Văn hóa vốn gắn liền với toàn bộ cuộc sống và sự phát triển của xã hội. Con người ra đời cùng với văn hóa, trưởng thành nhờ văn hóa, hướng tới tương lai cũng từ văn hóa. Văn hóa của một dân tộc trước hết thể hiện ở bản sắc của dân tộc ấy. Bản sắc dân tộc có vai trò định hướng cho sự lựa chọn trong hành động của con người. Vai trò của văn hóa đã được Đại hội VIII khẳng định “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và là động lực thúc đẩy sự phát triển cuả xã hội”. Với lời khẳng định ấy, có thể thấy văn hóa đã kết tinh những giá trị tinh thần cốt lõi, đặc sắc và có tính trường tồn trong lịch sử dân tộc. Và dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn hóa Việt Nam ngày càng hoàn thiện, góp phần hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hóa tạo nên nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Do đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội và nhiều nhân tố ảnh hưởng khác nhau nên đã hình thành các vùng văn hóa khác nhau. Từ đó, văn hóa của các dân tộc cũng có những điểm khác biệt mang tính đặc thù. Một trong các vùng văn hóa ấy là vùng văn hóa Trung Bộ (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận). Đây là vùng văn hóa rộng lớn gồm nhiều dân tộc sinh sống, có sự giao lưu và tiếp biến văn hóa Chăm. Mỗi dân tộc với những đặc điểm riêng, đều sớm hình thành những nét văn hóa, độc đáo của mình. Nhờ đó, đã có nhiều đóng góp lớn lao với cộng đồng dân tộc trên mọi lĩnh vực văn hóa, xã hội.
Dân tộc Ê-đê là dân tộc có nền văn hóa truyền thống đặc sắc trong 54 dân tộc thiểu số ở nước ta. Cũng như mọi dân tộc khác, người Ê-đê ở Phú Yên đã sớm hình thành giá trị văn hóa mang màu sắc riêng. Nền văn hóa ấy ảnh hưởng sâu xa đến từng cá nhân trong cộng đồng người Ê-đê, góp phần làm tăng thêm giá trị cho nền văn hóa đa dân tộc vùng Trung Bộ Việt Nam.
77 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7008 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Văn hóa truyền thống của người Ê - Đê, xã eabar huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
KHOA NGỮ VĂN & VĂN HÓA HỌC
NGÀNH VĂN HÓA HỌC
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ, XÃ EABAR HUYỆN SÔNG HINH, TỈNH PHÚ YÊN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC K.33
GVHD : ThS. VÕ THỊ THÙY DUNG
SVTH : TRẦN XUÂN HẠNH
Đà Lạt, 2013
LỜI CẢM ƠN
&
Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin gửi lời chân thành cảm ơn đến quý Thầy, Cô trong Khoa Ngữ Văn & Văn Hóa Học-Trường Đại học Đà Lạt đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Thạc sỹ Võ Thị Thùy Dung, người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ, truyền đạt kiến thức, hướng dẫn cho tôi trong suốt thời gian thực hiện khóa luận tốt nghiệp Đại học.
Đồng thời, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến các cô, các chú trong Ủy Ban Nhân Dân xã Eabar và những người dân tại địa phương đã cung cấp những tài liệu, những hiểu biết và giúp đỡ nhiệt tình cho tôi trong suốt thời gian điền dã tại địa phương.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cám ơn sâu nặng tới gia đình, bạn bè những người thân, đã luôn quan tâm ủng hộ và giúp đỡ trong suốt năm học vừa qua cũng như trong suốt quá trình thực hiện khóa luận của mình.
Đà Lạt, tháng 5, năm 2013
Tác giả
Trần Xuân Hạnh
LỜI CAM ĐOAN
&
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Nội dung, kết quả nghiên cứu và các số liệu trong khóa luận chưa được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm với những quy chế của nhà trường với sự cam đoan này.
