Hiện nay xu thế hội nhập về kinh tế và quốc tế hoá đang trở thành xu thế cơ bản của nền kinh tế thế giới. Từ xu thế này khiến cho hàng hoá tràn ngập thị trường, các hàng hoá này có nguồn gốc từ rất nhiều nước khác nhau trên thế giới. Đồng thời cùng với nó là sự xuất hiện của rất nhiều khối liên minh, liên kết kinh tế như hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), khối các nước châu Á Thái Bình Dương (APEC), khối mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), khối liên minh Châu Âu (EU) Giữa các khối hay trong cùng một khối đều có những ưu đãi và các quy định rõ ràng về sản phẩm xuất nhập khẩu hay nói cách khác là các quy định về chất lượng sản phẩm đem ra trao đổi giữa các nước. Khi các công cụ hạn ngạch, thuế quan đối với hàng nhập khẩu từ các nước đang bị bãi bỏ dần thì để hạn chế hàng nhập khẩu các nước sử dụng công cụ quan trọng đó là tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm. Các sản phẩm hiện nay đều có những tính năng tiên tiến, hiện đại, kiểu dáng đa dạng, phong phú thì các doanh nghiệp sẽ cạnh tranh với nhau bằng chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm ngày càng giữ vai trò quan trọng, là mục tiêu hướng tới của các doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đặc biệt đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay khi mà nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh đang trở thành mục tiêu hướng tới của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp ngày càng nhận thấy vai trò quan trọng của chất lượng sản phẩm để tạo uy tín cho doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Nhất là khi hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém về nhiều mặt, công nghệ sản xuất lạc hậu nên rất khó cạnh tranh với các doanh nghiệp ở các nước phát triển trên thế giới. Bởi vậy việc các doanh nghiệp Việt Nam tập trung vào vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh là một hướng đi đúng đắn mà các doanh nghiệp cần luôn phải thực hiện, theo đuổi.
55 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2332 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kiểm tra thống kê chất lượng sản phẩm trong công ty TNHH Hoàng Tiêu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
TÍNH THIẾT YẾU CỦA ĐỀ TÀI
Hiện nay xu thế hội nhập về kinh tế và quốc tế hoá đang trở thành xu thế cơ bản của nền kinh tế thế giới. Từ xu thế này khiến cho hàng hoá tràn ngập thị trường, các hàng hoá này có nguồn gốc từ rất nhiều nước khác nhau trên thế giới. Đồng thời cùng với nó là sự xuất hiện của rất nhiều khối liên minh, liên kết kinh tế như hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), khối các nước châu Á Thái Bình Dương (APEC), khối mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), khối liên minh Châu Âu (EU)…Giữa các khối hay trong cùng một khối đều có những ưu đãi và các quy định rõ ràng về sản phẩm xuất nhập khẩu hay nói cách khác là các quy định về chất lượng sản phẩm đem ra trao đổi giữa các nước. Khi các công cụ hạn ngạch, thuế quan đối với hàng nhập khẩu từ các nước đang bị bãi bỏ dần thì để hạn chế hàng nhập khẩu các nước sử dụng công cụ quan trọng đó là tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm. Các sản phẩm hiện nay đều có những tính năng tiên tiến, hiện đại, kiểu dáng đa dạng, phong phú thì các doanh nghiệp sẽ cạnh tranh với nhau bằng chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm ngày càng giữ vai trò quan trọng, là mục tiêu hướng tới của các doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đặc biệt đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay khi mà nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh đang trở thành mục tiêu hướng tới của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp ngày càng nhận thấy vai trò quan trọng của chất lượng sản phẩm để tạo uy tín cho doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Nhất là khi hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém về nhiều mặt, công nghệ sản xuất lạc hậu nên rất khó cạnh tranh với các doanh nghiệp ở các nước phát triển trên thế giới. Bởi vậy việc các doanh nghiệp Việt Nam tập trung vào vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh là một hướng đi đúng đắn mà các doanh nghiệp cần luôn phải thực hiện, theo đuổi.
MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Là một sinh viên Đại Học, nhất là đang theo học tại Viện Đại học Mở, em cũng rất quan tâm đến tình hình nước ta trong tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.Việc nước ta gia nhập WTO đã mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam nhằm nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế. Tuy nhiên cũng có không ít thách thức với doanh nghiệp của nước ta bởi các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay năng lực cạnh tranh còn chưa cao đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm ra hướng đi đúng đắn để có thể hoà nhập vào nền kinh tế Thế giới với những cạnh tranh gay gắt, khốc liệt.
Vì vậy, sau một thời gian thực tập tại công ty Hoàng Tiêu bản thân em nhận thấy vấn đề quản trị chất lượng sản phẩm của công ty còn hạn chế.
Do đó em đã chọn đề tài: “Kiểm tra thống kê chất lượng sản phẩm trong công ty TNHH Hoàng Tiêu” làm báo cáo nghiệp vụ. Với hi vọng góp phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu một hướng đi cụ thể của công ty Hoàng Tiêu trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Để có được những lý luận và thực trạng của việc quản lý chất lượng trong công ty Hoàng Tiêu là nhờ vào sự chỉ bảo tận tình của các thầy cô trong khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh nói riêng và các thầy cô Viện Mở nói chung.
KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Chương I: Một số cơ sở lý luận về kiểm tra thống kê chất lượng sản phẩm và vấn đề năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng kiểm tra thống kê chất lượng sản phẩm trong công ty Hoàng Tiêu.
Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra thống kê chất lượng sản phẩm trong công ty Hoàng Tiêu.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TRA THỐNG KÊ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP.
I- Năng lực cạnh tranh và vấn đề chất lượng sản phẩm trong doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh là vấn đề sống còn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào không tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm và tạo cho sản phẩm của mình những đặc tính mới, sản phẩm có chất lượng cao sẽ khó tồn tại trên thị trường. Hiện nay vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh đang được các doanh nghiệp hết sức quan tâm và chú trọng.
1. Khái quát về vấn đề năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế hoạt động trong cơ chế thị trường. Hay nói cụ thể hơn, doanh nghiệp là một tổss chức kinh doanh kiếm lời trong khuôn khổ pháp lý và đạo lý.
Doanh nghiệp có nhiều loại: theo ngành có doanh nghiệp công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, thương mại, tài chính, ngân hàng…theo dạng sản phẩm có doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ; theo quy mô có doanh nghiệp lớn, vừa, nhỏ; theo hình thức sở hữu vốn có doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã, doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp liên doanh, công ty hợp danh.
Để tiến hành kinh doanh, trước hết doanh nghiệp phải được thành lập theo quy định của luật pháp và hoạt động kinh doanh đúng pháp luật; thứ hai là phải có vốn để thuê nhân lực, mua công nghệ, máy móc, thiết bị, đất đai, nhà xưởng…; thứ ba là phải có hoạt động sản xuất và kinh doanh.
Để tiến hành sản xuất – kinh doanh doanh nghiệp phải thiết lập một cơ cấu tổ chức gồm ban lãnh đạo các cấp, các bộ phận, phân công trách nhiệm rõ ràng. Các bộ phận chủ yếu của doanh nghiệp (xí nghiệp) có thể gồm bộ phận Marketing, bộ phận mua sắm (máy, thiết bị,công nghệ thông tin…), bộ phận tạo sản phẩm ( gồm sản xuất hoặc dịch vụ), bộ phận kiểm tra, kiểm soát, bộ phận đào tạo, bộ phận nghiên cứu và triển khai, bộ phận phân phối( tiêu thụ). Các bộ phận hoạt động có sự phối hợp chặt chẽ theo sự điều hành của ban lãnh đạo để đạt được mục đích và mục tiêu của mình.
Để tồn tại và phát triển bền vững doanh nghiệp phải có năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh,có nghĩa là có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao, chiếm lĩnh nhiều thị phần để tiêu thụ sản phẩm của mình, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được quyết định bởi nhiều yếu tố. Mỗi yếu tố có thể trở thành lợi thế cạnh tranh nếu doanh nghiệp biết cách đầu tư, xây dựng và phát triển nó trong bối cảnh cụ thể của thị trường và cạnh tranh.
2. Chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Khi nói tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không thể không nói tới năng lực cạnh tranh của các sản phẩm do doanh nghiệp đó tạo ra. Vì một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh thì một trong những yếu tố quan trọng là các sản phẩm do doanh nghiệp tạo ra phải có năng lực cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng sản phẩm đó bán được nhiều và nhanh chóng khi trên thị trường có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố: chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm, thời gian cung cấp, dịch vụ đi kèm, điều kiện mua- bán, danh tiếng, uy tín của doanh nghiệp, của thương hiệu…
Về chất lượng sản phẩm: chất lượng sản phẩm là mức độ của một tập hợp các đặc tính của sản phẩm làm thoả mãn nhu cầu.
Một số sản phẩm có nhiều đặc tính, nhiều chỉ tiêu chất lượng. Nếu tập hợp các đặc tính đó làm thoả mãn được yêu cầu của khách hàng thì sản phẩm mới gọi là có chất lượng . Trong các chỉ tiêu chất lượng của sản phẩm có những chỉ tiêu đặc biệt quan trọng như chỉ tiêu an toàn vệ sinh; có những chỉ tiêu quan trọng như các chỉ tiêu về công dụng, về thẩm mỹ, về kinh tế; có những chỉ tiêu ít quan trọng. Mặc dù vậy, nếu có một chỉ tiêu nào đó không đảm bảo yêu cầu (dù đó là chỉ tiêu ít quan trọng ) thì sản phẩm không có chất lượng, ở đây không có quy luật bù trừ. Nội dung của chất lượng sản phẩm hữu hình biểu hiện ở hai mặt là trình độ kỹ thuật của sản phẩm và mặt kinh tế. Trình độ kỹ thuật của sản phẩm thể hiện qua các chỉ tiêu an toàn, vệ sinh, thẩm mỹ, công dụng, tiện dụng. Mặt kinh tế thể hiện ở chi phí sản xuất, chi phí đảm bảo chất lượng, chi phí sử dụng và chi phí môi trường.
Đối với dịch vụ thì chất lượng thể hiện ở:
- Sự đảm bảo của dịch vụ, tức là dịch vụ phải luôn luôn đảm bảo chất lượng, an toàn, mang lại lòng tin cho khách hàng, đảm bảo tính chính xác của dịch vụ.
- Trách nhiệm cao của nhân viên: mọi nhân viên phải nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc phục vụ khách hàng, sẵn sàng giúp đỡ khách hàng ngay cả những việc ngoài trách nhiệm của mình; vui vẻ, hoà nhã, tận tình với khách hàng.
- Trang thiết bị, kỹ thuật để tiến hành dịch vụ phải mang tính hiện đại, tạo cho dịch vụ tính văn minh đồng thời phục vụ với năng suất cao. Đây là một tiêu chí khá quan trọng. Khách hàng luôn luôn quan sát sự biểu hiện bên ngoài của dịch vụ để đánh giá. Đó là cảnh quan môi trương trong và ngoài nơi cung cấp dịch vụ, trang phục của nhân viên, nếp văn hoá của doanh nghiệp dịch vụ.
- Giá cả phải hợp lý.
- Tạo sự khác biệt so với các dịch vụ cùng loại. Ví dụ như tạo không gian thư giãn (đọc sách, xem tranh, ca nhạc, nhảy múa), quà tặng …
Chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng lớn vào quá trình nghiên cứu, thiết kế, tạo sản phẩm, phân phối; và các yếu tố bên trong, bên ngoài khác của doanh nghiệp. Ngoài ra, chất lượng sản phẩm còn phụ thuộc vào yếu tố con người, công nghệ, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và môi trường.
Phân tích các yếu tố cấu thành chất lượng sản phẩm :
* Nghiên cứu sản phẩm mới: Đây là công việc của marketing, tức là nghiên cứu tình hình nhu cầu về sản phẩm như về số lượng, chủng loại, kiểu dáng, màu sắc, bao gói, bao bì, đặc tính kỹ thuật và giá cả của sản phẩm tại từng phân đoạn của thị trường.
Những thông tin đó phải thu thập đầy đủ, chính xác và nhanh chóng để doanh nghiệp tạo sản phẩm kịp thời, đáp ứng yêu cầu của khách hàng tại từng thị trường. Việc cung cấp sản phẩm kịp thời cũng là yếu tố làm tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm. Hoạt động marketing là khâu đầu tiên, rất quan trọng. Nếu hoạt động này không đảm bảo chất lượng (các thông tin thiếu chính xác, không đầy đủ, không kịp thời) thì chất lượng hoạt động của các bộ phận tiếp theo của quá trình kinh doanh sẽ không có chất lượng .
