Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, trong đó
các chủ thể của nó được tiến hành sản xuất, kinh doanh một cách tự chủ vì lợi ích của bản
thân cá nhân, và thông qua đó thực hiện lợi ích xã hội. Cho đến nay, kinh tế tư nhân được
coi là khu vực cung cấp khối lượng sản phẩm lớn nhất cho xã hội. Sự tồn tại nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân là vấn đề tất yếu bắt
nguồn từ quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Đây là khu vực kinh tế rất nhạy cảm với những đặc trưng của kinh
tế thị trường, có tiềm lực lớn trong việc nâng cao năng lực nội sinh của đất nước , tăng
trưởng kinh tế. Bởi vậy, phát triển kinh tế tư nhân là có lợi cho chủ nghĩa xã hội và được
coi là điều kiện không thể thiếu để xây dựng thành công kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài, là động lực quan
trọng để phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa .
Sau hơn mười năm chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý, kinh tế tư nhân nước
ta đã hồi phục và phát triển nhanh chóng, đấy sinh lực với một sức bật mạnh mẽ. Hiện
nay, kinh tế tư nhân có tỷ trọng lớn nhất trong GDP cả nước, thu hut nhiều lao động nhất
và có tỷ lệ vốn đầu tư đáng kể trong toàn bộ vốn đầu tư của xã hội, đang trở thành một
nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng trong những năm tới .
Tuy nhiên, tiềm lực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay vẫn chưa được khai thác đầy
đủ. Thực tế này do nhiều nguyên nhân như cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với phát
triển kinh tế tư nhân còn nhiều bất cập, môi trường kinh doanh chưa được thông thoáng.
Xuất phát từ thực tế trên, được sự hướng dẫn của TS Nguyễn An Ninh, cùng với sự
tham khảo qua một số tài liệu, tác giả mạnh dạn thể hiện các quan điểm về đề tài: “Kinh
tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam ”, sự
cần thiết phải tiếp tục đổi mới sự nhận thức đối với sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân, phù
3
hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan và với tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
29 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6604 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Đề tài:
“Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt nam”
2
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, trong đó
các chủ thể của nó được tiến hành sản xuất, kinh doanh một cách tự chủ vì lợi ích của bản
thân cá nhân, và thông qua đó thực hiện lợi ích xã hội. Cho đến nay, kinh tế tư nhân được
coi là khu vực cung cấp khối lượng sản phẩm lớn nhất cho xã hội. Sự tồn tại nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân là vấn đề tất yếu bắt
nguồn từ quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Đây là khu vực kinh tế rất nhạy cảm với những đặc trưng của kinh
tế thị trường, có tiềm lực lớn trong việc nâng cao năng lực nội sinh của đất nước, tăng
trưởng kinh tế. Bởi vậy, phát triển kinh tế tư nhân là có lợi cho chủ nghĩa xã hội và được
coi là điều kiện không thể thiếu để xây dựng thành công kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài, là động lực quan
trọng để phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau hơn mười năm chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý, kinh tế tư nhân nước
ta đã hồi phục và phát triển nhanh chóng, đấy sinh lực với một sức bật mạnh mẽ. Hiện
nay, kinh tế tư nhân có tỷ trọng lớn nhất trong GDP cả nước, thu hut nhiều lao động nhất
và có tỷ lệ vốn đầu tư đáng kể trong toàn bộ vốn đầu tư của xã hội, đang trở thành một
nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng trong những năm tới.
Tuy nhiên, tiềm lực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay vẫn chưa được khai thác đầy
đủ. Thực tế này do nhiều nguyên nhân như cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với phát
triển kinh tế tư nhân còn nhiều bất cập, môi trường kinh doanh chưa được thông thoáng.