Đà Lạt, tháng 5 năm 2013
Tác giả
Trần Xuân Hạnh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa vốn gắn liền với toàn bộ cuộc sống và sự phát triển của xã hội. Con người ra đời cùng với văn hóa, trưởng thành nhờ văn hóa, hướng tới tương lai cũng từ văn hóa. Văn hóa của một dân tộc trước hết thể hiện ở bản sắc của dân tộc ấy. Bản sắc dân tộc có vai trò định hướng cho sự lựa chọn trong hành động của con người. Vai trò của văn hóa đã được Đại hội VIII khẳng định “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và là động lực thúc đẩy sự phát triển cuả xã hội”. Với lời khẳng định ấy, có thể thấy văn hóa đã kết tinh những giá trị tinh thần cốt lõi, đặc sắc và có tính trường tồn trong lịch sử dân tộc. Và dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn hóa Việt Nam ngày càng hoàn thiện, góp phần hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hóa tạo nên nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Do đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội và nhiều nhân tố ảnh hưởng khác nhau nên đã hình thành các vùng văn hóa khác nhau. Từ đó, văn hóa của các dân tộc cũng có những điểm khác biệt mang tính đặc thù. Một trong các vùng văn hóa ấy là vùng văn hóa Trung Bộ (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận). Đây là vùng văn hóa rộng lớn gồm nhiều dân tộc sinh sống, có sự giao lưu và tiếp biến văn hóa Chăm. Mỗi dân tộc với những đặc điểm riêng, đều sớm hình thành những nét văn hóa, độc đáo của mình. Nhờ đó, đã có nhiều đóng góp lớn lao với cộng đồng dân tộc trên mọi lĩnh vực văn hóa, xã hội.
Dân tộc Ê-đê là dân tộc có nền văn hóa truyền thống đặc sắc trong 54 dân tộc thiểu số ở nước ta. Cũng như mọi dân tộc khác, người Ê-đê ở Phú Yên đã sớm hình thành giá trị văn hóa mang màu sắc riêng. Nền văn hóa ấy ảnh hưởng sâu xa đến từng cá nhân trong cộng đồng người Ê-đê, góp phần làm tăng thêm giá trị cho nền văn hóa đa dân tộc vùng Trung Bộ Việt Nam.
Những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài cơn lốc ấy. Đặc biệt, kinh tế thị trường với những ưu điểm và mặt trái của nó có ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó có văn hóa của dân tộc Ê-đê ở Phú Yên. Trước tác động của cơ chế thị trường, của mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa hiện nay, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của người Ê-đê nói chung, và người Ê-đê ở Phú Yên nói riêng đang bị mai một, pha trộn, lai căng. Đó là điều rất đáng quan tâm. Vì thế, chúng tôi thấy, cần phải có thêm nhiều tài liệu giúp cho mọi người đặc biệt là lớp trẻ được tiếp cận với kho tàng truyền thống của dân tộc mình, để hiểu và để tạo nên niềm tự hào về quê hương, dân tộc.
Là một người sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này hơn 20 năm, từng chứng kiến sự đổi thay về văn hóa, con người, kinh tế, chính trị, chúng tôi không khỏi có những trăn trở và suy tư. Do đó, góp một tiếng nói tri ân-tình cảm, một góc nhìn từ góc độ người làm văn hóa nhằm góp phần bảo tồn vùng đất, con người và tìm hiểu một cách hệ thống hơn nét đẹp văn hóa truyền thống của những con người nơi mảnh đất Eabar là điều chúng tôi thật sự mong muốn. Và đề tài “Văn hóa truyền thống của người Ê-đê, xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên” là cơ hội quý giá để chúng tôi thực hiện những mong muốn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài khảo sát thực địa tại địa phương, cụ thể là xã Eabar để tìm hiểu đời sống văn hóa của đồng bào nơi đây. Đồng thời, tìm hiểu điều kiện tự nhiên, lịch sử đã chi phối như thế nào đến đời sống văn hóa của người dân. Thông qua tìm hiểu đời sống văn hóa truyền thống, phong tục tập quán làm ăn sinh sống của đồng bào, người nghiên cứu cũng chỉ ra những tác nhân tạo nên văn hóa truyền thống của văn hóa đồng Ê-đê nơi đây. Từ đó, có cơ sở để đề xuất phương hướng bảo tồn cũng như phát triển văn hóa truyền thống của đồng bào Ê-đê tại xã Eabar nói riêng và người Ê-đê ở các địa phương khác nói chung nhằm tạo sợi tơ lung linh sắc màu trong tấm thảm muôn màu được dệt thành bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là hết sức khó