Kiểm soát chất lượng kiểm toán trong công ty kiểm toán độc lập

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán độc lập đã hình thành và phát triển ở Việt Nam trong hơn mười sáu năm qua, trở thành nhu cầu tất yếu đối với hoạt động kinh doanh và góp phần nâng cao chất lượng quản lý doanh nghiệp. Kiểm toán độc lập đã tham gia tích cực vào việc kiểm tra, đánh giá, xác nhận độ tin cậy của các thông tin kinh tế tài chính, góp phần đáng kể vào hoạt động sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa doanh nghiệp và thu hút các hoạt động đầu tư của nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế đất nước. Thiết lập và duy trì được một cơ chế kiểm soát chất lượng kiểm toán chặt chẽ, có hiệu quả, các công ty kiểm toán sẽ đảm bảo với các doanh nghiệp và các nhà đầu tư rằng: Kết quả kiểm toán trước khi đến với các nhà đầu tư đã được kiểm soát, chất lượng kiểm toán được bảo đảm. Từ đó củng cố được niềm tin của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư vào chất lượng kiểm toán, giúp gia tăng niềm tin của khách hàng và mở rộng thị trường. Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới WTO, mở ra một thời kỳ hội nhập mạnh mẽ với nền kinh tế khu vực và thế giới. Tình hình đó đã đặt ra yêu cầu phải nâng cao chất lượng trong mọi ngành nghề để có thể tồn tại và phát triển trong môi trường đầy cạnh tranh như hiện nay. Trong đó, hoạt động kiểm toán độc lập cũng không thể nằm ngoài quy luật trên. Vấn đề chất lượng và kiểm soát chất lượng đã trở thành vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp kiểm toán độc lập. Nội dung đề tài gồm các phần: I. Quá trình hình thành kiểm toán độc lập ở Việt Nam. II. Mục đích, phạm vi và thực trạng của kiểm toán độc lập. III. Một số vấn đề chủ yếu về kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập ở Việt Nam. IV. Thực trạng việc kiểm soát chất lượng kiểm toán ở các công ty kiểm toán độc lập. V. Các biện pháp nâng cao hiểu quả của quá trình kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán.

doc20 trang | Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 3376 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiểm soát chất lượng kiểm toán trong công ty kiểm toán độc lập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán độc lập đã hình thành và phát triển ở Việt Nam trong hơn mười sáu năm qua, trở thành nhu cầu tất yếu đối với hoạt động kinh doanh và góp phần nâng cao chất lượng quản lý doanh nghiệp. Kiểm toán độc lập đã tham gia tích cực vào việc kiểm tra, đánh giá, xác nhận độ tin cậy của các thông tin kinh tế tài chính, góp phần đáng kể vào hoạt động sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa doanh nghiệp và thu hút các hoạt động đầu tư của nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế đất nước. Thiết lập và duy trì được một cơ chế kiểm soát chất lượng kiểm toán chặt chẽ, có hiệu quả, các công ty kiểm toán  sẽ đảm bảo với các doanh nghiệp và các nhà đầu tư rằng: Kết quả kiểm toán trước khi đến với các nhà đầu tư đã được kiểm soát, chất lượng kiểm toán được bảo đảm. Từ đó củng cố được niềm tin của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư vào chất lượng kiểm toán, giúp gia tăng niềm tin của khách hàng và mở rộng thị trường. Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới WTO, mở ra một thời kỳ hội nhập mạnh mẽ với nền kinh tế khu vực và thế giới. Tình hình đó đã đặt ra yêu cầu phải nâng cao chất lượng trong mọi ngành nghề để có thể tồn tại và phát triển trong môi trường đầy cạnh tranh như hiện nay. Trong đó, hoạt động kiểm toán độc lập cũng không thể nằm ngoài quy luật trên. Vấn đề chất lượng và kiểm soát chất lượng đã trở thành vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp kiểm toán độc lập. Xuất phát từ vấn đề này, em đã lựa chọn đề tài: “Kiểm soát chất lượng kiểm toán