Tại những vùng có khí hậu có tính biến hoá rõ ràng về mùa vụ, ở trong bộ mộc chất thứ sinh trong cây thực vật họ mộc bản sống lâu năm, mỗi năm đều hình thành đường viền hoa văn có biên giới rõ ràng, gọi là vòng đời, cũng có tên là vòng sinh trưởng hay tầng sinh trưởng, là căn cứ để xác định tuổi của cây.
Sự hình thành của bộ thứ sinh mộc chất, là kết quả của hoạt động hình thành tầng mà hoạt động của tầng hình thành lại chịu ảnh hưởng của khí hậu có tính mùa vụ, đặc biệt là ở những vùng ôn đới và nhiệt đới có thời tiết khô, ẩm. Ví dụ như ở vùng ôn đới, từ mùa xuân đến mùa hạ, khí hậu lúc này rất thích nghi cho sự phát triển của cây cối, tế bào của tầng hình thành phân biệt rất nhanh chóng, sinh trưởng mau chóng, hình thành tế bào bộ mộc chất, rỗng xốp vách mỏng, sợi tơ ít, ống dẫn chuyên chở thuỷ phân rất nhiều, gọi là gỗ mùa xuân. Đến mùa thu, hoạt động của tế bào bộ mộc chết, chặt chẽ vách dày, tơ sợi nhiều, ống dẫn ít, gọi là gỗ mùa thu hoặc là gỗ muộn.
Chất gỗ mùa xuân xốp mềm, màu hơi nhạt, chất gỗ mùa thu chắc chắn, màu sắc đậm hơn. Gỗ xuân và gỗ thu, ôm nhau thành một vòng tròn, đấy chính là “vòng đời” vòng của một năm tuổi của cây gỗ. Cứ mỗi một năm là một vòng, đếm bao nhiêu vòng là biết ngay tuổi của chúng là bao nhiêu.
Không phải tất cả các cây gỗ đều có vòng đời, như thực vật lá đơn chẳng hạn, vì không hình thành tầng, nên không có vòng đời. Ở các vùng nhiệt đới do mùa vụ không đủ nên tế bào sản sinh của tầng hình thành rất nhỏ, nên vòng đời thường không rõ ràng, có lúc có nơi do địa tầng hoạt động dữ dội. Tầng hình thành khác đi, mỗi năm có thể sinh ra mấy vòng đời, đây gọi là vòng đời giả, như cam quýt, mỗi năm có thể sinh ra ba vòng đời, có những khi do khí hậu đột biến, chịu ảnh hưởng của sâu hại, cũng có thêm các vòng đời giả. Vậy thì nếu cứ tính vòng đời mà ra tuổi của cây thì phải trừ đi các vòng đời giả và thế là chúng ta chỉ có được một con số gần đúng về tuổi của cây.
24 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4340 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Làm thế nào để xác định tuổi của cây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Làm thế nào để xác định tuổi của cây?
2/14/2008 12:44:14 AM
Tại những vùng có khí hậu có tính biến hoá rõ ràng về mùa vụ, ở trong bộ mộc chất thứ sinh trong cây thực vật họ mộc bản sống lâu năm, mỗi năm đều hình thành đường viền hoa văn có biên giới rõ ràng, gọi là vòng đời, cũng có tên là vòng sinh trưởng hay tầng sinh trưởng, là căn cứ để xác định tuổi của cây.
Sự hình thành của bộ thứ sinh mộc chất, là kết quả của hoạt động hình thành tầng mà hoạt động của tầng hình thành lại chịu ảnh hưởng của khí hậu có tính mùa vụ, đặc biệt là ở những vùng ôn đới và nhiệt đới có thời tiết khô, ẩm. Ví dụ như ở vùng ôn đới, từ mùa xuân đến mùa hạ, khí hậu lúc này rất thích nghi cho sự phát triển của cây cối, tế bào của tầng hình thành phân biệt rất nhanh chóng, sinh trưởng mau chóng, hình thành tế bào bộ mộc chất, rỗng xốp vách mỏng, sợi tơ ít, ống dẫn chuyên chở thuỷ phân rất nhiều, gọi là gỗ mùa xuân. Đến mùa thu, hoạt động của tế bào bộ mộc chết, chặt chẽ vách dày, tơ sợi nhiều, ống dẫn ít, gọi là gỗ mùa thu hoặc là gỗ muộn.