khăn, nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa như hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu văn hóa truyền thống người Ê-đê ở xã Eabar là việc làm hết sức cấp bách, cần tiến hành nhanh chóng và cần có sự phối hợp của các ban ngành đoàn thể. Nếu không, những nét văn hóa truyền thống sẽ bị rơi vào quên lãng, thậm chí sẽ bị mất đi dưới tác động của cơ chế thị trường. Nhất là, khi mà những đòi hỏi về đời sống vật chất đang ngày càng tác động làm thay đổi cuộc sống bà con, thì việc nghiên cứu tìm hiểu, bảo tồn và phát huy là điều vô cùng khó khăn. Vì vậy, qua đề tài này chúng tôi muốn cho người đọc một cái nhìn cụ thể và toàn diện hơn về dân tộc Ê-đê ở xã Eabar trên phương diện văn hóa truyền thống.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Ê-đê tại xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Đề tài chúng tôi chọn để tiến hành nghiên cứu là “Văn hóa truyền thống của người Ê-đê, xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên”, nhưng trong phạm vi một khóa luận, để đưa đến một cái nhìn toàn diện và cảm nhận sâu sắc về văn hóa truyền thống của một dân tộc là điều không dễ. Làm được điều đó cần có thời gian nghiên cứu một cách cụ thể, rõ ràng. Chính vì vậy, tránh việc dàn trải tràn lan nên chúng tôi tập trung nghiên cứu vào vấn đề văn hóa hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Qua đó, đem ra so sánh người Ê-đê ở xã Eabar với các nhóm Ê-đê ở các địa phương khác. Các yếu tố văn hóa truyền thống khác chúng tôi sẽ sử dụng để làm cơ sở để so sánh và chứng minh cho vấn đề trên.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Người Ê-đê đã có mặt rất sớm ở xã Eabar, chủ yếu là cư dân phần lớn di cư và chuyển từ các tỉnh Tây Nguyên qua Phú Yên. Dấu vết của dân tộc Ê-đê tại xã Eabar đã phản ánh đậm nét trong các sử thi và trong nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng Ê-đê vẫn còn là xã hội mang dấu ấn mẫu hệ đậm nét ở nước ta, có giá trị đóng góp không nhỏ vào kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, từ lâu đã có rất nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu tìm hiểu và nhiều người quan tâm.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về người Ê-đê ở Phú Yên hiện nay không nhiều. Có thể kể lên đây một vài công trình nghiên cứu về văn hóa người Ê-đê tại Phú Yên như La province de Phu Yen của A.Laborde xuất bản năm 1929 có nhắc đến nhóm cư dân sinh sống ở vùng cao Phú Yên. Công trình của ông đã đặt cột mốc và tạo cơ sở bước đầu để các học giả tiếp tục nghiên cứu về người Ê-đê ở Phú Yên nói chung và xã Eabar nói riêng.
Những năm sau 1980, các nhà dân tộc học Việt Nam tiến hành nhiều đợt khảo sát ở vùng văn hóa Tây Nguyên bao gồm khu vực có người Ê-đê cư trú, theo đó nhiều công trình được xuất bản như:
Đại cương về dân tộc Ê-đê, M’nông ở Đăk Lăk (1982) của Bế Viết Đẳng, Chu Thái Sơn, Vũ Thị Hồng, Vũ Đình Lợi. Công trình này đã trình bày những vấn đề chung nhất về đời sống của hai dân tộc Ê-đê, M’nông trên các phương diện: thiên nhiên và dân cư (đặc điểm địa lý, sự phân bố dân cư và thành phần dân tộc, vài nét về truyền thống văn hóa, nguồn gốc lịch sử, những đặc điểm nhân chủng của các dân tộc Ê-đê, M’nông) kinh tế và xã hội. Đặc biệt, ở phần thứ 3 (chương 1) của công trình, tác giả Chu Thái Sơn đã đề cập đến văn hóa vật chất của người Ê-đê. Và ở chương 3, tác giả Vũ Đình Lợi cũng đã đề cập đến những lễ nghi-phong tục trong chu kỳ đời sống của người Ê-đê nhưng chỉ bó hẹp trong phạm vi 8 trang (157-164). Nên những gì mà tác giả trình bày còn ở mức độ sơ lược, chỉ mang tính gợi mở, nhưng lại là cơ sở để người nghiên cứu kế thừa và phát triển.
Người Ê-đê, một xã hội mẫu quyền của bà Anne De Hauteloque xuất bản năm 2004 là kết quả của 14 tháng sống cùng, sinh hoạt cùng, hòa nhập vào cuộc sống của cư dân tại buôn Põk, Đăk Lăk của bà. Anne De Hauteloque đã đề cập đến vị trí của người đàn ông và người phụ nữ trong xã hội Ê-đê. Đồng thời, đi sâu nghiên cứu và giới thiệu về cơ cấu tổ chức, các quan hệ xã hội của dân tộc Ê-đê, nhấn mạnh khẳng định xã hội Ê-đê là xã hội mẫu quyền điển hình nhất ở Tây Nguyên.