* Thiết kế sản phẩm: Các thông tin về sản phẩm sau khi đã được thu thập chính xác, đầy đủ sẽ được chuyển tới bộ phận thiết kế. Trước hết, bộ phận này phải trao đổi với bộ phận marketing để nắm cặn kẽ các yêu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm. Người thiết kế không nắm đầy đủ các yêu cầu thì thiết kế sẽ không hoàn hảo, từ đó sản phẩm được tạo ra sẽ không thoả mãn yêu cầu của khách hàng. Bởi vậy, công tác thiết kế giữ vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Thiết kế bao gồm thiết kế kiểu dáng sản phẩm, cấu trúc sản phẩm, lựa chọn nguyên vật liệu và độ bền cho phù hợp với yêu cầu, thiết kế bao gói sản phẩm và nhãn hiệu sản phẩm, thiết kế quy trình tạo sản phẩm, dự trù các chi phí, hướng dẫn lắp ráp, sửa chữa.
Sau khi thiết kế xong, bản thiết kế phải được kiểm tra chặt chẽ qua kỹ sư thiết kế, tổ trưởng, trưởng phòng và giám đốc kỹ thuật để bản thiết kế đảm bảo chất lượng, không có sai sót. Nếu để bản thiết kế có sai sót sẽ dẫn tới thiệt hại về kinh tế.
* Tạo sản phẩm: Tạo sản phẩm là một quá trình phức tạp, đòi hỏi công nhân, nhân viên phải có trình độ lành nghề, hiểu rõ trách nhiệm của mình; nguyên vật liệu phải đảm bảo yêu cầu của thiết kế; máy móc, thiết bị phải đảm bảo độ chính xác, độ tin cậy; các bước sản xuất phải đảm bảo đúng quy trình công nghệ.
* Tiêu thụ sản phẩm: Nếu là sản phẩm hữu hình thì thông qua đại lý hoặc bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Nếu là dịch vụ thì việc tạo dịch vụ và mua dịch vụ là hai việc diễn ra đồng thời.
Sau khi sản phẩm (gồm hàng hóa và dịch vụ) đã bán thì không phải trách nhiệm của doanh nghiệp đối với khách hàng đã kết thúc mà doanh nghiệp còn phải tổ chức các dịch vụ đi kèm để phục vụ khách hàng như hướng dẫn lựa chọn, sử dụng, hướng dẫn về bảo hành, bảo dưỡng, sửa chữa, cung cấp phụ tùng thay thế…Việc phân phối sản phẩm phải đúng kênh, đảm bảo kịp thời, không được chậm trễ. Một công việc không kém phần quan trọng nữa, đó là doanh nghiệp phải thường xuyên điều tra, nắm bắt được sự hài lòng của khách hàng về những vấn đề liên quan tới việc cung cấp sản phẩm để tiếp tục cải tiến, hoàn thiện sản phẩm.Có như thế doanh nghiệp mới mong đứng vững trên thị trường.
* Yếu tố con người: “Con người” là yếu tố quan trọng nhất trong tất cả các yếu tố hình thành và ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm. Con người là nguồn lực sáng tạo ra các nguồn lực khác. Không có con người không có sự phát minh, sáng chế, không có công nghệ, không có máy tính, rôbốt…Vì yếu tố này có tầm quan trọng đặc biệt nên nhiều nước, từ lâu (1940 thế kỷ XX) đã rất chú ý tới nó. Họ sử dụng nhiều biện pháp để nâng cao năng lực sáng tạo của con người. Nhờ óc sáng tạo của con người mà chất lượng sản phẩm luôn được cải tiến, có nghĩa là trình độ kỹ thuật, chức năng, công dụng của sản phẩm ngày càng được nâng cao trong khi chi phí sản xuất, chi phí đảm bảo chất lượng ngày càng được giảm xuống, tạo ra sự tiết kiệm lớn cho xã hội.