Chất gỗ mùa xuân xốp mềm, màu hơi nhạt, chất gỗ mùa thu chắc chắn, màu sắc đậm hơn. Gỗ xuân và gỗ thu, ôm nhau thành một vòng tròn, đấy chính là “vòng đời” vòng của một năm tuổi của cây gỗ. Cứ mỗi một năm là một vòng, đếm bao nhiêu vòng là biết ngay tuổi của chúng là bao nhiêu.
Không phải tất cả các cây gỗ đều có vòng đời, như thực vật lá đơn chẳng hạn, vì không hình thành tầng, nên không có vòng đời. Ở các vùng nhiệt đới do mùa vụ không đủ nên tế bào sản sinh của tầng hình thành rất nhỏ, nên vòng đời thường không rõ ràng, có lúc có nơi do địa tầng hoạt động dữ dội. Tầng hình thành khác đi, mỗi năm có thể sinh ra mấy vòng đời, đây gọi là vòng đời giả, như cam quýt, mỗi năm có thể sinh ra ba vòng đời, có những khi do khí hậu đột biến, chịu ảnh hưởng của sâu hại, cũng có thêm các vòng đời giả. Vậy thì nếu cứ tính vòng đời mà ra tuổi của cây thì phải trừ đi các vòng đời giả và thế là chúng ta chỉ có được một con số gần đúng về tuổi của cây.
Theo onthi.com
BÀI 4: HÌNH THÁI, CẤU TẠO GIẢI PHẨU
VÀ CHỨC NĂNG CỦA THÂN CÂY.
I. MỤC ĐÍCH - YÊU CẦU.
1. Nhận biết các thành phần của thân và các loại thân.
2. Nắm được cấu tạo cơ bản của một thân.
3. Hiểu được sự thích nghi của thân trong việc thực hiện các chức năng.
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT.
Thân là cơ quan trục của cây, mang cành và lá. Có chức năng lưu thông 2 dòng dẫn truyền và nâng đỡ giữ vững các phần bên trên của cây. Ngoài ra thân cũng có thể phân hoá thực hiện một số chức năng khác như: dự trữ, quang hợp.
1. Thành phần của thân.
- Thân chính: mang chồi ngọn, chồi nách, chồi phụ, mấu và gióng…
- Cành: phát triển từ chồi nách của thân, là cành bên hay cành cấp một. Từ đây sẽ cho cành cấp 2,3…
2. Các dạng thân.
Dựa vào thời gian sống của cây, kiểu phân nhánh của thân và tỷ lệ tương đối giữa thân với cành mà người ta phân biệt các dạng thân sau đây:
- Thân gỗ: là thân của những cây sống lâu năm. Thân chính phát triển mạnh và chỉ phân cành từ một chiều cao nhất định so với mặt đất.