Đặc biệt khi nói đến công trình nghiên cứu về người Ê-đê ở Phú Yên nếu không nói đến công trình Người Ê-đê M’dhur ở Phú Yên của Lê Thế Vịnh, Nguyễn Thị Hòa, Y-Điêng do Sở Khoa học Công nghệ Phú Yên xuất bản tháng 12 năm 2005 quả là một thiếu sót. Bởi lẽ, đây là công trình đã nêu cụ thể về văn hóa tộc người Ê-đê trên cả hai phương diện văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tiếc là công trình này chưa thật sự đi sâu sát vào văn hóa truyền thống cụ thể của từng địa bàn, chưa cập nhật đầy đủ các thông tin và số liệu cần thiết ở mỗi địa bàn cụ thể.
Bên cạnh đó, khá nhiều công trình nghiên cứu về người Ê-đê đăng trên các tạp chí như:
Một số đặc điểm xã hội của các dân tộc Trường Sơn-Tây Nguyên, tạp chí Dân tộc học số 1, 1954.
Bàn về lịch sử tộc người và đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa cư dân Tây Nguyên của Chu Thái Sơn, tạp chí Dân tộc học số 2-1979.
Mấy nhận xét về hôn nhân và gia đình của người Ê-đê của Nông Hoàng Cư, tạp chí Dân tộc học số 3-1980.
Tổ chức làng cổ truyền của các dân tộc Tây Nguyên của Phan Xuân Biên, tạp chí Dân tộc học số 3-1985.
Những thay đổi trong tập quán sử dụng nước của người Ê-đê của tác giả Nguyễn Trường Giang, tạp chí Dân tộc học số 3-2001.
Dấu vết bào tộc của người Ê-đê của tác giả Phan Hữu Dật, tạp chí Dân tộc học số 5-2002.
v.v.v…
Tuy nhiên, có thể thấy rằng, các học giả chỉ nghiên cứu ở những địa bàn lớn, riêng nghiên cứu về văn hóa truyền thống ở xã Eabar thì hiện chưa có công trình nào. Nhất là, qua thời gian, khi mà nhà nước can thiệp vào cuộc sống của người Ê-đê như xây dựng nông thôn mới, bê tông hóa các công trình…rồi yếu tố cơm, áo, gạo, tiền đòi hỏi người Ê-đê phải chạy theo kinh tế, để mưu sinh, lo toan cho cuộc sống, thì những yếu tố văn hóa truyền thống có gì biến đổi vẫn chưa được quan tâm.
Vì vậy đó là những cơ sở để người nghiên cứu có thể mạnh dạn lựa chọn “Văn hóa truyền thống của người Ê-đê, xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên” để làm đề tài khóa luận nhằm đem lại cái nhìn rõ nét và toàn diện nhất về văn hóa truyền thống của người Ê-đê ở Phú Yên.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp liên ngành dân tộc học - văn hóa học. Thông qua quá trình điền dã, thu thập thông tin, quan sát cuộc sống của người Ê-đê ở địa bàn xã Eabar, chúng tôi sẽ đưa đến cho người đọc một cái nhìn cụ thể, thực tế về người Ê-đê trên 3 phương diện: văn hóa vật chất, văn hóa xã hội, văn hóa tinh thần. Phương pháp so sánh cũng là phương pháp được chú trọng để rút ra những điểm chung và những nét khác biệt so với các tộc người Ê-đê ở các địa phương khác.
Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng phương pháp định tính, định lượng, phương pháp tổng hợp và phân tích… khi cần thiết, nhằm thu thập, đưa ra các lý giải rõ hơn về văn hóa truyền thống của đồng bào Ê-đê xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên.
6. Đóng góp của khóa luận
Mặc dù đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về tộc người Ê-đê, nhưng đến nay vẫn chưa có nghiên cứu cụ thể nào mang tính hệ thống, khái quát cụ thể về một tộc người Ê-đê cư trú tại xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Nên với công trình nhỏ này, chúng tôi mong muốn tìm hiểu những giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Ê-đê một cách toàn diện và đầy đủ nhất.
