chức, các doanh nghiệp đã dần nhận ra vai trò của văn hoá trong việc xây dựng và phát triển doanh nghiệp. Và hơn bao giờ hết trong thời điểm hiện nay, vấn đề văn hoá doanh nghiệp cần phải được đặt lên hàng đầu trong việc hoạch định các chiến lược phát triển, sản xuất - kinh doanh. Văn hoá doanh nghiệp chính là yếu tố quyết định then chốt và không thể thiếu để doanh nghiệp bước vào hành trình mới đầy thử thách trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đã có rất nhiều các cuộc thảo luận, các bài viết trên các phương tiện thông tin đại chúng bàn về vấn đề này, nhưng trên thực tế hiểu văn hoá doanh nghiệp như thế nào cho chuẩn xác thì vẫn còn tồn tại rất nhiều những ý kiến khác nhau. Từ chỗ chưa nhận thức đầy đủ về văn hoá doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện hội nhập hiện nay, nên trong một chừng mực nhất định, các doanh nghiệp vẫn chưa phát huy được sức mạnh của mình. Vì vậy mà văn hoá doanh nghiệp cần được tìm hiểu và nghiên cứu thêm nữa để tạo ra cái nhìn hoàn thiện hơn, góp phần xây dựng và phát triển doanh nghiệp vững mạnh. Trên cơ sở đó, tôi đã quyết định chọn đề tài cho luận văn tốt nghiệp là: “Văn hoá doanh nghiệp của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam - Nghiên cứu điển hình Chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Hai Bà Trưng”.

pdf97 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3354 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa Luận Văn Hoá Doanh Nghiệp Của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam - Nghiên Cứu Điển Hình Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH CHUYÊN NGÀNH KINH DOANH QUỐC TẾ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: VĂN HOÁ DOANH NGHIỆP CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM - NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HAI BÀ TRƯNG Họ tên sinh viên : Hoàng Huy Thành Lớp : Anh 6 Khóa : 45 Giáo viên hướng dẫn : Th.S Nguyễn Lệ Hằng Hà Nội, tháng 5 năm 2010 LỜI MỞ ĐẦU Trong vài năm gần đây chủ đề văn hoá doanh nghiệp đã nhận được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu và các doanh nghiệp. Là một vấn đề rộng và là tài sản vô cùng quan trọng đối với mỗi tổ chức, các doanh nghiệp đã dần nhận ra vai trò của văn hoá trong việc xây dựng và phát triển doanh nghiệp. Và hơn bao giờ hết trong thời điểm hiện nay, vấn đề văn hoá doanh nghiệp cần phải được đặt lên hàng đầu trong việc hoạch định các chiến lược phát triển, sản xuất - kinh doanh. Văn hoá doanh nghiệp chính là yếu tố quyết định then chốt và không thể thiếu để doanh nghiệp bước vào hành trình mới đầy thử thách trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đã có rất nhiều các cuộc thảo luận, các bài viết trên các phương tiện thông tin đại chúng bàn về vấn đề này, nhưng trên thực tế hiểu văn hoá doanh nghiệp như thế nào cho chuẩn xác thì vẫn còn tồn tại rất nhiều những ý kiến khác nhau. Từ chỗ chưa nhận thức đầy đủ về văn hoá doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện hội nhập hiện nay, nên trong một chừng mực nhất định, các doanh nghiệp vẫn chưa phát huy được sức mạnh của mình. Vì vậy mà văn hoá doanh nghiệp cần được tìm hiểu và nghiên cứu thêm nữa để tạo ra cái nhìn hoàn thiện hơn, góp phần xây dựng và phát triển doanh nghiệp vững mạnh. Trên cơ sở đó, tôi đã quyết định chọn đề tài cho luận văn tốt nghiệp là: “Văn hoá doanh nghiệp của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam - Nghiên cứu điển hình Chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Hai Bà Trưng”. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài - Làm rõ các yếu tố cấu thành và các nhân tố ảnh hưởng đến văn hoá doanh nghiệp. - Đánh giá thực trạng văn hoá doanh nghiệp tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng 1 - Đề xuất giải pháp cho việc xây dựng và phát triển văn hoá doanh nghiệp tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề mang tính lý luận về văn hoá doanh nghiệp và thực trạng văn hoá doanh nghiệp tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng. - Phạm vi nghiên cứu: tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng và số liệu nghiên cứu từ năm 2007 – 2009. Phƣơng pháp nghiên cứu - Sử dụng phương pháp khảo sát, điều tra (40 phiếu khảo sát), thống kê toán học, phân tích tổng hợp. Nguồn thông tin sử dụng: + Thứ cấp: Các báo cáo, quy chế, văn bản do Ngân hàng cung cấp. + Sơ cấp: Thông tin thu được qua phiếu điều tra, phỏng vấn và quan sát. - Quy trình làm phiếu khảo sát: + Xác định mục đích, đối tượng đề tài cần hướng tới để thiết kế mỗi phiếu 18 câu hỏi trắc nghiệm liên quan đến VHDN. + Tiến hành phát phiếu điều tra tại các Phòng ban của Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng. + Thu nhận, tập hợp các phiếu điều tra, kiểm tra các thông tin thu được. + Tổng kết điều tra, đánh giá kết quả. + Số lượng phiếu phát ra: 40 phiếu 2 + Số lượng phiếu thu về: 40 phiếu + Nội dung phiếu khảo sát: tập trung vào sự nhận thức của cán bộ công nhân viên về VHDN và thực tế VHDN tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng, từ đó thấy được thực trạng VHDN tại ngân hàng và đưa ra giải pháp xây dựng và phát triển VHDN tại Chi nhánh. Bố cục đề tài Chƣơng I: Cơ sở lý luận về văn hoá doanh nghiệp Chƣơng II: Thực trạng văn hoá doanh nghiệp tại Chi nhánh Ngân Hàng Công Thƣơng Hai Bà Trƣng Chƣơng III: Định hƣớng xây dựng và phát triển văn hoá doanh nghiệp tại Chi nhánh Ngân Hàng Công Thƣơng Hai Bà Trƣng 3 CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HOÁ DOANH NGHIỆP I. Văn hoá doanh nghiệp 1. Một số khái niệm 1.1. Văn hoá Cho đến nay, đã xuất hiện vô vàn định nghĩa khác nhau về văn hóa tuy nhiên ngay cả những định nghĩa có giá trị nhất cũng vẫn chưa làm thỏa mãn giới nghiên cứu. Văn hoá là một vấn đề rất đa dạng và phức tạp, do đó sẽ có nhiều cách tiếp cận khác nhau dẫn đến nhiều quan niệm khác nhau, thậm chí ngay trong một định nghĩa về văn hóa cũng đã tồn tại yếu tố văn hóa. Tuy vậy, dù được tiếp cận từ góc độ nào, khái niệm văn hóa cũng đều làm lộ ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp những đặc trưng về con người và về đời sống của con người. Từ đó, ta có thể hiểu văn hóa là một khía cạnh của quan hệ giữa con người với thế giới bên trong và bên ngoài nó. Trong tiếng Hán cổ, Văn là vẻ đẹp nhân tính, cái đẹp của tri thức có thể đạt được bằng sự tu dưỡng của bản than và sự cai trị đúng đắn của người cầm quyền. Hoá là việc đem cái hay, cái đúng, cái đẹp để cảm hoá, giáo dục và hiện thực hoá trong thực tiễn, đời sống. Nói tới văn hoá là nói tới ý thức, cái gốc tạo nên tính người cùng những gì thuộc về bản chất nhất làm cho con người trở thành chủ thể năng động, sáng tạo trong cuộc sống, lao động sản xuất. Nói tới văn hoá là nói tới những nguồn nội lực để con người có thể gieo trồng (sáng tạo, xây dựng) và điều chỉnh (cải tạo) cuộc sống của mình theo định hướng vươn tới các giá trị chân thiện mỹ. Nó được xem là nền tảng cho sự phát triển ngày càng thăng bằng và bên vững hơn của con người và xã hội. Trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của mình, con người luôn 4 sáng tạo không ngừng để làm nên các giá trị văn hoá. văn hoá ko fải là