ì CPI là chỉ số lạm phát cho bất kỳ một thời kỳ nào, có thể là tháng, quý, năm. . . Vậy, làm thế nào để xác định được xu hướng thay đổi giá cả hàng hoá và dịch vụ trong dài hạn. Để làm được điều này, người ta dùng chỉ tiêu lạm phát cơ bản. Đây là chỉ số phản ánh sự tăng giá trong dài hạn sau khi đã loại bỏ những dao động về giá mang tính thời vụ, và những đột biến về giá bắt nguồn từ những cú “sốc cung” tạm thời. Chỉ số lạm phát cơ bản không thay thế CPI, mà chỉ đóng vai trò là chỉ tiêu bổ sung cho CPI, nó cung cấp thông tin về xu hướng dài hạncủa giá tiêu dùng và được sử dụng như chỉ số lạm phát tương lai. Như vậy, lạm phát cơ bản được hiểu là tỷ lệ lạm phát đã được điều chỉnh loại bỏ những biến động ngắn hạn về giá cả, giúp các nhà hoạch định chính sách xác định xu hướng lạm phát trong dài hạn, là thông tin hữu ích hoạch định CSTT.
27 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2065 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lạm phát ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nội dung thảo luận: Lạm phát ở Việt Nam hiện nay
1. Cơ sở lý luận chung về lạm phát.
1.1 Khái niệm về lạm phát.
Lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và liên tục trong một thời gian dài.
1.2 Phương pháp đo lường lạm phát.
Lạm phát còn được đo bằng chỉ số giá cả
1.2.1 Chỉ số giá tiêu dùng.
Chỉ số giá cả được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng CPI. CPI tính chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường. Các nhóm chính đó là hàng lương thực thực, thực phẩm, quần áo , nhà cửa , chất đốt …..
Trong thực tế nó được thay thế nó được thay thế bằng chỉ số giá cả tiêu dùng hoặc chỉ số giá bán buôn: Ip = .
Trong đó: p chỉ số giá cả từng loại nhóm hàng
d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại nhóm hàng
1.2.2 Chỉ số giá buôn.
Chỉ số thứ 2 cũng thường được sử dụng là chỉ số giá cả sản suất PPI. Đây là chỉ số giá bán buôn. PPI được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn định.
1.2.3 Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội.
Đây là chỉ số đo mức giá bình quân của tất cả hàng hoá và dịch vụ tạo nên tổng sản phẩm quốc nội, được xác định theo công thức:
Chỉ số giảm phát GDP =
1.2.4 Chỉ số lạm phát cơ bản.
Vì CPI là chỉ số lạm phát cho bất kỳ một thời kỳ nào, có thể là tháng, quý, năm. . . Vậy, làm thế nào để xác định được xu hướng thay đổi giá cả hàng hoá và dịch vụ trong dài hạn. Để làm được điều này, người ta dùng chỉ tiêu lạm phát cơ bản. Đây là chỉ số phản ánh sự tăng giá trong dài hạn sau khi đã loại bỏ những dao động về giá mang tính thời vụ, và những đột biến về giá bắt nguồn từ những cú “sốc cung” tạm thời. Chỉ số lạm phát cơ bản không thay thế CPI, mà chỉ đóng vai trò là chỉ tiêu bổ sung cho CPI, nó cung cấp thông tin về xu hướng dài hạncủa giá tiêu dùng và được sử dụng như chỉ số lạm phát tương lai. Như vậy, lạm phát cơ bản được hiểu là tỷ lệ lạm phát đã được điều chỉnh loại bỏ những biến động ngắn hạn về giá cả, giúp các nhà hoạch định chính sách xác định xu hướng lạm phát trong dài hạn, là thông tin hữu ích hoạch định CSTT.
1.3 Phân loại lạm phát
Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau:
1.3.1. Căn cứ vào mức độ:
Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ % lạm phát tính theo năm ,người ta chia lạm phát ra thành
a. Lạm phát vừa phải (lạm phát 1 con số mỗi năm):
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dưới 10%/năm. Đây mà mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được,với mức lạm phát này,những tác động kém hiệu quả của nó là không đáng kể.
Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoảng thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.
b. Lạm phát phi mã (2 con số mỗi năm):
Khi tỷ lệ tăng,giá đã bắt đầu tăng đến 2 chữ số mỗi năm.Ở mức lạm phát 2 chữ số thấp (11,12,13%/năm), nói chung những tác động tiêu cực của nó là không đáng kể,nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức 2 chữ số cao, lạm phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó là không nhỏ. Lúc đó lạm phát 2 chữ số sẽ trở thành mối đe dọa đến sự ổn định của nền kinh tế. Ở mức 2 chữ số, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhah chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
c. Siêu lạm phát:
Tùy theo quan điểm của các nhà kinh tế, ngoài các loại lam phát trên, còn có lạm phát 3 chữ số. Nhiều người coi các loại lạm phát này là siêu lạm phát vì nó có tỷ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng nhanh.Với siêu lạm phát, những tác động tiêu cực của nó đến đời sống và đến nền kinh trở nên nghiêm trọng: Kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng ,thu nhập thực tế của người lao động giảm mạnh …dẫn đến đời sống kinh tế của người dân trở nên khó khăn. Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít khi xảy ra..
1.3.2.Căn cứ vào tính chất:
a. Lạm phát thuần tuý:
Là lạm phát mà giá tất cả các hàng hoá và dịch vụ tăng cùng một tỷ lệ, nên giá cả tương đối giữa các mặt hàng là không thay đổi. Do đó, lạm phát thuần tuý không làm thay đổi cơ cấu hàng hoá và dịch vụ trong tiêu dùng.
dự đoán trước va lạm phát bất thường:
b. Lạm phát dự kiến:
Đây là loại lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối dàivới tỷ lệ lạm phát tăng hàng năm khá đều đặn và ổn định.Do vậy,người ta có thể dự đoán trước được tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp theo.Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình hình lạm phát đó và người ta đã có những chuẩn bị để thích nghi với tình trạng lạm phát này.
c. Lạm phát không dự kiến hay lạm phát bất thường:
Là lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó chưa từng xuất hiện. Do vậy tâm lý, cuộc sống và thói quen của người dân đều chưa thích ứng được.Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền.
1.3.3. Căn cứ vào nguyên nhân:
Lạm phát tiền tệ, lạm phát cầu kéo, lạm phát chi phí đẩy, lạm phát cơ cấu, lạm phát ngân sách.
1.3.4. Căn cứ sự biến động:
a. Lạm phát ngắn hạn:
Biểu hiện mức giá cả biến động trong ngắn hạn, có tính chất thời vụ, như lạm phát tháng, quý, năm. Lạm phát ngắn hạn thường đo bằng chỉ số giá tiêu dùng (CPI).
b. Lạm phát dài hạn:
Thể hiện của xu hướng lạm phát trong dài hạn, được loại trừ sự biến động tạm thời có tính thời vụ giá cả. Lạm phát dài hạn được đo bằng chỉ số lạm phát cơ bản.
1.4 Nguyên nhân gây ra lạm phát.
1.4.1. Lạm phát theo thuyết tiền tệ:
Kinh tế đi vào lạm phát, đồng tiền mất giá… có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Khi tiền lương tăng, chi phí sản xuất cũng tăng theo, dẫn đến giá các mặt hàng cũng tăng. Tăng lương đẩy giá lên cao. Tóm lại, lạm phát là hiện tượng tăng liên tục mức giá chung và có thể giải thích theo các cách sau:
Theo thuyết tiền tệ: Theo quan điểm của các nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ, khi cung tiền tệ tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát, được thể hiện qua mô hình sau:
(Tổng mức giá)
P AS3
P3 3 AS2
2’ AS1
P2 2
1’ AD3
P1 1 AD2
AD1 Y
0 Y1 Yn ( Tổng sản phẩm)
Cung ứng tiền tệ và lạm phát tiền tệ.
Ban đầu nền kinh tế ở điểm 1,với sản lượng đạt ở mức sản lượng tự nhiên Yn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả P1 đường giao nhau với đường tổng cung AD1.Khi cung tiền tệ tăng lên thì đường tổng cầu di chuyển sang phải đến AD2. Trong một thời gian rất ngắn,nền kinh tế sẽ chuyển động đến điển 1’ và sản phẩm tăng lên trên mức tỷ lệ tự nhiên,tức là đạt tới Y1(Y1>Yn). Điều đó đã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, tiền lương tăng lên và giảm tổng cung đường tổng cung dịch chuyển vào đến AS2. Tại đây nền kinh tế quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm trên đường tổng cung dài hạn.Ở điểm cân băng mới(điểm2), mức giá đã tăng từ P1 đến P2.