Xuất phát từ thực tế trên, được sự hướng dẫn của TS Nguyễn An Ninh, cùng với sự
tham khảo qua một số tài liệu, tác giả mạnh dạn thể hiện các quan điểm về đề tài: “Kinh
tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam”, sự
cần thiết phải tiếp tục đổi mới sự nhận thức đối với sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân, phù
3
hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan và với tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Bản chất kinh tế - xã hội của sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân
1.1 Sở hữu – nhân tố cơ bản của quan hệ sản xuất
1.1.1 Khái niệm sở hữu và một số nội dung phạm trù sở hữu
Đã có nhiều định nghĩa về sở hữu với nhiều cách diễn đạt khác nhau. Song nếu xét về
tổng thể, nội dung sở hữu luôn thể hiện rõ hai mối quan hệ: thứ nhất, quan hệ giữa chủ thể
với đối tượng; thứ hai, quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Trên cơ sở
đó, khái niệm tổng quát về sở hữu được diễn đạt như sau:
Sở hữu là quan hệ giữa người với người thông qua đối tượng sở hữu. Nó là quan hệ
kinh tế khách quan, là một mặt cơ bản của quan hệ sản xuất, vận động và biến đổi cùng
với hệ thống kinh tế - xã hội.
Nói cách khác, sở hữu là quan hệ xã hội của sự chiếm hữu.
Khi coi sở hữu là quan hệ xã hội của sự chiếm hữu, cần phải xét nó ở hai bình diện là
nội dung pháp lý và nội dung kinh tế của sở hữu. Nội dung pháp lý của sở hữu quy định
đối tượng của sở hữu thuộc quyền của ai. Nó quy định các quyền: sử dụng, định đoạt,
chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp tài sản…và thực hiện lợi ích của các chủ thể.
Nội dung kinh tế của sở hữu thể hiện một hệ thống quan hệ kinh tế rất phức tạp giữa con
người vớ nhau trong việc vân dụng khai thác nguồn lực kinh tế – xã hội.Quan hệ sở hữu
cũng không thể tách rời quan hệ tổ chức, quản lý, phân phối được thể hiện qua quan hệ lợi
ích kinh tế.
4
Nội dung sở hữu khi được thể chế hóa về mặt pháp lý gọi là chế độ sở hữu. Nói cách
khác, chế độ sở hữu là tập hợp các thể chế về mặt pháp lý, bảo đảm cho các quyền sở hữu
được thực hiện. Còn sở hữu thông qua đời sống xã hội gọi là quyền sở hữu.
Chế độ sở hữu bao gồm nhiều quyền, trong đó đáng chú ý nhất là quyền sở hữu và
quyền sử dụng. Đây là hai nhóm quyền vừa phân cực, vừa thống nhất với nhau. Sự phát
triển kinh tế – xã hội càng phức tạp thì sự phân chia, sự tác động giữa hai nhóm trên càng
phong phú và đa dạng. Lý luận về sự tách biệt tương đối giữa quyền sở hữu và quyền sử
dụng cùng với việc xuất hiện vấn đề quyền sở hữu thực tế và quyền sở hữu danh nghĩa đã
mở ra phương hướng mới cho các giải pháp về vấn đề sở hữu nhà nước trong các nước xã
hội chủ nghĩa và trong một số nước đang phát triển hiện nay.
Hình thức sở hữu cũng là một nội dung quan trọng khác của sở hữu. Nó là cơ sở khách
quan của sở hữu, tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Cho đến nay, loài người đã trải qua nhiều hình thức sở hữu, phát triển qua các giai
đoạn khác nhau từ sở hữu bộ lạc, đến các hình thức sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội chủ
nghĩa. Trong xã hội hiện đại ngày nay, phần lớn các quan điểm đều cho rằng, mặc dù rất
phong phú, đa dạng, nhưng trên thực tế chỉ tồn tại ba hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu nhà
nước, sở hữu tư nhân và sở hữu hôn hợp.
1.1.2 Thế nào là sở hữu tư nhân?
Điều 211 Bộ luật dân sự nước ta (2005) cho rằng: sở hữu tư nhân là sở hữu của cá
nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu tư nhân bao gồm: sở hữu cá thể, sở hữu
tiểu chủ và sở hữu tư bản tư nhân.
Đây là khái niệm mang tính khái quát cao. Nó cho thấy sở hữu tư nhân bao hàm hai
lĩnh vực: lĩnh vực tiêu dùng cá nhân (sở hữu cá nhân) và sở hữu nguồn lực được đưa vào
sản xuất (sở hữu tư nhân). Thực tế cho thấy: sở hữu cá thể, tiểu chủ và sở hữu tư bản tư
nhân là một thể thống nhất, không có sự chia cắt, chúng có cùng một nội dung sở hữu: sở
hữu tư nhân.