trong công ty kiểm toán độc lập”. Nội dung đề tài gồm các phần: Quá trình hình thành kiểm toán độc lập ở Việt Nam. Mục đích, phạm vi và thực trạng của kiểm toán độc lập. Một số vấn đề chủ yếu về kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập ở Việt Nam. Thực trạng việc kiểm soát chất lượng kiểm toán ở các công ty kiểm toán độc lập. Các biện pháp nâng cao hiểu quả của quá trình kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán. I. Quá trình hình thành kiểm toán độc lập ở Việt nam Kiểm toán và đặc biệt là kiểm toán độc lập xuất hiện và phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán đã trở thành nhu cầu tất yếu đối với hoạt động kinh doanh và nâng cao chất lượng quản lý của các doanh nghiệp. Ở Việt nam, hoạt động kiểm toán xuất hiện trong điều kiện nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Trước năm 1975 đã có văn phòng kiểm toán của các công ty kiểm toán quốc tế hoạt động ở Sài gòn. Sau khi đất nước thống nhất, hoạt động kiểm toán của các văn phòng này không còn thích hợp với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung lúc bấy giờ. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, các hoạt động kinh tế được chỉ đạo thống nhất, định sẵn. Cùng với chế độ sở hữu tập thể đã dẫn đến việc xác định quyền lợi, trách nhiệm, quyền hạn của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cùng các cấp lãnh đạo khác không rõ ràng. Việc kiểm tra các thông tin kinh tế ở thời kỳ này mang tính tuân thủ là chủ yếu và việc kiểm tra được thực hiện bởi các cơ quan chức năng (thuế, tài chính, cơ quan chủ quản...). Các thông tin này là cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch và xây dựng kế hoạch cho giai đoạn tiếp theo. Mặt khác với cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì không thể tồn tại một doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh tế nào được xem là độc lập để thực hiện đầy đủ chức năng kiểm toán. Do vậy vào thời kỳ này không xuất hiện nhu cầu về kiểm toán. Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, các loại hình doanh nghiệp theo các hình thức sở hữu khác nhau được thành lập và phát triển mạnh, các doanh nghiêp này đóng vai trò và ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế, đồng thời các doanh nghiệp nhà nước chuyển sang thực hiện cơ chế hạch toán kinh doanh độc lập. Với sự chuyển đổi này cho thấy đã xuất hiện đầy đủ các điều kiện và yêu cầu cho sự ra đời của hoạt động kiểm toán độc lập đó là: - Về khách quan: Do có sự đầu tư nước ngoài vào Việt nam, tất sẽ phát sinh nhu cầu cần phải có hoạt động kiểm toán cũng như nhu cầu tư vấn của bản thân các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đây là thông lệ và cũng là yêu cầu của công ty mẹ. Mặt khác về phía quản lý nhà nước cũng cần phải có được thông tin đáng tin cậy để đánh giá thực trạng đầu tư cũng như thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong khi không thể áp dụng các hình thức duyệt quyết toán như đối với các doanh nghiệp nhà nước. - Về chủ quan: Khi tính chủ động trong kinh doanh của các doanh nghiệp được phát huy, các doanh nghiệp hạch toán kinh doanh độc lập, theo đó các yêu cầu thông tin kinh tế trung thực và đáng tin cậy là hết sức quan trọng. Các thông tin này không chỉ phục vụ cho cho một đối tượng là nhà nước mà còn phục vụ cho nhiều các đối tượng khác như Ngân hàng (tư cách là người cho vay), đối tác kinh doanh..... Với các yêu cầu mang tính khách quan và chủ quan như trình bày ở trên đã hình thành nhu cầu kiểm toán, theo đó Công ty kiểm toán đầu tiên của Việt nam được thành lập (tháng 5 năm 1991). Tiếp sau là hàng loạt các công ty kiểm toán khác ở mọi thành phần kinh tế cũng được thành lập. Như vậy sự xuất hiện kiểm toán ở Việt nam là tất yếu khách quan, hoạt động kiểm toán độc lập thực sự cần thiết trong nền kinh