Tuỳ theo chiều cao của thân, các cây thân gỗ dược chia làm 3 loại: cây gỗ lớn (cao 18m trở lên), ví dụ: cây chò chỉ, chò nâu…; cây gỗ vừa (cao 12-18m): dẻ, ngọc lan…; cây gỗ nhỏ (cao từ 6-12m): bưởi, ổi…
- Thân bụi: thân dạng gỗ sống lâu năm nhưng thân chính không phát triển, các nhánh xuất phát và phân chia ngay từ gốc thân chính. Chiều cao của cây bụi không quá 4m. Ví dụ: sim, mua…
- Thân nửa bụi: cây sống nhiều năm, có thân hoá gỗ một phần ở gốc, phần trên không hoá gỗ và chết đi vào cuối thời kỳ sinh dưỡng. Từ phần gốc sẽ hình thành nên những chồi mới và quá trình đó được lặp lại hằng năm. Ví dụ: cây cỏ lào (Eupatorium odoratum), cây xương rồng…
- Thân cỏ: phần thân trên mặt đất chết vào cuối thời kỳ quả chín, thân không lớn được. Thân có nhiều loại: một năm, hai năm, nhiều năm.Cỏ một năm đời sống sau khi quả, hạt chín trong một mùa (ví dụ: lúa, xà lách); cỏ hai năm là loại cây trong năm đầu chỉ có lá mọc gần gốc rễ, còn thân mang hoa sẽ xuất hiện và năm thứ hai (ví dụ: cà rốt).
3.Các loại thân trong không gian.
- Thân đứng: thân mọc thẳng đứng và tạo với gốc một góc vuông. Hầu hết các cây thân gỗ và một phần cây thân cỏ thuộc loại này.
- Thân bò: cây không đủ cứng rắn để đứng thẳng lên được, nên phải bò sát mặt đất. Tại các mấu chạm đất của thân thường mọc ra rễ phụ để lấy thêm nguyên liệu cho lá quang hợp. Nhờ thế mà cây có thể phát triển trên một diện tích rộng (ví dụ: rau má, khoai lang...). Trong trồng trọt, người ta thường sử dụng các đoạn thân bò để gây giống trong sinh sản sinh dưỡng.
- Thân leo: cây không đủ khả năng mọc đứng một mình và phải dựa vào các cây khác hoặc vào giàn để vươn cao. Thân leo phần lớn thuộc dạng cỏ, như bìm bịp, bầu bí, mướp... Có nhiều cách leo khác nhau:
+ Leo nhờ thân quấn: cây vươn lên cao bằng cách quấn quanh giàn hoặc cây khác (bìm bịp, mồng tơi, củ từ, củ nâu...).
+ Leo nhờ tua cuốn: tua cuốn là những sợi mảnh, xoắn ốc của ngọn, do cành hoặc lá biến đổi thành và có khả năng quấn chặt vào giàn để đưa cây vươn lên: tua cuốn ở nho, bầu, bí, mướp do cành biến đổi, còn tua cuốn ở đậu hà lan do lá biến đổi.
+ Leo nhờ gai móc: móc này là do lá biến đổi để móc vào cây khác, ví dụ: song, mây.
+ Leo nhờ rễ bám: rễ bám mọc từ các mấu thân, như trầu không.
4. Biến dạng của thân.
- Gai: mọc ở nách lá, là những cành biến đổi thành, làm nhiệm vụ bảo vệ thân, có loại gai đơn như chanh, bưởi... có loại gai phân nhánh như bồ kết (Gleditschia australis) (chú ý đừng lẫn lộn với gai do biểu bì biến đổi thành, ví dụ ở cây hoa hồng).
- Cành hình lá: một số loài cây sống ở nơi thiếu nước có lá tiêu giảm, nên thân hoặc cành chứa diệp lục và có dạng lá, làm nhiệm vụ quang hợp. Lá chính thức chỉ là những vảy nhỏ, sớm rụng.
Ví dụ: Cây quỳnh (Epiphyllum oxypetalum).
- Giò thân: là phần thân dày lên, chồi ngọn bị tiêu giảm, chỉ mang một hoặc hai lá. Từ chồi nách sẽ phát triển thành chồi mới. Đây là kiểu thân phổ biến ở nhiều loài phong lan (h.69). Một số thân leo thuộc họ Củ nâu (Dioscoreaceae) như củ cải, củ từ cũng có những giò trên thân, trong các giò này chứa tinh bột giống như củ ở dưới đất.