Cung tiền tệ tiếp tục tăng ,đường tổng cầu lại dịch chuyển ra đến AS3, nền kinh tế đạt tới mức cân bằng mới tại điểm 3. Tại đây mức giá giả đã tăng lên đến P3. Nếu cung tiền tệ vẫn tiếp tục diễn ra và nền kinh tế đạt tới mức giá cả ngày càng cao hơn, lạm phát tăng cao
1.4.2. Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy:
Lạm phát này xảy ra do những cú sốc tiêu cực hoặc do kết quả của những cuộc đấu tranh đòi tăng lương gây ra. Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy được thể hiện qua mô hình sau:
(Tổng mức giá)
P
AS3
3’ AS2
P3 3
P2’ 2’ AS1
P2 2
P1’ 1’ AD3
P1 1 AD2 .
AD1 Y
0 Y1 Yn ( Tổng sản phẩm)
Lạm phát chi phí đẩy.
Lúc đầu nền kinh tế ở điểm1, là giáp điểm của đường tổng cầu AD1 và đường tổng cung AS1,với mức sản lượng tự nhiên(sản lượng tiềm năng)và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Do mong muốn có được mức sống cao hơn hoặc do cho rằng tỷ lệ lạm phát dự tính trong nền kinh tế sẽ tăng cao,những người công nhân đấu tranh đòi tăng lương.Vì tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nên những đòi hỏi tăng lương của công nhân dễ được giới chủ chấp nhận,ảnh hưởng của việc tăng lương(cũng giống như ảnh hưởng của những cú sốc cung tiêu cực) làm đường tổng cung AS1 dịch chuyển vào đến AS2.
Nền kinh tế sẽ chuyển từ điểm1’ giao điểm của đường tổng cung mới AS2 và đường tổng cầu AD1. Sản lượng đã giảm xuống dưới mức sản lượng tự nhiênY’ (Y’<Yn ) và tỷ lệ thất nghiệp cao hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, đồng thời mức giá cả tăng lên đến P’1. Vì mục đích muốn duy trì một mức công ăn việc làm cao hơn hiện tại,Chính phủ sẽ thực hiện các chính sách điều chỉnh năng động nhằm tác động lên tổng cầu,làm tăng tổng cầu,lúc này đường tổng cầu AD1 dịch chuyển ra AD2, nền kinh tế quay trở lại mức sản lượng tiềm năng,và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tại điểm cân bằng điểm2, mức giá cả tăng lên đến P2.
Các công nhân đã được nhượng bộ và được tăng lương vẫn có thể tiếp tục đòi tăng lương lên cao hơn. Đồng thời,những sự nhượng bộ đó đã tạo ra sự chênh lệch về mức lương trong tầng lớp công nhân, tình trạng đòi tăng lương lại tiếp diễn, kết quả là đường tổng cung lại dịch chuyển vào đến AS3 , thất nghiệp lại tăng lên cao hơn mức tỷ lệ tự nhiên và Chính phủ lại thực hiện các chính sách điều chỉnh năng động làm dịch chuyển đường tổng cầu AD3 để đưa nền kinh tế trở lại mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả cũng tăng lên đến P3. Nếu quá trình này cứ tục tiếp diễn thì kết quả sẽ là việc tăng liên tục của mức giá cả, đây là tình trạng lạm phát chi phí đẩy
1.4.3. Lạm phát cầu kéo:
Một trường hợp khác vì mục tiêu công ăn việc làm cao, cũng dẫn đến lạm phát cao, đó là lạm phát cầu kéo được thể hiện qua mô hình sau:
(Tổng mức giá)
P AS3
P3 3 AS2
2’ AS1
P2 2
1’ AD3
P1 1
AD2
AD1 Y
0 Yn Y1 ( Tổng sản phẩm)
Lạm phát cầu kéo
Giả sử ban đầu nền kinh tế đang đạt tới mức sản lượng tiềm năng,và tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên,nền kinh tế đạt mức cân bằng ở điểm 1. Nếu các nhà hoạch định chính sách sẽ hoạch định và theo đuổi một tỷ lệ thất nghiệp dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
Để đạt được mục tiêu này, nếu các nhà hoạch định chính sách sẽ phải đưa ra những biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản lượng lớn hơn mức sản lượng tiềm năng, mức chỉ tiêu sản lượng cần đạt được đó làYt (Yt>Yn).Các biện pháp mà họ đưa ra sẽ tác động lên tổng cầu,đường tổng cầu sẽ dịch chuyển ra đến AD2 , nền kinh tế chuyển đến điểm 1’ (giao điểm giữa đường tổng cầu mới AD2 và đường tổng cung ban đầu AS1). Sản lượng bây giờ đã đạt tới mức Y1 lớn hơn sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên đã đạt được.