tế thị trường và là nhu cầu của nền kinh tế chứ không phải là sự bắt buộc của các qui định pháp lý. II. Mục đích và phạm vi và thực trạng của hoạt động kiểm toán độc lập 1) Mục đích của kiểm toán độc lập: Trong nền kinh tế thị trường các thông tin tài chính có độ tin cậy, chính xác và trung thực hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với các chủ thể trong các hoạt động kinh tế. Kiểm toán độc lập hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu này của nền kinh tế. Luật pháp nhiều nước khẳng định rằng, chỉ những báo cáo đã được xem xét và có chữ ký của kiểm toán viên độc lập mới được coi là hợp pháp, làm cơ sở cho nhà nước tính thuế cũng như các bên quan tâm khác đưa ra các quyết định kinh tế trong mối quan hệ với doanh nghiệp. ở nước ta, trong Quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân ban hành kèm theo Nghị định số 07/CP ngày 29/1/1994 của Chính phủ đã chỉ rõ “Sau khi có xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thì các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các đơn vị kế toán là căn cứ cho việc điều hành, quản lý hoạt động ở đơn vị, cho các cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan tài chính nhà nước xét duyệt quyết toán hàng năm của các đơn vị kế toán, cho cơ quan thuế tính toán số thuế và các khoản phải nộp khác của đơn vị đối với ngân sách Nhà nước, cho các cổ đông, các nhà đầu tư, các bên tham gia liên doanh, các khách hàng và các tổ chức, cá nhân xử lý các mối quan hệ về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong quá trình hoạt động của đơn vị”. Như vậy mục đích tổng quát của kiểm toán là cung cấp sự đảm bảo cho bên thứ ba là những người sử dụng các thông tin tài chính rằng các thông tin họ được cung cấp có trung thực, hợp lý hay không. Trong nền kinh tế thị trường, có nhiều đối tượng khác nhau sử dụng kết quả kiểm toán với những mục đích khác nhau. Đối với Ngân hàng, những đối tượng cho vay vốn, họ cần biết rằng số vốn họ cho vay có được sử dụng đúng mục đích hay không, tình hình tài chính của đơn vị có cho thấy khả năng hoàn trả hay không. Đối với cơ quan thuế, căn cứ vào báo cáo tài chính đã được kiểm toán để tính và thu thuế, tương tự, đối với các cơ quan chức năng cũng căn cứ vào báo cáo tài chính được kiểm toán để thực hiện chức năng của mình. Đối với doanh nghiệp được kiểm toán mong muốn, thông qua kiểm toán, có được báo cáo tài chính phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), phát hiện và ngăn ngừa các sai sót và gian lận. Đối với chủ sở hữu doanh nghiệp, các cổ đông họ cần biết một cách đầy đủ, đúng đắn về kết quả kinh doanh.... Tóm lại, kiểm toán phải mang lại sự thoả mãn cho những người sử dụng kết quả kiểm toán sự tin cậy, mức độ trung thực của các thông tin tài chính mà họ được cung cấp. 2) Phạm vi của kiểm toán độc lập Để hình thành ý kiến nhận xét về các báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải có được các căn cứ vững chắc cũng như các thông tin cốt yếu trong công việc ghi chép kế toán và các nguồn số liệu đáng tin cậy khác đã được dùng làm cơ sở cho việc xây dựng các báo cáo tài chính, hay nói cách khác, kiểm toán viên phải có đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp. Do vậy phạm vi kiểm toán sẽ là những công việc, thủ tục kiểm toán cần thiết mà kiểm toán viên xác định và thực hiện trong quá trình kiểm toán để thu thập đầy đủ các bằng chứng thích hợp cho ý kiến kiểm toán hay nói như chuẩn mực kiểm toán là để đạt được mục tiêu kiểm toán. Những công việc, thủ tục kiểm toán sẽ phụ thuộc vào nội dung kiểm toán, tuy nhiên những thủ tục kiểm toán này phải được xác định trên cơ sở chuẩn mực kiểm toán, phù hợp với yêu cầu của tổ chức nghề nghiệp, phù hợp với pháp luật và các thoả thuận trong hợp đồng kiểm toán. Các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp được thu thập thông qua các thủ nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản và bằng các phương pháp như kiểm tra, quan sát, điều tra, xác nhận, tính toán và qui trình phân tích. Việc thực hiện các phương pháp này một phần tuỳ thuộc vào thời gian thu thập các bằng chứng kiểm toán. Xác định phạm vi kiểm toán có ý nghĩa quan trọng, mà trước hết các đơn vị được kiểm toán cần có những hiểu biết nhất định về kiểm toán, yêu cầu của kiểm toán và việc các kiểm toán viên tiến hành các thủ tục kiểm toán mà họ cho là cần thiết theo đó tạo điều kiện, cung cấp đầy đủ cho kiểm toán viên. Việc các đơn vị được kiểm toán không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng kiểm toán, lẩn tránh trách nhiệm hoặc từ chối cung cấp những thông tin, bằng chứng cần thiết, hay ngăn chặn công việc của kiểm toán viên đều dẫn đến việc phạm vi kiểm toán bị giới hạn, trong trường hợp này, nếu kiểm toán viên không thể thực hiện được các thủ tục kiểm toán thay thế khác một cách hợp lý, khi đó cần đưa ra ý kiến từ chối. Tuy nhiên đôi khi do hạn chế về thời gian, hoàn cảnh cũng có thể dẫn đến phạm vi kiểm toán bị giới hạn. Trong những trường hợp như vậy, kiểm toán viên phải cố gắng tìm ra các phương pháp hợp lý để thu thập được các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp để có thể nêu ý kiến “chấp nhận toàn bộ” trong báo cáo kiểm toán. Nếu không, tuỳ theo tính chất, mức độ trọng yếu và các bằng chứng bổ sung mà kiểm toán viên đánh giá mức độ cần thiết đề đưa ra ý kiến phù hợp. 3) Thực trạng của hoạt động kiểm toán độc lập Hoạt động kiểm toán độc lập Việt Nam ra đời năm 1991 và ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nếu năm 1991 chỉ có 2 công ty kiểm toán độc lập và 15 nhân viên thì đến nay cả nước đã có hơn 136 công ty với hơn 5 nghìn nhân viên, cung cấp hơn 20 loại dịch vụ nghề nghiệp cho khách hàng. Tuy nhiên, trong đội ngũ kiểm toán viên nước ta hiện nay chỉ có hơn 888 kiểm toán viên hành nghề có chứng chỉ kiểm toán viên (thống kê của Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam - VACPA), trong số đó chỉ có khoảng 300 người có chứng chỉ kiểm toán viên quốc tế. Tính bình quân mỗi công ty kiểm toán mới chỉ có 6,5 kiểm toán viên có chứng chỉ. Có một số công ty kiểm toán chỉ có 3 kiểm toán viên với vỏn vẹn 6 khách hàng. Từ năm 2006 trở lại đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, môi trường kinh tế của Việt Nam càng đòi hỏi tính minh bạch trong thông tin tài chính. Ước tính, mức cầu từ dịch vụ kiểm toán độc lập tăng gấp 10 lần so với năm 2006. Bên cạnh đó, nhu cầu tư vấn tài chính của các doanh nghiệp ngày càng lớn, cần những nhà cung cấp thật sự có đẳng cấp. Các công ty kiểm toán nước ngoài với lợi thế về thương hiệu và nhân lực cấp cao đang "ép sân" các công ty kiểm toán trong nước. Nhận xét về năng lực của kiểm toán độc lập Việt Nam, TS. Thịnh Văn Vinh, Học viện Tài chính nói: "Mặc dù quy mô đã có những bước phát triển nhưng chưa thực sự có đầy đủ các kiểm toán viên, cũng như chưa đủ trình độ chuyên môn để đáp ứng nhu cầu thực tế đặt ra". Năng lực cạnh tranh của các công ty kiểm toán Việt Nam rất yếu so với các công ty nước ngoài. Hệ thống khách hàng chưa rộng lớn, chưa vững chắc. Hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính chưa thực hiện kiểm toán toàn diện cho tất cả các lĩnh vực cần thiết của nền kinh tế thị trường. Nhiều lĩnh vực theo quy định đã bắt buộc kiểm toán nhưng vẫn đang còn bỏ ngỏ chưa thực hiện kiểm toán như các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, các hợp tác xã... Các công ty kiểm toán độc lập chưa biết hợp tác với nhau và cạnh tranh còn thiếu lành mạnh. Mức phí dịch vụ trung bình của các công ty kiểm toán Việt Nam chỉ bằng một nửa, thậm chí một phần ba so với mức phí cùng loại của công ty nước ngoài. Một số công ty, do