5
Như vậy, sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu của cá nhân những nhà sản xuất kinh
doanh trong hoặc ngoài nước về các nguồn lực sản xuất được đầu tư vào các ngành, các
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế.Cá nhân tự quyết định,tự chịu trách nhiệm
trước pháp luật về hành vi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.Những nguồn lực sản
xuất này thuộc quyền sử dụng, định đoạt và hưởng lợi của cá nhân người sở hữu.Vốn và
tài sản thuộc sở hữu tư nhân ngoài kinh doanh tư nhân, còn có thể trở thành góp vốn vào
các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế khác.
Thực chất xét về nguồn gốc lịch sử, sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu tồn tại lâu đời
qua nhiều phương thức sản xuất, chúng là hệ quả quan trọng và trực tiếp của quyền tự do
cá nhân, quyền được phát huy mọi tiềm năng vốn có của mỗi cá nhân. Kể từ khi xuất hiện
xã hội có giai cấp, thực tiễn cho thấy khó có thể thay thế sở hữu tư nhân bằng một động
lực nào có thể lớn hơn hoặc bằng nó trong phát triển kinh tế.Chỉ trong một thời gian ngắn,
cùng với sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân, loài người đã có những bước tiến khổng lồ về
thành tựu kinh tế.Cho đến nay, những động lực do sở hữu tư nhân tạo ra vẫn phát huy
mạnh mẽ vai trò của nó.
1.2 Sở hữu – nhân tố cơ bản của quan hệ sản xuất xã hội
1.2.1 Sở hữu - nhân tố cơ bản của quan hệ sản xuất, là nền móng của chế độ kinh tế xã
hội
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản của mỗi phương thức sản
xuất, chúng tồn tại không tách rời nhay mà tác động biện chứng với nhau, hình thành quy
luật phổ biến của toàn bộ loài người – quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.Chính sự phù hợp đó là động lực
làm cho lực lượng sản xuất phát triển.Trong mối quan hệ giữa chúng, lực lượng sản xuất
bao giờ cũng giữ vai trò quyết định.Tuy nhiên, quan hệ sản xuất không phải là mặt hoàn
toàn thụ động, nó có tác dụng to lớn đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.Trong sự tác
động đó của quan hệ sản xuất thì quan hệ sản xuất luôn giữ vai trò quyết định nhất.
Vai trò của sở hữu được thể hiện ở những mặt cơ bản sau đây:
6
Thứ nhất, sở hữu quyết định mục đích của sản xuất và toàn bộ cơ chế điều tiết của nền
sản xuất xã hội.Nó quy định quy mô và phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong quá
trình sản xuất xã hội.Nó quyết định quan hệ lợi ích vật chất của thành viên khác nhau
trong xã hội.
Thứ hai, sở hữu là nhân tố cơ bản của quan hệ sản xuất khi nó giữ vai trò chi phối hai
mặt còn lại của quan hệ sản xuất, tức là nó quyết định đến phương thức, phương pháp của
việc tổ chức và quản lý sản xuất, nó cũng quyết định đến tính chất và hình thức phân phối
sản phẩm.
Thứ ba, chế độ sở hữu quyết định vị trí khác nhau của con người, của giai cấp và các
mối quan hệ lẫn nhau của họ trong quá trình sản xuất.Từ đó, nó quyết định các mối quan
hệ trong trao đổi và phân phối.Chế độ sở hứu còn quy định cả đặc điểm, hình thức và cơ
cấu của giai cấp, tầng lớp xã hội.
Thứ tư, sở hữu vừa là quan hệ kinh tế, vừa là quan hệ pháp lý, vì vậy nếu không có sự
biến đổi của chế độ sở hữu phù hợp thì lực lượng sản xuất khó có thể phát triển bình
thường.
Thứ năm, mỗi phương thức sản xuất được đặc trưng bởi một quan hệ sản xuất riêng,
tạo thành một chế độ kinh tế xã hội, do chế độ sở hữu quyết định.Trong mối quan hệ đó,
sở hữu là cái quyết định bản chất của chế độ kinh tế xã hội, còn quan hệ sản xuất là tiêu
chí hàng đầu để phân biệt các hình thái kinh tế xã hội.
Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội của xã hội có giai cấp, sở hữu liên quan đến cơ sở
hạ tầng của xã hội như là tổng hợp các kiểu quan hệ sản xuất, các loại hình kinh tế…Cơ
sở hiện thực của sở hữu gồm 3 loại hình cơ bản:
- Loại hình sở hữu điển hình, giữ vai trò chủ đạo, nó ứng với quan hệ sản xuất thống trị.
- Loại hình sở hữu gắn với quan hệ sản xuất tàn dư.
- Loại hình sở hữu gắn với quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai.
7
Do đó việc duy trì cùng một lúc nhiều loại hình sở hữu trong một hình thái kinh tế xã
hội là một tất yếu khách quan.
1.2.2 Quan hệ giữa sở hữu và lợi ích – nguồn nuôi dưỡng động lực kinh tế và tiền đề cho
lực lượng sản xuất phát triển
Trong quá trình vận động của mình, sự tác động lẫn nhau giữa quan hệ sở hữu và hình
thức kinh tế được nối liền qua khâu trung gian là lợi ích kinh tế.Có thể nói lợi ích kinh tế
của mỗi người, mỗi tập đoàn, mỗi giai cấp được quy định trước do mối quan hệ của nó
đối với việc chiếm hữu tư liệu sản xuất.Lợi ích kinh tế là quan hệ sản xuất trong hành
động, đang biến thành các nhân tố kích thích hoạt động kinh tế.
Trong mối quan hệ của mình mặc dù sở hữu không phải là động lực trực tiếp, nhưng
chính quan hệ sở hữu lại quyết định bản chất, cơ cấu hệ thống lợi ích kinh tế.Vì vậy quan
hệ sở hữu luôn là nguồn gốc sâu xa của động lực kinh tế.
Nhận thức được tính phức tạp, phong phú của nội dung sở hữu và tìm cách vận dụng
chúng là đòn bẩy quan trọng, là nguồn tiềm năng to lớn mở đường thúc đẩy sản xuất, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.Bản chất của sở hữu trong chủ nghĩa xã hội là góp phần giải
phóng mọi năng lực sản xuất, là phát triển lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao
đời sống nhân dân.Trong công cuộc cải cách và đổi mới hiện nay, việc nhận thức sở hữu
theo tư duy mới là vấn đề quan trọng để phát huy bản chất, vai trò động lực của sở hữu
trong chủ nghĩa xã hội.
2. Kinh tế tư nhân và các loại hình kinh tế tư nhân
2.1 Kinh tế tư nhân:
Theo cấp độ khái quát nhất: Kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế nằm ngoài quốc doanh
( ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước
trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư.
Theo cấp độ hẹp hơn, kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân.
8
Như vây, kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế gắn liền với các loại hình sở hữu tư
nhân.Trong đó các chủ thể của nó tự chủ tiến hành sản xuất kinh doanh vì lợi ích trực tiếp
của cá nhân hay tập thể cá nhân hoạt động dưới các hình thức kinh tế khác nhau, dù có
thuê hay không thuê lao động.
2.2 Các loại hình kinh tế tư nhân:
Khu vực kinh tế tư nhân hiểu theo góc độ khái quát bao gồm các loại hình: kinh tế cá
thể của nông dân, thợ thủ công và tiểu thương; kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư nhân
trong kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có nguồn vốn đầu tư nước ngoài (nếu thuộc sở
hữu tư nhân)…Đại hội IX của Đảng đã tách kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thành một
loại hình kinh tế độc lập, không nằm trong khu vực kinh tế tư nhân.Hiện nay, quan niệm
phổ biến ở nước ta về kinh tế tư nhân gồm hai loại hình kinh tế:
Một là, kinh tế cá thể, tiểu chủ: bao gồm những đơn vị kinh tế hoạt động trên cơ sở sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, có quy mô nhỏ hơn các loại hình doanh nghiệp tư nhân,
hoạt động chủ yếu dựa vào sức lao động của chính họ. Kinh tế cá thể,tiểu chủ tồn tại độc
lập dưới hình thức xưởng thợ gia đình, công ty tư nhân nhỏ, hộ kinh doanh thương mại,
dịch vụ, hộ làm kinh tế trang trại, hoặc tham gia liên doanh, liên kết với các loại hình kinh
tế khác.