- Thân mọng nước: một số loài cây sống ở nơi khô hạn, thân thường dày lên rất nhiều do mô nước phát triển, thân có diệp lục làm nhiệm vụ quang hợp thay cho các lá tiêu giảm hoặc sớm rụng, ví dụ: thân xương rồng ta (Euphorbia antiquorum), xương rồng khế (Cereus peruvianus).
- Thân hành: hình quả lê, hình cầu dẹt, hình trứng, gồm các bẹ lá (phần xoè rộng của gốc lá) xếp úp lên nhau, chứa chất dự trữ. Các bẹ đó gọi là vảy hành. Nằm giữa các vảy đó là chồi ngọn, nách các vảy có thể có chồi nách, từ đó có thể phát triển các hành con. Thân chính ở đây thường rất ngắn, hình nón hay hình đĩa, mang nhiều rễ phụ ở phía dưới (h.70). Phần lớn các loại cây gia vị (hành, tỏi, hẹ) và một số cây cảnh (như lay ơn, thuỷ tiên…) có dạng thân hành, người ta có thể nhân giống bằng thân hành.
- Thân củ: Là loại thân hoặc cành phồng lên, tích chứa chất dự trữ. Thân củ có thể hình thành trên mặt đất và có màu lục (như củ su hào), hoặc hình thành ở dưới đất (như củ khoai tây). Mỗi củ khoai tây do một cành biến đổi, khi nằm trong đất nó không chứa diệp lục, nhưng để ra ngoài sáng nó lại có màu lục.
Thân củ ở trong đất khác với rễ củ ở chỗ nó không có chóp rễ và lông hút, rễ bên, trên thân có những mắt mang các sẹo lá, trong nách các sẹo đó có chồi nách (h.71).
- Thân rễ: Là loại thân ngầm ở dưới đất mà bề ngoài trông giống như rễ, chứa chất dự trữ. Thân rễ khác với rễ ở chỗ không có chóp rễ nhưng có những lá mỏng hình vảy màu nâu hoặc màu nhạt, trong nách các vảy đó có các chồi. Hình dạng thân rễ cũng rất khác nhau: Có loại thân rễ có lóng ngắn, nạc, như củ rong, củ gừng, củ riềng, hoặc gồm nhiều
lóng kéo dài như ở cỏ tranh, cỏ gừng… (h.72).
Một số loài cây sống trong nước, thân cũng có biến đổi: ví dụ như cây bèo tấm thì thân chỉ là một phiến dẹp màu lục, không có lá, rễ phát triển rất yếu; hoặc cây bèo cám (Wolffia arhiza) thân chỉ là một khối hình trứng bé tí xíu và không có rễ.
5. Cấu tạo giải phẫu của thân.
5.1. Cấu tạo sơ cấp của thân.
Cấu tạo sơ cấp thân cây Hai lá mầm gồm 3 phần: Biểu bì, Vỏ sơ cấp và Trụ trung tâm hay là trung trụ.
- Biểu bì: Mô bì sơ cấp ở thân thường gồm một lớp tế bào có các chất vô cơ bao phủ như: cutin, sáp, silic... Các tế bào biểu bì chứa nội chất trong suốt, không có diệp lục và ít khi có khí khổng.
- Vỏ sơ cấp: gồm một số lớp tế bào mô mềm có màng cellulose mỏng, xếp đều nhau. Lớp ngoài của những tế bào này có khi có chứa diệp lục. Bên ngoài của vỏ thường có mô dày xếp thành đám hay vòng. Đôi khi trong vỏ sơ cấp có cả mô cứng và tế bào đá, trong phần này có thể có những tế bào vết lá. Trong cùng của vỏ sơ cấp là lớp nội bì, là giới hạn phân biệt giữa vỏ sơ cấp và trung trụ. Nội bì của thân khó phân biệt hơn ở rễ, có khi có chứa tinh bột gọi là vòng tinh bột.