cạnh tranh giảm giá phí đã cắt giảm một số thủ tục, quy trình soát xét chất lượng kiểm toán nên chất lượng dịch vụ cung cấp giảm Vai trò của kiểm toán viên có thể rất súc tích trong nhận xét của GS.TS Vương Đình Huệ, Tổng kiểm toán Nhà nước: "Kiểm toán viên vừa phải là quan tòa công minh của quá khứ, vừa phải là người phán xử thông thái của hiện tại, lại vừa là người dẫn đường sáng suốt cho tương lai". Thế nhưng, nhiều chuyên gia lại có ý kiến là, điểm yếu nhất của kiểm toán độc lập Việt Nam là "con người". Theo ông Bùi Văn Mai, Vụ trưởng Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán, Bộ Tài chính: "Khả năng đánh giá bao quát và đưa ra ý kiến tư vấn chiến lược của đội ngũ kiểm toán viên Việt Nam hiện nay chắc chắn chưa thể bằng kiểm toán viên quốc tế". Ông Vương Đình Huệ cũng cho biết: "Phấn đấu đến 2010, nước ta sẽ có khoảng 3.000 nhân viên chuyên nghiệp, một nửa trong số đó có thể đăng ký hành nghề". Về việc phát triển năng lực của các công ty kiểm toán độc lập, nhiều chuyên gia cũng có ý kiến, nên liên kết các công ty kiểm toán thành những doanh nghiệp lớn có quy mô nhất định về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực, loại hình dịch vụ. Ngoài ra, một doanh nghiệp kiểm toán có thể trở thành thành viên của một hãng kiểm toán lớn, chẳng hạn như VACO, điều này sẽ giúp quảng bá và thúc đẩy hình ảnh của thương hiệu rất nhiều. Một hạn chế lớn khác xuất phát từ nhận thức, các doanh nghiệp chưa hiểu rõ được vai trò của kiểm toán trong chiến lược phát triển lâu dài của mình. Hiện tại, có tới 60% khách hàng của các công ty kiểm toán trong nước là kiểm toán theo luật định. Thị phần khách hàng tự nguyện đã tăng lên nhưng chưa đáng kể. Nhiều doanh nghiệp vẫn có khái niệm "bị kiểm toán" chứ không phải là "được kiểm toán", vì vậy, cần thúc đẩy tuyên truyền về lợi ích của các hoạt động của kiểm toán bằng nhiều kênh khác nhau. Hạn chế thứ ba là môi trường pháp lý đối với kiểm toán độc lập chưa được hoàn thiện. Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kiểm toán độc lập hiện nay là rất thấp, chủ yếu dựa trên Nghị định số 07/CP, đã ra đời từ cách đây 13 năm, Quyết định số 76/2004/TT-BTC và Quyết định 87/2005/QĐ-BTC. Vì vậy, nhiều ý kiến cho rằng nên ban hành luật kiểm toán độc lập, các doanh nghiệp kiểm toán bắt buộc đề phòng những gian lận kiểm toán khi có sự thông đồng giữa doanh nghiệp được kiểm toán và các doanh nghiệp kiểm toán. III. Một số vấn đề chủ yếu về kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập ở Việt Nam Đối với hoạt động kiểm toán, kiểm soát chất lượng kiểm toán có thể được hiểu là một hệ thống chính sách và biện pháp để nắm bắt và điều hành hoạt động kiểm toán đạt chuẩn mực chung. Hệ thống chính sách và biện pháp đó bao gồm: quan điểm về kiểm soát, hệ thống các quy định nghiệp vụ kiểm toán và kiểm soát, cơ cấu tổ chức bộ máy kiểm soát, chính sách về nhân sự, các hoạt động kiểm tra, soát xét, thu thập thông tin, xác nhận... Kiểm soát chất lượng kiểm toán được thực hiện trong toàn bộ quá trình kiểm toán của một cuộc kiểm toán, do nhiều cấp độ kiểm soát tiến hành, với nhiều phương pháp kiểm soát khác nhau. Mục tiêu chung của kiểm soát chất lượng kiểm toán là nhằm hỗ trợ bộ phận kiểm toán của công ty kiểm toán, bảo đảm cho kiểm toán viên của mình tuân thủ đúng các chuẩn mực nghề nghiệp hiện hành và các chuẩn mực chất lượng theo quy định đặt ra, nhằm tạo ra những sản phẩm kiểm toán đạt tiêu chuẩn chất lượng, đáp ứng yêu cầu của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán. Các mục tiêu cụ thể là: Việc kiểm toán được thực hiện phù hợp với các chuẩn mực kiểm toán, quy trình kiểm toán, phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán và các quy chế, quy định khác trong hoạt động kiểm toán; Các thành viên của đoàn kiểm toán hiểu rõ và nhất quán về kế