Hai là, kinh tế tư bản tư nhân: đây là loại hình kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất của một hay nhiều chủ, có sử dụng lao động làm thuê hoạt động
một cách độc lập, trong đó chủ thể tư bản đồng thời là chủ doanh nghiệp.
Ở Việt Nam hiện nay, kinh tế tư bản tư nhân thường được nhận thức theo cách xác
định của luật doanh nghiệp (1999) gồm có: Công ty trách nhiêm hữu hạn, doanh nghiệp tư
nhân,công ty cổ phần và công ty hợp doanh được thành lập theo luật doanh nghiệp.
II.VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA SỞ HỮU TƯ NHÂN, KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Vị trí của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
9
1.1 Lợi thế về động lực phát triển của kinh tế tư nhân trong quan hệ với khu vực nhà
nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại
Trong thời đại ngày nay, bất cứ một nền sản xuất nào, muốn đạt hiệu quả tăng trưởng
cao đều phải thực hiện nền kinh tế thị trường.Bởi vì,với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất hiện có của thế giới thì việc theo đuổi ích thiết thân của bản thân con người vẫn
chưa thể mất đi, do đó nó đòi hỏi phải hình thành một cơ chế kích thích con người, đồng
thời với việc thực hiện mục tiêu xã hội.Đó chính là cơ chế thị trường, với sự tồn tại khách
quan của việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu, trong đó động lực cao nhất cho sự phát
triển vẫn thuộc về sở hữu tư nhân.
Bên cạnh sự phù hợp với quan hệ sở hữu tư nhân, kinh tế thị trường cũng có vai trò
hết sức cần thiết và có khả năng thực hiện được trong chủ nghĩa xã hội, mặc dù ở đó chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò chủ đạo,Trình độ lực lượng sản xuất xét đến
cùng bao giờ cũng quy định trình độ phát triển con người; khi thừa nhận kinh tế thị trường
là cần thiết cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì có nghĩa là cũng phải thừa nhận
sự tồn tại của kinh tế tư nhân trong chủ nghĩa xã hội.Đó chính là thừa nhận một động lực
quan trọng không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa.Nhưng
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường và vận dụng nguyên tắc của bản thân nền
kinh tế thị trường sẽ rất có thể xảy ra mâu thuẫn giữa những quy định thuộc bản chất xã
hội chủ nghĩa với những mục tiêu kinh tế cần đạt được:
Thứ nhất,kinh tế thị trường là phương thức vận hành kinh tế, là sự điều hòa lợi ích và
phân bố các tài nguyên thông qua thị trường.Trong quá trình vận động nó chỉ tạo ra sự
công bằng trong quá trình cạnh tranh chứ không tạo ra sự công bằng trên kết quả phân
phối cuối cùng.
Thứ hai, thị trường đã đặt ra những vấn đề như công bằng, hiệu quả và mạnh thắng,
yếu thua thì cũng phải chấp nhận những hậu quả vận hành kinh tế thị trường là nẩy sinh
phân hóa giàu,nghèo, bất bình đẳng và thất nghiệp.
10
Đó là những mâu thuẫn mà chúng ta cần tính tới và cần nhận thức được khi thực hiện
nền kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội.Từ đó có biện pháp từng bước tháo gỡ, trong
đó phải tính đến động lực của kinh tế tư nhân nhằm đưa nên kinh tế xã hội chủ nghĩa có
thể phát triển bình thường và hiệu quả hơn trong nền kinh tế hiện đại.
1.2 Nhận thức lại vị trí của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế đổi mới ở chủ
nghĩa xã hội
Trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, kinh tế tư nhân được coi là khu vực kinh tế đang
hàng ngày hàng giờ làm nảy sinh chủ nghĩa tư bản.vì vậy, nó luôn trở thành đối tượng của
cách mạng xã hội chủ nghĩa.Ở đây, nhà nước coi việc loại bỏ kinh tế tư nhân càng nhanh,
càng triệt để bao nhiều thì càng nhanh có chủ nghĩa xã hội bấy nhiêu, bất kể những đóng
góp của nó đối với nền kinh tế như thế nào.