giá trị cố định, bất biến. văn hoá là phát triển, thúc đẩy phát triển, là động lực và mục tiêu của phát triển. Một trong những định nghĩa đầu tiên được chấp nhận rộng rãi do nhà nhân chủng học E.B Tylor đưa ra, ông xem văn hoá là “một phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán, cùng mọi khả năng và thói quen khác mà con người đạt được với tư cách là một thành viên của xã hội”. Định nghĩa có thể nói là rộng nhất về văn hoá là của Edouard Herriot, “Văn hoá là cái còn lại khi tất cả những cái khác đã bị lãng quên”. Một định nghĩa được sử dụng khá phổ biến khác, tiệm cận gần hơn với bản chất văn hoá, do ông Frederico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO đưa ra: “Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động”. 1.2. Văn hoá doanh nghiệp Mỗi xã hội đều có nền văn hoá của nó, và một doanh nghiệp cũng có văn hoá của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tồn tại là để sản xuất của cải vật chất và làm dịch vụ. Mọi hoạt động sản xuất đều gắn liền với một dây chuyền công nghệ nhất định. Để vận hành được các khâu của dây chuyền này, trong doanh nghiệp phải có hệ thống tổ chức, quản lý thật chặt chẽ từ khâu đầu đến khâu cuối. Điều này có nghĩa là trong các hoạt động của doanh nghiệp, mọi người đều phải tuân theo những giá trị – chuẩn mực cụ thể nào đó và thực hiện theo những “ khuôn mẫu văn hoá” nhất định. Như vậy, mỗi doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh doanh là một không gian văn hoá. VHDN là toàn bộ giá trị văn hoá được gây dựng nên trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, trở thành các giá trị, các quan niệm và tập quán, truyền 5 thống ăn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp ấy và chi phối tình cảm, nếp suy nghĩ và hành vi của mọi thành viên của doanh nghiệp trong việc theo đuổi và thực hiện các mục đích. VHDN gắn với đặc điểm từng dân tộc, trong từng giai đoạn phát triển cho đến từng doanh nhân, từng người lao động, do đó rất phong phú và đa dạng. Tổ chức lao động quốc tế I.L.O - International Labour Organization cho rằng: “VHDN là sự trộn lẫn đặc biệt các giá trị, thái độ, các tiêu chuẩn, thói quen và truyền thống, những thái độ ứng xử và lễ nghi mà toàn bộ chúng là duy nhất đối với một tổ chức đã biết”. Hay theo tạp chí Business Harvard Review, “VHDN là những giá trị, lòng tin, truyền thống và hành vi thường được các thành viên của tổ chức chia sẻ và thực hiện”. Một định nghĩa được coi là phổ biến và được chấp nhận rộng rãi nhất, vừa ngắn gọn vừa phản ánh cả bản chất lẫn quá trình hình thành của văn hoá doanh nghiệp là định nghĩa của chuyên gia nghiên cứu các tổ chức Edga H.Schein: “VHDN là tổng hợp những quan niệm chung mà các thành viên trong công ty học được trong quá trình giải quyết các vấn đề nội bộ và xử lý các vấn đề môi trường xung quanh”. Từ những khái niệm trên, ta hiểu rằng VHDN là tổng thể những thủ pháp và quy tắc giải quyết vấn đề thích ứng bên ngoài và thống nhất bên trong các nhân viên, những quy tắc đã tỏ ra hữu hiệu trong quá khứ và vấn đề cấp thiết trong hiện tại. Những quy tắc và những thủ pháp này là yếu tố khởi nguồn trong việc các nhân viên lựa chọn phương thức hành động, phân tích và ra quyết định thích hợp. Các thành viên của tổ chức doanh nghiệp không đắn đo suy nghĩ về ý nghĩa của những quy tắc và thủ pháp ấy, mà coi chúng là đúng đắn ngay từ đầu. VHDN là một hệ thống những ý nghĩa, giá trị, niềm tin chủ đạo, nhận thức và phương pháp tư duy được mọi thành viên của một tổ chức đồng thuận và có ảnh hưởng ở phạm vi rộng đến cách thức hành động 6 của các