Vòng tinh bột tương ứng với vị trí của nội bì, biểu hiện chủ yếu ở thân cây non. Nó cũng gồm những tế bào mô mềm xếp thành vòng, chạy theo chiều dài của thân và có chứa nhiều hạt tinh bột.
- Trung trụ: trung trụ gồm:
� Trụ bì (vỏ trụ) là lớp ngoài cùng của trung trụ, phân biệt vỏ sơ cấp với trung trụ. Trụ bì phân biệt với nội bì ở chổ vách hướng phóng xạ của chúng không trùng với vách theo hướng này của nội bì. Vỏ trụ ở thân gồm một số lớp tế bào mô mềm.
Nếu vỏ trụ gồm những tế bào mô mềm, vỏ thân không có vòng tinh bột và nội bì thì vỏ sơ cấp và trung trụ không phân biệt được sự chuyển tiếp rõ ràng. Lúc đó thân hình như có biểu bì, mô mềm và trong đó có mô dẫn truyền.
� Trụ trung tâm: Trong trụ trung tâm, mô dẫn sắp đặt khác nhau ở Một lá mầm và Hai lá mầm. Ở trung trụ của thực vật Một lá mầm (khó phân biệt vỏ và trụ) các bó mạch chồng chất kín riêng biệt thường không theo một thứ tự nào cả. Những bó mạch kín này gồm có libe nằm ở phía ngoài và gỗ nằm ở phía trong. Ở những thực vật Hai lá mầm trong cấu tạo sơ cấp có thể phân biệt hai kiểu cấu tạo. Cấu tạo có bó mạch và cấu tạo không có bó mạch.
Trong kiểu cấu tạo thứ nhất, trung trụ gồm những bó mạch chồng chất hở riêng biệt cũng gồm libe ở ngoài và gỗ ở trong, giữa là tầng phát sinh trụ. Ở đây các bó mạch được xếp thành một có khi hai vòng.
Tuỷ là phần giữa của trung trụ, không có mô dẫn ở trong đó mà nó chỉ gồm những tế bào mô mềm lớn. Màng bằng cellulose, cũng có khi màng hoá gỗ. Những tế bào của tuỷ sau một thời gian có thể chết đi và bị phá huỷ. Lúc đó ở giữa thân xuất hiện một khoang rỗng.
Tế bào mô mềm ở giữa bó mạch tạo thành các tia tuỷ sơ cấp.
5.2. Cấu tạo thứ cấp của thân.
Những biến đổi trong cấu tạo thứ cấp của thân cây Hai lá mầm không có gì khác là sự
hoạt động của hai tầng phát sinh thứ cấp: tầng phát sinh trong trung trụ là tượng tầng (tầng phát sinh trụ) và tầng phát sinh ngoài của phần vỏ gọi là tầng phát sinh bần lục bì (tầng phát sinh vỏ).
Hoạt động của tượng tầng có thể có cấu tạo liên tục không có bó mạch, cũng có thể cho cấu tạo có bó mạch. Trong cấu tạo không có bó mạch thì ngay trong giai đoạn non, trong trung trụ cũng không phát triển bó mạch, từ đó sẽ cho một vòng gỗ đầy đủ ở phía trong và một vòng libe ở phía ngoài, giữa chúng có một lớp tượng tầng. Hoạt động của tượng tầng này về sau sẽ làm cho cây tăng trưởng về chiều dày của gỗ (phát triển ly tâm) và của libe (phát triển hướng tâm). Gỗ luôn luôn được tạo thành nhiều hơn libe. Ngoài những yếu tố của libe và của gỗ, ở thân cây còn phát triển tia mô mềm. Đó là những tê bào mô mềm có khoang hẹp xuyên gỗ và libe, chức phận của chúng là dẫn truyền các chất theo hướng xuyên tâm. Màng của chúng trong phần gỗ thì hoá gỗ và ở phần libe thì bằng cellulose, hoạt động hằng năm của tượng tầng sẽ cho ra những lớp gỗ khác nhau: gỗ mùa Xuân và gỗ mùa Hè, các lớp gỗ này rất rõ và làm thành từng vòng mà người ta gọi là vòng dày hàng năm.