Với những quan điểm trên đã dẫn đến việc thực hiện cơ cấu đầu tư, cơ cấu kinh tế xã
hội chưa hợp lý, cộng với nhiều ảnh hưởng khách quan, chủ quan khác nên mô hình kinh
tế kế hoạch tập trung đã lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng.Thực tế đòi hỏi phải tiến
hành đổi mới và trong quá trình đổi mới đó,nhận thức về vị trí của các khu vực kinh tế đã
có sự thay đổi căn bản so với trước, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân.
Kinh tế tư nhân được coi là bộ phận cấu thành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân,
Kinh tế tư nhân luôn là bạn đồng hành và hoạt động bình đẳng với các khu vực kinh tế
khác, không còn là đối tượng của cách mạng xã hội chủ nghĩa nữa.
Việc đổi mới nhận thức về vị trí của kinh tế tư nhân như trên chính là sự đánh giá một
cách đầy đủ, khách quan và khoa học hơn về khu vực kinh tế này.Với sự tương hợp của
mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chắc chắn khu vực kinh tế
tư nhân sẽ đóng góp xứng đáng hơn nữa cho việc tăng trưởng và tăng tiềm lực kinh tế đất
nước, và như vậy, vai trò và vị trí của kinh tế tư nhân cũng chắc chắn sẽ được tăng lên
trong thời gian mới.
1.3 Từ vị trí mới, kinh tế tư nhân đang tạo thành một đối chứng hiện thực năng động
để các khu vực kinh tế khác đối chiếu và luôn tự đổi mới,hoàn thiện.
11
Trong quá trình đổi mới chúng ta đã hình thành mô hình “kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”.Dù có những mặt trái cố hữu nhưng cho tới nay và cả trong
tương lai, cơ chế thị trường vẫn tỏ ra đầy sức sống và là cơ chế ưu việt nhất, bởi kinh tế
thị trường kích thích sự phát triển trên nhiều lĩnh vực như:
- Gắn các chủ thể hành vi lại với nhau trong hệ thống phân công lao động xã hội, tạo nên
sự hiệp tác hữu cơ của nền sản xuất xã hội.
- Truyền dẫn thông tin, thông qua giá cả, thị trường cung cầu của các bên, chỉ cho người
sản xuất biết nên sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, hướng dẫn họ đưa ra những lựa chọn
“theo điều có lợi, tránh điều có hại” cho bản thân và xã hội.
- Kích thích đổi mới, thông qua sức ép của cạnh tranh, nhờ đó không ngừng đổi mới công
nghệ, quản lý, sản phẩm, nâng cao hiệu suất.
- Lựa chọn cơ cấu kinh tế hiệu quả hơn, qua việc sàng lọc đào thải của cạnh tranh thị trường.
- Chính động lực cạnh tranh và tối đa hóa lợi nhuận đã tạo nên ‘áp lực’ buộc các doanh
nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải tính toán, cân nhắc để phân bố các
nguồn lực có giới hạn theo những tỷ lệ cân đối, cần thiết nhất…
Kinh tế tư nhân rất nhạy cảm với những yếu tố đặc trưng trên, bởi sự ‘thẩm thấu’ của
chúng với hệ thống quy luật của kinh tế thị trường trong quá trình vận hành và phát
triển.Bởi vậy, kinh tế tư nhân luôn tỏ ra là khu vực kinh tế đầy sức sống, đầy năng động
và luôn trở thành đối chứng cạnh tranh hấp dẫn.Từ đó, khu vực kinh tế này luôn kích
thích và buộc kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể phải tìm cách đổi mới, hoàn thiện mình.
2.Vai trò của kinh tế tư nhân trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
2.1.Khu vực kinh tế tư nhân góp phần khơi dậy một bộ phần quan trọng tiềm năng của
đất nước, tăng nguồn nội lực, tham gia phát triển nền kinh tế quốc dân
Tính từ năm 1999-2003 mức huy động vốn của tư nhân đầu tư vào sản xuất kinh
doanh tăng liên tục, đặc biệt kể từ khi Luật doanh nghiệp ra đời (2000),trong