Vì hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế là thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nên tiền lương tăng lên và đường tổng cung sẽ di chuyển vào đến AS2 , đưa nền kinh tế từ điểm 1’ chuyển sang điểm 2’. Nền kinh tế quay trở về mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng ở một mức giá cả P2 cao hơn P1.
Đến lúc này, tỷ lệ thất nghiệp lại cao hơn muc tiêumà các nhà hoạch định chính sách cần đạt được. Do đó họ lại tiếp tục thực hiện các chính sách lam tăng tổng cầu.Quá trình này cứ tiếp diễn liên tục và đẩy giá cả trong nền kinh tế lên cao hơn.
1.4.4. Lạm phát do thâm hụt ngân sách.
Thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát cao.
Chính phủ có thể khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước bằng biện pháp phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường tài chính để vay tiền trong dân chúng, bù đắp cho phần bị thiếu hụt. Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ và do đó, không tăng cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát.Một biện pháp khác Chính phủ có thể sử dụng để bù đắp cho thâm hụt ngân sách nhà nước là phát hành tiền. Biện pháp này trực tiếp làm tăng thêm cơ số tiền tệ, do đó tăng cung ứng tiền ,đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên ở các nước đang phát triển,do thị trường vốn bị hạn chế nên việc phát hành trái phiếu Chính phủ nhằm bù đắp cho thâm hụt ngân sách là rầt khó thực hiện.Đối với các quốc gia này,con đường duy nhất đối với họ là “sử dụng máy in tiền”. Vì thế, khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách của các quốc gia đó tăng cao thì tiền tệ cũng sẽ tăng nhanh và lạm phát tăng.
Do vậy, trong mọi trường hợp,tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước cao,kéo dài là nguồn gốc tăng cung ứng tiền và gây ra lạm phát
1.4.5. Lạm phát theo tỷ giá hối đoái:
Tỷ hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát
Thứ nhất, khi tỷ giá tăng ,đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm lý của những người sản xuất trong nước,muốn kéo giá hàng lên cao theo mức tăng của tỷ giá hối đoái.
Thứ hai, khi tỷ giá tăng, giá nguyên liệu ,hàng hóa nhập khẩu cũng tăng cao,đẩy chi phí về nguyên liệu tăng lên,lại quay trở về lạm phát phí đẩy như đã phân tích ở trên. Việc tăng giá cả của nguyên liệu và hàng hóa nhập khẩu thường gây ra phản ứng dây chuyền, làm tăng giá cả ở rất nhiều hàng hóa khác, đặc biệt là các hàng hóa của những ngành có sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và nhũng ngành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau (nguyên liệu của ngành này là sản phẩm của ngành khác….)
2. Tình hình về lạm phát ở Việt Nam.
2.1. Năm 2010
2.1.1.Thực trạng lạm phát năm 2010.
Mức lạm phát 2 con số của Việt Nam trong năm 2010 đã chính thức được khẳng định. Con số 11,75% tuy không quá bất ngờ nhưng vẫn vượt so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra hồi đầu năm gần 7%.
Trong tháng 12/2010, mức tăng giá tiêu dùng (CPI) của cả nước là 1,98%, cũng là mức tăng cao nhất trong năm. Đóng góp chủ yếu vào con số này là mức tăng giá ở khu vực hàng ăn và dịch vụ ăn uống, tăng 3,31% (riêng lương thực tăng tới 4,67%). Cũng trong tháng này, giá nhà ở và vật liệu xây dựng cũng tăng mạnh tới 2,53%.