Ở phần vỏ, trong cấu tạo thứ cấp, có sự hoạt động của tầng phát sinh vỏ sẽ phát triển thành chu bì. Chu bì gồm một số lớp bần, tầng sinh bần và tế bào lục bì. Về sau ở một số cây gỗ, tập hợp của nhiều lớp vỏ chết hình thành nên thụ bì.
III. HƯỚNG DẪN VÀ THỰC HÀNH.
1.Hình thái ngoài của thân.
Quan sát các loại thân theo vị trí trong không gian: Thân thẳng, thân nằm, thân leo.
Theo đặc điểm cấu tạo và sinh trưởng: Thân gỗ, thân bụi, thân leo và thân cỏ …
- Vật liệu:
Thân Rau má - Thân bò.
Thân Su hào - Thân củ.
Thân Phong lan - Thân giò.
Thân Bí ngô (Cucurbita pepo) - Thân leo.
Thân Cỏ tranh (Imperata cylindrical) - Thân rễ.
Thân Trầu không - Thân leo.
Thân dừa (Cocos nucifera) - Thân cột.
Thân Khoai lang (Ipomoea batatas) - Thân bò.
Hình 23a. Một vài kiểu thân.
1. Thân rễ (cỏ tranh); 2. Thân cột (dừa); 3. Thân bò (rau má);
4. Thân củ (su hào); 5. Thân leo (trầu không); 6. Thân giò (phong lan).
Hình 23b. Một vài loại thân.
1. Một phần của thân với lá (m: mấu; l: lóng); 2. Thân có cánh; 3. Thân bò; 4. Thân leo (thân quấn); 5. Thân leo (tua cuốn); 6. Thân rễ ; 7. Thân củ; 8. Thân hành;
9. Thân hành cắt dọc.
2. Cấu tạo giải phẫu của thân cây.
2.1. Cấu tạo sơ cấp của thân.
-Vât liệu: Thân cây cỏ hôi (Ageratum conizoides).
-Hoá chất: Dùng để nhuộm kép.
-Làm lát cắt ngang thân cỏ hôi, nhuộm kép.
- Quan sát tổng quát và chi tiết nhận thấy từ ngoài vào có:
+ Biểu bì có cutin che phủ.
+ Mô dày góc.
+ Mô mềm vỏ chứa diệp lục.
+ Nội bì.
+ Trụ bì.
Các bó mạch gồm:
+ Libe ngoài.
+ Tầng phát sinh libe gỗ.
+ Gỗ sơ cấp: Các mạch ngoài lớn, mạch trong nhỏ.
+ Libe trong.
+ Mô mềm ruột: có các tia tủy nối liền miền tủy với miền vỏ.
Hình 24b. Cấu tạo sơ cấp thân cây cỏ hôi.
2.2. Cấu tạo thứ cấp của thân cây.
- Vật liệu: Thân cây Dâm bụt (Hibicus rosa-sinensis).
- Hoá chất: Dùng để nhuộm kép.
Chọn cành Dâm bụt trưởng thành, làm lát cắt ngang, nhuộm kép.
Hình 25a. Cấu tạo thứ cấp của thân cây Dâm bụt.
Quan sát tổng quát và chi tiết phân biệt:
- Bì khổng: nằm rải rác phía ngoài thân.
- Chu bì: nhận biết tầng phát sinh bần, các tế bào bần và tế bào lục bì.
- Các yếu tố mạch làm thành vòng liên tục có những tia mô mềm gỗ băng ngang.
- Libe cứng nhiều lớp bắt màu xanh.