Khóa luận góp phần giúp độc giả hình dung, nhìn nhận, đánh giá về văn hóa truyền thống của dân tộc Ê-đê xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Đồng thời, giúp cư dân, đặc biệt là giới trẻ nhận thấy được giá trị văn hóa truyền thống của tộc người mình và đánh giá thực trạng của vấn đề để có phương hướng phục dựng và bảo tồn các giá trị văn hóa tốt đẹp của đồng bào. Thông qua việc tìm hiểu văn hóa truyền thống của người Ê-đê ở một không gian hẹp, chúng tôi hy vọng sẽ góp thêm tư liệu cho những người đam mê nghiên cứu về văn hóa tộc người Ê-đê ở Việt Nam nói chung và người Ê-đê ở xã Eabar nói riêng.
Cuối cùng, với việc nghiên cứu về văn hóa truyền thống của người Ê-đê xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên, hy vọng đề tài của chúng tôi sẽ đóng góp một phần nhỏ bé trong việc nghiên cứu và bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tộc người một cách khoa học nhất.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Phụ lục, khóa luận được chia thành ba chương như sau:
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Tổng quan về xã Eabar huyện Sông Hinh tỉnh Phú Yên
1.2. Khái quát về đồng bào dân tộc Ê-đê xã Eabar huyện Sông Hinh tỉnh Phú Yên
Chương 2. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ, XÃ EABAR, HUYỆN SÔNG HINH, TỈNH PHÚ YÊN
2.1. Văn hóa vật chất
2.2. Văn hóa xã hội
2.3. Văn hóa tinh thần
Chương 3. BIẾN ĐỔI VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ, XÃ EABAR, HUYỆN SÔNG HINH, TỈNH PHÚ YÊN
3.1. Biến đổi văn hóa truyền thống của người Ê-đê ở Eabar
3.2. Tác nhân biến đổi văn hóa truyền thống
3.3. Vấn đề bảo tồn văn hóa truyền thống
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Tổng quan về xã Eabar huyện Sông Hinh tỉnh Phú Yên
1.1.1. Vị trí địa lý
Phú Yên là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung bộ, diện tích tự nhiên là 5.060 km2, phía Bắc giáp tỉnh Bình Định, phía nam giáp tỉnh Khánh Hòa, phía tây giáp tỉnh Gia Lai và Đăk Lăk, phía đông giáp biển Đông. Phú Yên có vị trí địa lý và giao thông tương đối thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Tỉnh có 09 đơn vị hành chính gồm các huyện: Đồng Xuân, Đông Hòa, Sông Hinh, Sơn Hòa, Phú Hòa, Tây Hòa, Tuy An, thị xã Sông Cầu và thành phố Tuy Hòa (là trung tâm tỉnh lỵ).
Huyện Sông Hinh là huyện miền núi được thành lập từ ngày 25/02/1985 trên cơ sở chia cách huyện Tây Sơn thành hai huyện Sơn Hòa và Sông Hinh. Huyện Sông Hinh nằm ở phía tây nam Phú Yên, phía tây nam giáp tỉnh Đăk Lăk, tây bắc giáp tỉnh Gia Lai. Diện tích tự nhiên 886 km2, tổng dân số 45.860 người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 46% dân số. Dân cư tập trung ở khu vực thành thị 10.639 người, nông thôn 35.221 người trên địa bàn 10 xã (Sơn Giang, Đức Bình Đông, Đức Bình Tây, Eabia, Eabá, Eabar, Eatrol, Sông Hinh, Ealâm, Ealy) và một thị trấn (Hai Riêng).
Xã Eabar là xã miền núi thuộc huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên được tách ra từ xã EaBá vào ngày 15 tháng 11 năm 1991 và đó được coi như là ngày thành lập xã. Xã có diện tích tự nhiên là 10.185 ha, nằm trên đường quốc lộ DT645, cách thị trấn Hai Riêng chừng 15km. Phía tây giáp với xã Ealy, phía đông giáp huyện Sông Hinh, phía bắc giáp xã Ea Lâm, phía nam giáp với huyện M’Drak, tỉnh Đăk Lăk.
Trên địa bàn xã có các tuyến giao thông quan trọng nối với các khu vực trong và ngoài tỉnh, là cầu nối các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ với các tỉnh Tây nguyên, tạo điều kiện thuận lợi trong trao đổi hàng hóa (đặc biệt là giao lưu, buôn bán cà phê và mủ cao su với các tỉnh Tây Nguyên, trao đổi, buôn bán nguyên liệu làm giấy với tỉnh Khánh Hòa, vì nơi đây có diện tích trồng cây keo, tràm nằm rải rác khắp địa bàn xã) tạo liên kết hợp tác phát triển kinh tế - xã hội thông qua quốc lộ DT 645. Trong tương lai khi tuyến đường Đông Trường Sơn đi qua xã hoàn thành thì khả năng trao đổi hàng hóa càng thuận lợi hơn.