Tuy nhiên, tính chung trong cả năm 2010, giáo dục mới là nhóm tăng giá mạnh nhất trong rổ hàng hóa tính CPI (gần 20%). Tiếp đó là hàng ăn (16,18%) và nhà ở - vật liệu xây dựng (15,74%). Bưu chính viễn thông là nhóm duy nhất giảm giá với mức giảm gần 6% trong năm 2010.
Về CPI của các vùng miền, đáng chú ý là chỉ số CPI khu vực nông thôn tháng 12 tăng 2,04%; cao hơn 1,87% của khu vực thành thị.
Trong tháng 12, giá vàng và đôla Mỹ không leo thang mạnh như những tháng trước (lần lượt tăng 5,43% và 2,86%). Tuy nhiên, tính chung trong cả năm 2010, giá vàng đã tăng tới 30% trong khi mức tăng của đôla Mỹ là xấp xỉ 10%.
Như vậy, tháng 12 đã là tháng có chỉ số CPI tăng mạnh nhất trong năm 2010.
Việc CPI năm 2010 tăng ở mức 2 con số không nằm ngoài dự báo khi từ tháng 9 đến nay chỉ số này đã liên tục tăng mạnh. Song năm này có thể coi là một năm chỉ số giá diễn biến khá phức tạp., chỉ riêng 3 tháng đầu năm 2010, CPI đã tăng 4,12%, gây sức ép lớn lên mục tiêu kiềm chế lạm phát của Chính phủ.
Theo tổng cục thống kê, trong tỷ lệ lạm phát 11,75% năm 2010 của Việt Nam, yếu tố tiền tệ đóng góp tới 4,65% và các yếu tố khác góp 7,1%. Yếu tố tiền tệ đã có một “đóng góp” đáng kể trong sự gia tăng vượt chỉ tiêu (dù đã được điều chỉnh) của lạm phát năm 2010, đặc biệt là từ đầu quý IV.
Đến quý 3/2010, về cơ bản lạm phát được kiềm chế; nhưng sang quý 4/2010, lạm phát tăng cao ngoài khả năng dự đoán. Đến cuối năm 2010 Việt Nam vẫn chưa "cắt nghĩa" đúng được tình hình lạm phát nên các giải pháp điều hành thời gian qua vẫn nghiêng về "giải pháp để bình ổn giá" mà không phải là để "kiểm soát lạm phát". "Tất cả các biện pháp đối phó của VN đều được đưa ra khi giá cả đã biến động rồi, nên hiệu quả không cao. Minh chứng là nước ta đã đưa ra nhiều giải pháp tập trung vào quý IV của năm nay, trong khi trước đó đều không có hoặc chưa quyết liệt.
Các giải pháp bình ổn giá vẫn "nặng về hành chính" nên đã hạn chế tác dụng.Ví dụ, để kiểm soát giá, chúng ta cũng yêu cầu tiểu thương tại các chợ niêm yết giá bán. Tuy nhiên, tiểu thương có hàng nghìn lý do như vàng, tỷ giá tăng, bão lụt… để tăng giá mà các cơ quan chức năng không thể làm gì được.
2.1.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát.
- “Nguyên nhân chủ yếu không phải do sai lầm của chính sách và điều hành vĩ mô, chính sách tiền tệ trong năm cũng không phải là nhân tố làm cho lạm phát tăng cao. Nguyên nhân chính là xuất phát từ những nhân tố khách quan như sự bất ổn kinh tế, giá cả thế giới và một số yếu tố chủ quan nội tại của nền kinh tế”.bên cạnh đó, giá cả một số hàng hóa thiết yếu thế giới tiếp tục tăng cao (giá dầu thô và giá xăng - gas tăng, sắt thép, nguyên vật liệu nhập khẩu tăng do kinh tế thế giới phục hồi, giá cả nguyên vật liệu tăng trên 10%), giá vàng biến động mạnh; Trung Quốc mất mùa nên đã thu hút hàng hóa của Việt Nam khá mạnh.