- Libe mềm nhiều lớp xen kẽ với các lớp libe cứng.
- Tầng phát sinh libe gỗ.
- Gỗ thứ cấp.
- Gỗ sơ cấp: nằm gần mô mềm ruột ở trung tâm.
Hình 25b. Cấu tạo thứ cấp của thân cây Dâm bụt.
Hình 25c. Cấu tạo thứ cấp của thân cây Dâm bụt.
A.Sơ đồ cấu tạo tổng quát (1/2 thân dâm bụt); B. Cấu tạo chi tiết một phần của thân;
1. lỗ vỏ; 2. Bần; 3. Mô mềm vỏ; 4. Mô dày; 5. Libe cứng; 6. Libe mềm; 7. Tầng phát sinh trụ; 8. Gỗ; 9. Tia ruột; 10. Mô mềm ruột.
IV. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU.
1. Những cấu trúc đặc trưng của thân cỏ cây Hai lá mầm?
2. So sánh cấu tạo sơ cấp và cấu tạo thứ cấp?
3. Phân biệt 2 tầng phát sinh vỏ và trụ ở cấu tạo thân thứ cấp?
Thứ năm , ngày 29 tháng 5 năm 2008 - 8:15:09 AM
Bottom of Form
LIÊN HỆ
Trang chính
Thủy sản
Chăn nuôi
Trồng trọt
Lâm nghiệp
Thực phẩm
Tư liệu
Xuất nhập khẩu
Trang trại
CNSH-Cấy mô
Phong lan
EUREGAP-SQF
Giống thủy sản
Giống vật nuôi
Tư vấn sản xuất
Hỏi - Đáp
Giao dịch mua bán
Sơ đồ vị trí Cty
Thành viên
ID: Pass: Lưu thông tin
Đăng ký thành viên
LÂM NGHIỆP
Cập nhật: 05 tháng 09 năm 2005
Nghiên cứu một số tính chất vật lý và cơ học gỗ Điều (Anacardium occidentale)
Nguồn: Phạm Ngọc Nam - ĐHNL TP.HCM 2004
Điều là loài cây trồng chủ yếu ở các tỉnh phía nam Trung Bộ từ Đà Nẳng trở vào. Việt Nam là một nước sản xuất điều phát triển mạnh, đứng hàng thứ ba trong số các nước có diện tích trồng điều lớn và có sản lượng cao.
Theo quyết định 20/99/QT-TTg do Bộ NN và PTNT phê duyệt thì diện tích trồng điều đến năm 2005 sẽ tiến hành trồng mới 100.000- 150.000ha ở vùng Duyên hải Miền Trung và vùng thấp Tây nguyên, đến năm 2010 cả nước sẽ trồng mới là 300.000 ha. Có thể gây trồng trên nhiều loại đất khác nhau, đặc biệt nó có tacù dụng cải tạo đất. Đây là loại cây trồng để lấy hạt là chủ yếu. Trước đây cây điều được gây trồng làm đai phòng hộ dọc các dải đất trống hoặc dùng làm cây phủ xanh đất trống, đối trọc. Hiện nay nó được gây trồng rộng rãi trong các hệ thống nông lâm kết hợp. Dầu vỏ hạt điều có thể điều chế ra vecni, sơn chống thấm, thuốc nhuộm, chất cách điện. Hương liệu vỏ cây có thẻ dùng để chiết xuất tanin dùng trong công nghệ thuộc da và mực in. Nhựa thân cây điều làm keo dán, vecnin chống mối mọt… Phần quả và trái là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Ngoài ra, gỗ điều còn là nguồn cung cấp nguyên liệu cho công nghệ sản xuất hàng mộc.