hoạch kiểm toán, tổ chức thực hiện kiểm toán, lập báo cáo kết quả kiểm toán. Các ý kiến đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị kiểm toán có đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp, phù hợp với các chuẩn mực đã được quy định. Tất cả các lỗi, thiếu sót và các vấn đề không bình thường phải được nhận biết, ghi lại bằng văn bản và giải quyết đúng đắn hoặc báo cáo cho người có thẩm quyền cao hơn xem xét, xử lý. Đạt được các mục tiêu kiểm toán đã đặt ra; báo cáo kiểm toán phải bao gồm đầy đủ các ý kiến đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị kiểm toán liên quan đến cuộc kiểm toán; Rút ra những kinh nghiệm nhằm cải thiện hoạt động kiểm toán trong tương lai. Những kinh nghiệm đó cần phải được nhận biết, ghi chép và phải được đưa vào kế hoạch kiểm toán kỳ sau và trong các hoạt động phát triển nhân sự. Như vậy, kiểm soát chất lượng kiểm toán đã được thừa nhận như một chức năng của quản lý hoạt động kiểm toán, là trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm chuyên môn nghề nghiệp của mọi công ty kiểm toán, là một trong những chuẩn mực kiểm toán quan trọng trong hoạt động kiểm toán. Do vậy, việc thiết lập và duy trì một hệ thống kiểm soát chất lượng kiểm toán là một trong những nhiệm vụ không thể thiếu được của các công ty kiểm toán. Thiết lập và duy trì được một cơ chế kiểm soát chất lượng kiểm toán chặt chẽ, có hiệu quả, các công ty kiểm toán  sẽ đảm bảo với các doanh nghiệp và các nhà đầu tư rằng, kết quả kiểm toán trước khi đến với các nhà đầu tư đã được kiểm soát, chất lượng kiểm toán được bảo đảm, từ đó củng cố được niềm tin của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư vào chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên. Ngược lại, nếu chất lượng kiểm toán không được kiểm soát, hoặc kiểm soát không có hiệu quả thì niềm tin của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư vào chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên khó tránh khỏi sự lung lay. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 220 “Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán”: Chất lượng hoạt động kiểm toán là mức độ thoả mãn của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán về tính khách quan và độ tin cậy vào ý kiến kiểm toán của kiểm toán viên; đồng thời thoả mãn mong muốn của đơn vị được kiểm toán về những ý kiến đóng góp của kiểm toán viên, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, trong thời gian định trước với giá phí hợp lý. Như vậy, chất lượng hoạt động kiểm toán có thể được xem xét dưới ba góc độ: - Mức độ người sử dụng thông tin thoả mãn đối với tính khách quan và độ tin cậy của kết quả kiểm toán. - Mức độ đơn vị được được kiểm toán thoả mãn về ý kiến đóng góp nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. - Báo cáo kiểm toán được lập và phát hành theo đúng thời gian đã đề ra trong hợp đồng kiểm toán và chi phí dịch vụ kiểm toán ở mức hợp lý. Nội dung, quy mô và trình tự tiến hành thủ tục kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán được vận dụng tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng cuộc kiểm toán. Tuy nhiên, có những chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán mà các công ty kiểm toán phải xây dựng và thực hiện trong mọi cuộc kiểm toán để phù hợp với chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được Việt Nam chấp nhận. Đó là: 1. Các công ty kiểm toán phải luôn xem xét về tính tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp của các nhân viên của mình. Việc theo dõi, kiểm tra sự tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp bao gồm kiểm tra tính độc lập, chính trực, khách quan, năng lực chuyên môn, tính thận trọng, bí mật, tư cách nghề nghiệp. Các công ty kiểm toán có thể yêu cầu cán bộ công nhân viên chuyên nghiệp nộp bản