Để nâng cao năng lực sáng tạo của con người, biện pháp quan trọng nhất được áp dụng là giáo dục, đào tạo, rèn luyên. Doanh nghiệp nào thiếu quan tâm tới biện pháp này thì chất lượng lao động sẽ thấp và do đó chất lượng sản phẩm kém, doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh thấp hoặc sẽ không có năng lực cạnh tranh, không có lợi nhuận, do đó không thể tồn tại được trên thương trường.
* Công nghệ sản xuất: Công nghệ là những phương pháp, những công thức, những bí mật để tạo ra những sản phẩm mới. Cùng một sản phẩm có nhiều phương pháp sản xuất khác nhau, cho những hiệu quả khác nhau. Công nghệ càng hiện đại hiệu quả càng cao, tuy nhiên không thể tách rời các yếu tố một cách biệt lập, chúng nằm trong quan hệ tổng hoà.
Công nghệ hiện đại là công nghệ có phương pháp tiên tiến: sử dụng ít nhân lực, tiêu tốn ít nguyên liệu, năng lượng, ít thời gian, chất lượng sản phẩm tốt, không gây ô nhiễm môi trường do đó mang lại hiệu quả cao cho toàn xã hội. Trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển với tốc độ lớn, các công nghệ rất nhanh bị lạc hậu.Vì vậy các doanh nghiệp cần chú ý sử dụng các công nghệ hiện đại, có độ linh hoạt cao để dễ dàng cải tiến, đổi mới. Doanh nghiệp được trang bị công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại, nguyên vật liệu tốt thì mới có điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất, hạ giá thành, tạo điều kiện tăng khả năng cạnh tranh.
* Các yếu tố khác: Ngoài các yếu tố cơ bản nêu trên, chất lượng sản phẩm còn phụ thuộc vào chính sách của doanh nghiệp như chính sách khen thưởng, chính sách mặt hàng, chính sách chất lượng, chính sách nghiên cứu và phát triển…; phụ thuộc vào các chính sách của nhà nước như thuế, bảo hộ, khuyến khích hoạc hạn chế xuất khẩu, chính sách cạnh tranh…
II- CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM
Chất lượng sản phẩm đã được nhiều học giả của nhiều nước trên thế giới quan tâm. Họ đã đưa ra rất nhiều các quan điểm khác nhau về cách hiểu chất lượng sản phẩm. Các cách hiểu này tuy chưa hoàn thiện nhưng nó đã góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác quản lý chất lượng sản phẩm.
1. Các khái niệm về chất lượng sản phẩm
Tuỳ thuộc vào từng góc độ nghiên cứu, mục đích nghiên cứu của từng học giả mà có nhiều cách hiểu khác nhau về chất lượng sản phẩm. Dưới đây là một vài quan điểm về chất lượng sản phẩm:
Theo quan điểm của K.Marx:
Theo ông thì người tiêu dùng mua hàng hoá không phải vì giá trị của hàng hoá đó mà là giá trị sử dụng và thoả mãn mục đích sử dụng của họ. Có nghĩa là giá trị sử dụng được đánh giá rất cao. Ông cho rằng chất lượng sản phẩm là thước đo biểu hiện giá trị sử dụng của chính sản phẩm đó. Giá trị sử dụng của sản phẩm làm nên tính hữu ích của sản phẩm và nó chính là chất lượng sản phẩm.
Quan niệm chất lượng sản phẩm theo hướng công nghệ:
Những người theo quan điểm này thường gắn chất lượng sản phẩm với công nghệ, tiêu chuẩn kỹ thuật. Theo họ chất lượng sản phẩm là sự phù hợp các tiêu chuẩn kỹ thuật hay là những đặc tính bên trong của sản phẩm có thể đo được hoặc so sánh được, phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm.
Quan điểm theo hướng khách hàng:
Những người theo quan điểm này coi sự thành công hay thất bại là doanh nghiệp mang được bao nhiêu giá trị cho khách hàng. Chẳng hạn theo quan điểm của Philip Crosby ( Mỹ ) trong tác phẩm “Chất lượng là cho không” ông đưa ra quan điểm: “chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với yêu cầu”. Theo quan điểm của J.Susan chứng minh “Chất lượng sản phẩm là sự thoả mãn nhu cầu thị trường với chi phí nhỏ nhất”.
Tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO đã đưa ra khái niệm về chất lượng sản phẩm như sau: “chất lượng sản phẩm là chất lượng của một sản phẩm nào đó là phù hợp với tất cả các tính chất biểu thị sử dụng phù hợp với tất cả các tính chất biểu thị giá trị sử dụng phù hợp với nhu cầu xã hội, điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, đảm bảo yêu cầu của người sử dụng, đảm bảo các tiêu chuẩn thiết kế và kỹ năng sản xuất của từng nước” (TCVN – 5814:1994)
Quan điểm về chất lượng sản phẩm luôn luôn phát triển, bổ sung và mở rộng hơn nữa để phù hợp với sự phát triển mạnh mẽ hiện nay. Nên các khái niệm về chất lượng sản phẩm luôn là chỉ tiêu động, vì vậy để đáp ứng yêu cầu của khách hàng các doanh nghiệp cần phải quan tâm tới vấn đề đổi mới, cải tiến chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, các doanh nghiệp không thể theo đuổi chất lượng sản phẩm với bất cứ giá nào vì luôn luôn có giới hạn về kinh tế, xã hội và công nghệ. Do đó, chất lượng sản phẩm là sự kết hợp các đặc tính của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu của khách hàng trong một giới hạn về chi phí nhất định phù hợp với doanh nghiệp.
2. Phân loại chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm có nhiều tiêu chí để đánh giá. Do đó, để tiện lợi trong việc theo dõi và quản lý chất lượng sản phẩm người ta chia chất lượng sản phẩm thành các loại sau:
2.1 Chất lượng sản phẩm thiết kế:
Chất lượng thiết kế là chất lượng của sản phẩm được phác hoạ trên cơ sở nghiên cứu về thị trường, các đặc điểm sản xuất – tiêu dùng. Và so sánh với chỉ tiêu chất lượng của các mặt hàng cùng loại của nhiều hãng trong và ngoài nước.
Dựa vào chất lượng thiết kế để có thể khẳng định chất lượng sản phẩm được sản xuất. Không thể có sản phẩm chất lượng tốt dựa trên sản phẩm được thiết kế tồi. Công nghệ dù hiện đại đến mấy cũng không thể biến một thiết kế sai thành sản phẩm có chất lượng cao.
2.2 Chất lượng sản phẩm tiêu chuẩn:
Chất lượng sản phẩm tiêu chuẩn là chất lượng sản phẩm được đánh giá thông qua các chỉ tiêu kỹ thuật của quốc gia, quốc tế trong mọi ngành. Nó là thuộc tính cũng như chỉ tiêu được thừa nhận, phê chuẩn và có ý nghĩa pháp lệnh buộc phải thực hiện nghiêm chỉnh trong quản lý chất lượng sản phẩm. Ở Việt Nam hiện nay có tiêu chuẩn cấp nhà nước TCVN, tiêu chuẩn cấp ngành TCN, tiêu chuẩn cấp cơ sở TCCS.
2.3 Chất lượng sản phẩm thực tế:
Chất lượng sản phẩm thực tế là giá trị của các chỉ tiêu thực tế đạt được do các yếu tố chi phối như: nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, công nghệ… Chất lượng sản phẩm thực tế đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Để đạt chất lượng sản phẩm thực tế doanh nghiệp cần thực hiện quá trình quản lý liên tục.
2.4 Chất lượng sản phẩm cho phép:
Chất lượng sản phẩm cho phép phụ thuộc vào điều kiện kỹ thuật, công nghệ của từng nước, cũng như trình độ tay nghề của lao động, phương pháp quản lý của mỗi doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm cho phép là giới hạn cho phép về độ lệch giữa chất lượng sản phẩm tiêu chuẩn và chất lượng sản phẩm thực tế.
2.5 Chất lượng sản phẩm tối ưu:
Chất lượng sản phẩm tối ưu là giá trị các chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm đạt được ở mức độ hợp lý nhất trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Nó thoả mãn toàn diện nhu cầu của thị trường với chi phí xã hội là nhỏ nhất.
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm không chỉ được hình thành trong quá trình sản xuất mà nó là kết quả của quá trình liên tục: từ thiết kế sản phẩm đến khi sản phẩm được đưa ra thị trường. Trong suốt quá trình đó chất l