thành viên. Điều đó có nghĩa là trong doanh nghiệp tất cả các thành viên đều gắn bó với nhau bởi những tiêu chí chung trong hoạt động kinh doanh. Như vậy, nội dung của văn hoá doanh nghiệp không phải là một cái gì đó tự nghĩ ra một cách ngẫu nhiên, nó được hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh thực tiễn, trong quá trình liên hệ, tác động qua lại và có quan hệ, như một giải pháp cho những vấn đề mà môi trường bên trong và bên ngoài đặt ra cho doanh nghiệp. VHDN thể hiện được những nhu cầu, mục đích và phương hướng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tạo cho doanh nghiệp có được màu sắc riêng, tức là nhân cách hóa doanh nghiệp đó. Văn hoá doanh nghiệp là cơ sở của toàn bộ các chủ trương, biện pháp cụ thể trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chi phối kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. chính vì vậy, có thể nói thành công hoặc thất bại của các doanh nghiệp đều gắn với việc có hay không xây dựng được văn hoá doanh nghiệp theo đúng nghĩa của khái niệm này. 2. Thành phần của văn hoá doanh nghiệp Văn hoá doanh nghiệp là hệ thống giá trị, là cái hồn của doanh nghiệp song nó không chỉ bao hàm những yếu tố vô hình, khó nhận biết mà rất hữu hình, thể hiện rõ một cách vật chất, chẳng những trong hành vi kinh doanh giao tiếp của cán bộ công nhân viên, mà cả trong hành hoá và dịch vụ của doanh nghiệp, từ mẫu mã, kiểu dáng đến nội dung và chất lượng. Những tính chất của văn hoá doanh nghiệp được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng thường hướng tới việc hình thành một tập hợp các khuôn mẫu hành vi được áp dụng trong các mối quan hệ xã hội trong tổ chức. Văn hoá trong một doanh nghiệp, ở bề nổi là các biểu trưng trực quan, những gì mọi người có thể dễ dàng nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy ví dụ như phong cách, màu sắc, kiểu 7 dáng kiến trúc, thiết kế, hành vi, trang phục, biểu tượng, lễ nghi, ngôn ngữ. Những biểu trưng trực quan này thể hiện những giá trị thầm kín hơn nằm sâu bên trong hệ thống tổ chức mà mỗi thành viên và những người hữu quan có thể cảm nhận được. Các biểu trưng phi trực quan bao gồm lý tưởng, niềm tin, bản chất mối quan hệ con người, thái độ và phương pháp tư duy, ảnh hưởng của truyền thống và lịch sử phát triển của tổ chức đối với các thành viên. Theo Edgar H.Schein, ông đã chia văn hoá doanh nghiệp thành các lớp khác nhau, sắp xếp theo thứ tự phức tạp và sâu sắc khi cảm nhận các giá trị văn hoá của doanh nghiệp. Thuật ngữ “lớp” dùng để chỉ mức độ có thể cảm nhận được của các giá trị văn hoá trong doanh nghiệp. Lý do của việc phân chia này là do văn hoá doanh nghiệp phục vụ hai chủ thể chính là chủ thể bên ngoài và chủ thể bên trong. Chủ thể bên ngoài là khách hàng, nhà cung cấp, người lao động. Chủ thể bên trong là nhà quản trị và nhân viên công ty. Việc phân loại như vậy sẽ giúp chúng ta hiểu rõ bản chất của văn hoá doanh nghiệp cũng như các biện pháp xây dựng văn hoá doanh nghiệp. Mô hình các lớp văn hoá doanh nghiệp: - Những quá trình và cấu trúc hữu hình của doanh nghiệp - Những giá trị được chấp nhận - Những quan niệm chung 2.1. Những quá trình và cấu trúc hữu hình của doanh nghiệp Đây là nội dung rõ ràng, là tầng bề mặt dễ quan sát nhất của văn hoá doanh nghiệp. Lớp này bao gồm tất cả những hiện tượng và sự vật mà một người có thể nhìn thấy, nghe thấy và cảm thấy khi tiếp xúc với một tổ chức có nền văn hoá xa lạ. Những quá trình và cấu trúc hữu hình của doanh nghiệp 8 bao gồm 5 nhóm yếu tố. 2.1.1. Kiến trúc của doanh nghiệp Bao gồm kiến trúc ngoại thất và thiết