Khi cây cho năng suất hạt thấp, vườn điều được thanh lý lấy gỗ. Để có thể sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu này một cách hợp lý, tiết kiệm trước tiên cần phải nghiên cứu các đặc tính của nó. Do vậy tác giả đã tiến hành khảo sát một số tính chất vật lý và cơ học gỗ điều làm co sở cho việc xậy dựng các quá trình công nghệ hợp lý, đề xuất phương pháp gia công mới, nâng cao khả năng lợi dụng gỗ đạt hiệu quả cao.
Sức hút ẩm
Gỗ hút ẩm sẽ làm giãn nở và thay đổi hình dạng và kích thước, giảm khả năng chịu lực, tạo điều kiện cho nấm phát triển. Đây là một tính chất cần phải chú ý trong quá trình sử dụng gỗ.
Sức hút ẩm của gỗ ảnh hưởng đến khả năng hút hơi nước của gỗ trong quá trình hong phơi tự nhiên hoặc sản phẩm từ gỗ để tự nhiên trong môi trường. Nếu tốc độ hút ẩm lớn thì nó góp phần làm tăng tốc độ điều hòa ván sau khâu ép nhiệt. Sức hút ẩm của gỗ biểu thị khả năng hút ẩm, thông qua đó có thể đánh giá và tính toán được tốc độ hút và thoát ẩm của gỗ trong quá trình sấy.
Sức hút nước
Ngoài khả năng hút ẩm gỗ còn hút nước. Khả năng hút nước có ý nghĩa rất lớn trong khâu ngâm tẩm hóa chất bảo quản gỗ. Xác định khả năng hút nước của gỗ theo CVN 360-70. Kết quả cho thấy thời gian ngâm nước càng nhiều thì lượng hút nước càng tăng. Khi mới bắt đầu ngâm nước thì lượng hút nước rất mạnh. Sau đó tuy vẫn tăng nhưng tốc độ hút chậm dần.
Tốc độ hút và thoát nước có ảnh hưởng đến kỹ thuật công nghệ phun keo. Sức hút nước của gỗ biểu thị khả năng hút và thoát hơi nước của gỗ, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình bảo gỗ, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình bảo quản gỗ và nhất là trong công nghệ sản xuất bột giấy và ván sợi ướt.
Khối lượng thể tích
Khối lượng thể tích là chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá lượng thực chất gỗ có trong một đơn vị thể tích nhằm đánh giá được một phần cường độ và giá trị công nghệ của gỗ. Đối chiếu với TCVN 1072-71 thì gỗ điều thuộc nhóm VI. Khối lượng thể tích có quan hệ mật thiết với tính chất cơ học, vật lý của gỗ. Nó là cơ sở cho việc đánh giá giá trị của gỗ trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Khối lượng thể ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng thể tích của thảm dăm, tỷ số nén của khâu ép định hình, ép nhiệt, khả năng truyền nhiệt của dăm.
Tỷ lệ co giãn theo chiều dài và thể tích
Độ co rút không đồng nhất là tính chất vốn có của gỗ, dẫn đến sự thay đổi vật lý quan trọng khi gỗ được xử lý thủy nhiệt hoặc hong phơi, trong những điều kiện thời tiết khác nhau. Đây chính là nguyên nhân gây ra biến hình cong vênh và nứt nẻ trong quá trình chế biến và bảo quản gỗ. Xác định tỉ lệ co giãn theo TCVN 340 – 70 cho thấy gỗ điều có tỉ lệ co dãn theo chiều xuyên tâm và tiếp tuyến không nằm ngoài quy luật chung của gỗ lá rộng. Đó là tỉ lệ co rút theo chiều dọc thớ < 1%, ngoài ra do khối lượng thể tích khá thấp do vậy chênh lệch co rút tiếp tiến và xuyên tâm khá lớn 1,85 điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết khoa học gỗ, tuy nhiên đây cũng là trong những khó khăn trong công nghệ gia công chế biến gỗ.
Độ ẩm bảo hòa thớ gỗ – Độ ẩm thăng bằng
Điểm bảo hòa thớ gỗ là một đặc