- Trong nước, dịch bệnh trong nông nghiệp, bão lũ nặng nề ở miền Trung làm ảnh hưởng khá lớn đến cung cầu hàng hóa, giá lương thực thực phẩm tăng do việc chủ động đưa giá lên để tạo điều kiện cho các nhà sản xuất trong nước và nông dân; tăng lương cơ bản, tăng chi phí giáo dục, y tế; do chi tiêu ngân sách và đầu tư công khá lớn những năm qua và cả năm 2010; kết hợp tỷ giá tăng, giá vàng tăng, yếu tố tâm lý kỳ vọng lạm phát trong dân dẫn đến tổng cầu tăng đột biến, làm giá tăng mạnh.
- Việc phá giá đồng bạc Việt Nam (VNĐ) và xuất nhập khẩu. Trong năm 2010 tỷ giá trên thị trường tự do tăng trên 10% và tỷ giá giao dịch của các tổ chức tín dụng (TCTD) đối với khách hàng tăng 5,9%. Tỷ giá chính thức từ cuối năm 2009 đến hết năm 2010 được ngân hàng nhà nước (NHNN) điều chỉnh tăng hai lần. Riêng đợt điều chỉnh ngày 18/8/2010, tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa Đồng Việt Nam và Đô la Mỹ tăng 2,1%, từ 18.544 VND/USD, lên mức 18.932 VND/USD. Mục tiêu của việc điều chỉnh nhằm khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu.
- Do tác động của lãi suất. Tình trạng vòng “luẩn quẩn”: Tổ chức tín dụng thiếu tiền vốn so với cầu tín dụng phải huy động với mức cao hơn mức trần Nhà nước quy định dẫn đến lãi suất cho vay cũng tăng, trong khi thị trường thì thừa tiền để tiêu dùng hàng hoá hợp thị hiếu, làm cho tiền trong lưu thông đổ vào lĩnh vực phi sản xuất, không qua ngân hàng, đọng lại ở thị trường bất động sản rộng lớn nhưng lại bị “đóng băng” do giá cao chơi vơi. Thiếu thanh khoản cục bộ đã “thổi” lãi suất thị trường liên ngân hàng lên mức khá cao.
- Do biến động của giá vàng và diễn biến tâm lý của người dân. Lạm phát tâm lý trong nền kinh tế đang ảnh hưởng đến nhiều mặt đời sống xã hội, đặc biệt là giá các loại hàng hóa trên thị trường. Thứ nhất: Các chính sách quản lý nhà nước nhằm mục tiêu điều hành tốt hơn nền kinh tế nhưng đôi khi chính yếu tố tâm lý của người dân lại làm nảy sinh lạm phát tâm lý. Thứ hai: Tâm lý người dân rất nhạy cảm với lạm phát và thường có phản ứng đôi khi quá mức càng đẩy lạm phát lên cao. Trong khi đó, các phản ứng của Chính phủ chống lại lạm phát thường chậm, chính sách điều hành không nhất quán, khiến người dân càng mất niềm tin vào hiệu quả chính sách. Điều này thể hiện qua những cơn sốt của thị trường vàng, đô la, hay bất động sản khi người dân đổ xô đầu tư và găm giữ các loại tài sản khác thay thế tiền đồng. Thứ ba: Tâm lý không cất trữ.
- Do vấn đề tiền tệ. Đối với năm 2010, Có thể nói kênh tiền tệ qua hệ thống ngân hàng không phải là nguyên nhân chủ yếu gây nên lạm phát cao trong năm 2010. Thứ nhất, qua phân tích các nguyên nhân ở phần đầu tiểu luận cùng với sự tác động lên các nhóm hàng hóa và dịch vụ. Thứ hai là mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng đến hết năm 2010 so với nhiều năm gần đây không phải là cao, vẫn nằm trong tầm kiểm soát theo mục tiêu đề ra từ đầu năm.
2.1.3. Các giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính Phủ đã áp dụng tại Việt Nam năm 2010.
Thứ nhất, tập trung kiềm chế lạm phát. Chính phủ giao NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng; bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng khoảng 25% và tổng phương tiện thanh toán khoảng 20%. Điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, bảo đảm phù hợp với mục tiêu phát triển và điều kiện thực tế của thị trường tài chính, tiền tệ và nền kinh tế. Sử dụng linh hoạt các công cụ lãi suất theo hướng giảm dần để tạo điều kiện giảm mặt bằng lãi suất thị trường.
Thứ ha