kế nội thất công sở. Từ sự tiêu chuẩn hóa về màu sắc, kiểu dáng đặc trưng, thiết kế nội thất như mặt bằng, quầy, bàn ghế, phòng, giá để hàng, lối đi, loại dịch vụ, trang phục đến những chi tiết nhỏ nhặt như đồ ăn, vị trí công tắc điện, thiết bị. Tất cả đều được sử dụng để tạo ấn tượng thiện trí với khách hàng cũng như cảm giác thân quen, được quan tâm cho nhân viên. Sở dĩ như vậy là vì kiến trúc ngoại thất có thể có ảnh hưởng quan trọng đến hành vi con người về phương diện cách thức giao tiếp, phản ứng và thực hiện công việc. Hơn nữa, công trình kiến trúc có thể được coi là một “linh vật” biểu thị một ý nghĩa, giá trị nào đó của một tổ chức, chẳng hạn: giá trị lịch sử gắn liền với sự ra đời và trưởng thành của tổ chức, các thế hệ nhân viên, xã hội, còn các kiểu dáng kết cấu có thể được coi là biểu tượng cho phương châm chiến lược của tổ chức. Trong xã hội ngày nay, các doanh nghiệp càng chú ý hơn tới kiến trúc, diện mạo của mình để khẳng định năng lực tài chính của doanh nghiệp cũng như uy thế trước các đối thủ, đối tác và khách hàng. 2.1.2. Các nghi lễ Đó là những hoạt động đã được dự kiến từ trước và chuẩn bị kỹ lưỡng dưới hệ thống các sự kiện văn hoá - xã hội chính thức, được thực hiện định kỳ hay bất thường nhằm thắt chặt mối quan hệ và thường được tổ chức vì lợi ích của những người tham dự. Những người quản lý có thể sử dụng nghi lễ như một cơ hội quan trọng để giới thiệu về những giá trị được tổ chức coi trọng, để nhấn mạnh những giá trị riêng của tổ chức, tạo cơ hội cho mọi thành viên cùng chia sẻ cách nhận thức về những sự kiện trọng đại, để nêu gương và khen tặng những tấm gương điển hình đại biểu cho những niềm tin và cách 9 thức hành động cần được tôn trọng. Có bốn loại nghi lễ cơ bản: chuyển giao (khai mạc, giới thiệu thành viên mới, chức vụ mới, lễ ra mắt), củng cố (lễ phát phần thưởng), nhắc nhở (sinh hoạt văn hoá, chuyên môn, khoa học), liên kết (lễ hội, liên hoan, tết). Trong các thành phần thì các sự kiện, lễ kỷ niệm là hoạt động sống động và dễ nhớ nhất đối với thành viên doanh nghiệp. Các nghi lễ thường được xem như sự tôn vinh văn hoá doanh nghiệp, giúp gợi nhớ và củng cố các giá trị văn hoá. 2.1.3. Biểu tượng, logo, bản tuyên bố sứ mệnh Biểu tượng là từ ngữ, vật thể, trạng thái, hành động hay các đặc điểm tạo nên sự khác biệt có ý nghĩa đối với cá nhân và nhóm. Bên cạnh biểu tượng, logo và bản tuyên bố sứ mệnh cũng là hai thứ dễ thấy và cho ta cái nhìn cơ bản về văn hoá doanh nghiệp. Logo là một tác phẩm sáng tạo được thiết kế để thể hiện hình tượng về một tổ chức, một doanh nghiệp bằng ngôn ngữ nghệ thuật phổ thông. Hình ảnh này thường có sức mạnh rất lớn vì chúng hướng sự chú ý của người quan sát vào một chi tiết hay điểm nhấn cụ thể, có thể diễn đạt được giá trị chủ đạo mà tổ chức, doanh nghiệp muốn tạo ấn tượng, lưu lại hay truyền đạt cho người thấy nó. Đây là loại biểu trưng đơn giản nhưng lại có ý nghĩa rất lớn nên được các tổ chức, doanh nghiệp rất coi trọng. Nếu như logo thể hiện hình ảnh trừu tượng nhưng có ý nghĩa cô đọng và bao quát nhất về doanh nghiệp thì bản tuyên bố sứ mệnh xác định tầm nhìn dài hạn của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ làm gì và phục vụ cho ai. 2.1.4. Ngôn ngữ, khẩu hiệu Trong thực tế, để làm việc được cùng với nhau chúng ta cần phải có sự hiểu biết lẫn nhau thông qua việc dùng chung một ngôn ngữ. Phong cách giao 10 tiếp ngôn ngữ của nhân viên với nhau, với khách hàng hay cấp trên đều thể hiện nét văn hoá doanh nghiệp. Tuy vậy, mỗi cá nhân có phong cách giao tiếp khác nhau, chính vì thế sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hình ảnh và cách nhìn nhận của khách hàng, nhà cung cấp đối với công ty. Xây dựng một phong cách giao tiếp chuẩn cho toàn thể công nhân viên là một tiêu chí vô cùng quan trọng trong việc xây dựng văn hoá và thương hiệu cho doanh nghiệp. Nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã sử dụng những câu chữ đặc biệt, khẩu hiệu, ví von, ẩn dụ hay một sắc thái ngôn ngữ để truyền tải một ý nghĩa cụ thể đến nhân viên của mình và những người hữu quan. Khẩu hiệu là hình thức dễ nhập tâm và được không chỉ nhân viên mà cả khách hàng và nhiều người khác luôn nhắc đến. Với nhiệm vụ phải đi vào tiềm thức của khách hàng, khẩu hiệu cần nêu bật được những gì mà doanh nghiệp muốn nhắn nhủ hay nói cách khác là phải mang trong mình thông điệp ấn tượng. Khẩu hiệu thường rất ngắn gọn, hay sử dụng các ngôn từ đơn giản, dễ nhớ và nhấn mạnh vào lợi ích sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Khẩu hiệu là cách diễn đạt cô đọng nhất của triết lý hoạt động, kinh doanh của một tổ chức, một công ty. Vì vậy, chúng cần được liên hệ với bản tuyên bố sứ mệnh của tổ chức, công ty để hiểu được ý nghĩa tiềm ẩn của chúng. 2.1.5. Giai thoại Giai thoại là những câu chuyện về quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp, về những năm tháng gian khổ và vinh quang của doanh nghiệp hay về một nhân vật anh hùng của doanh nghiệp (nhất là hình tượng người sáng lập, thủ lĩnh). Các câu chuyện này thường được thêu dệt từ những sự kiện có thực được mọi thành viên trong tổ chức cùng chia sẻ và nhắc lại với những thành viên mới. Nhiều mẩu chuyện kể về những nhân vật có công trong quá trình xây dựng và phát triển doanh nghiệp như những mẫu hình lý 11 tưởng về chuẩn mực đạo đức và giá trị VHDN. Một số khác có thể trở thành biểu tượng chứa đựng những giá trị và niềm tin trong tổ chức và đôi khi không được chứng minh bằng các bằng chứng thực tế. Các mẩu chuyện có tác dụng duy trì sức sống cho các giá trị ban đầu của doanh nghiệp, truyền đạt, nuôi dưỡng những giá trị tốt đẹp, các nguyên tắc chung và giúp đoàn kết, thống nhất về nhận thức của tất cả mọi thành viên. 2.2. Những giá trị được chấp nhận Các giá trị được chấp nhận bao gồm những chiến lược, mục tiêu và các triết lý kinh doanh của doanh nghiệp trong quá trình giải quyết các vấn đề để thích ứng với bên ngoài và hội nhập vào bên trong tổ chức. Những người khởi xướng, sáng lập ra doanh nghiệp và nhà lãnh đạo kế cận khi đề ra các quy định, nguyên tắc, triết lý, tư tưởng đều yêu cầu mọi thành viên phải tuần theo. Trải qua thời gian áp dụng, các nguyên tắc, triết lý, tư tưởng đó sẽ trở thành niềm tin, thông lệ và quy tắc ứng xử chung mà mọi thành viên đều thấm nhuần, tức là trở thành “những giá trị được chấp nhận”. Những giá trị được chấp nhận cũng có tính hữu hình vì người ta có thể nhận biết và diễn đạt chúng một cách rõ ràng và chính xác. Chúng thực hiện chức năng hướng dẫn cho các thành viên trong doanh nghiệp cách thức đối phó với một tình huống cơ bản và rèn luyện cách ứng xử cho các thành viên mới trong môi trường doanh nghiệp. Hệ thống các giá trị này trở thành hiện thân của triết lý kinh doanh và là kim chỉ nam cho doanh nghiệp khi phải đối phó với những vấn đề khó khăn. Hình thức thể hiện điển hình nhất của những giá trị được chấp nhận là triết lý kinh doanh. Triết lý kinh doanh là những giá trị, nguyên tắc mang tính định hướng cho hoạt động, hành vi của các thành viên trong doanh nghiệp, nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong sản xuất - kinh doanh. 12 Triết lý kinh doanh vạch
Luận văn liên quan