Xã Eabar là xã vừa có vị trí quan trọng về quốc phòng, vừa là vùng giao lưu văn hóa giữa các tỉnh duyên hải miền Trung với địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Với các dân tộc cùng sinh sống như: Ê-đê, Bana, Kinh, Tày, Nùng, Dao, Thái… nên đời sống văn hóa hết sức phong phú và đa dạng. Việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa của đồng bào các dân tộc xã Eabar từng bước được chú trọng đầu tư. Một số lễ hội văn hoá và văn nghệ dân gian của đồng bào dân tộc Ê-đê (dân tộc bản địa) đã được phục dựng và bảo tồn như: lễ hội cồng ching Những người Ê-đê cao tuổi ở xã Eabar quen gọi Cồng chiêng là “đồng la” hoặc Cồng ching. Nên trong khóa luận này chúng tôi thống nhất tên gọi là cồng ching.
, lễ bỏ mả, lễ cầu mưa, lễ mừng nhà mới, lễ cúng vòng đời... Các loại nhạc cụ như: sáo đất, đàn Goong… cũng được các nghệ nhân quan tâm và gìn giữ.
Là vùng đất có lịch sử phát triển lâu đời, giàu truyền thống hào hùng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Cùng nằm ở rìa phía Đông của dãy Trường Sơn và tiếp giáp với Tây Nguyên nên khí hậu huyện Sông Hinh, trong đó có xã Eabar có đặc điểm chung là vừa chịu ảnh hưởng khí hậu vùng Tây Nguyên, vừa ảnh hưởng khí hậu vùng duyên hải miền Trung. Nơi đây, mỗi năm có 2 mùa: mùa nắng bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 9, đôi khi có gió Tây Nam khô nóng hoạt động khá mạnh, mùa mưa rơi vào tháng 9 và tháng 10 đôi khi kéo dài đến tháng 1 năm sau. Nhiệt độ trung bình 24,90C.
* Sông ngòi
Là một xã có ít hệ thống sông ngòi nên từ khi thành lập xã đã triển khai đắp đê làm hồ chứa nước. Hiện toàn xã có 6 hồ chứa nước lớn, chưa kể các hồ chứa nước nhỏ do các hộ gia đình khai phá để phục vụ cho việc tưới tiêu sản xuất của bà con trên địa bàn.
* Về đất đai
Tổng diện tích tự nhiên trên toàn xã là 10.185 ha. Trong đó diện tích đất nông nghiệp là 7.258,17 ha, đất lâm nghiệp 2.262,8 ha, đất chuyên dùng là 253,72 ha, đất nông thôn 295 ha, đất chưa sử dụng 869,68 ha, đất mặt nước chuyên dùng là 242,8 ha. Ở xã Eabar đất đỏ và đất pha cát chiếm phần lớn diện tích.
* Về rừng
Theo số liệu từ Ủy Ban Nhân Dân xã thì đất lâm nghiệp là 2.262,8 ha, chủ yếu là rừng trung bình, nhưng đây là nơi bao bọc, tập trung nhiều loại động thực vật, người dân quen gọi là “Hòn đen” Hòn đen là tên gọi quen thuộc của những người Ê-đê xã Eabar. Đó là một dãy núi bao bọc xã Eabar, nằm ở phía tây nam của xã.
. Nơi đây có nhiều loại gỗ, cây thuốc quý như cẩm lai, trắc, mun, hà thủ ô, chò chỉ…động vật có khỉ, hươu, vooc, vượn, trâu rừng.
1.1.3. Tình hình xã hội
Xã Eabar là một xã nghèo thuộc diện đầu tư của chương trình 134 và 135 của chính phủ. Toàn xã có 8 thôn trong đó 4 thôn người Việt: thôn Eadin, thôn Ea Mkeng, thôn Chư Blôi, thôn Tân An và 4 thôn buôn đồng bào dân tộc Ê-đê: buôn Chung, buôn Thứ, buôn Trinh, buôn Quen.
Đồng bào các dân tộc thiểu số xã Eabar sống theo dòng họ hình thành nên các buôn làng và có sự đan xen với người Việt trong địa bàn các thôn buôn. Tổng dân số toàn xã là 5.486 người. Trong đó dân tộc Ê-đê là 1.866 người, dân tộc Tày, Nùng 302 người, còn lại là người Việt.
Xã Eabar được thành lập năm 1991. Là một xã vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn nên nền kinh tế ở đây còn rất khó