Lễ hội Quán Thế Âm - Đà Nẵng

MỞ ĐẦU Mùa xuân - mùa khởi đầu cho một năm, mùa sinh sôi nảy nở của vạn vật, cỏ cây,. Giữa tiết trời ấm áp ấy, lòng người phơi phới rủ nhau đi hội, hành hương về cội nguồn, vui chơi và cầu mong cho mùa màng tốt tươi, con người hạnh phúc. Mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng bao giờ cũng hướng tới một một đối tượng linh thiêng cần được suy tôn như những vị anh hùng chống ngoại xâm, những người có công dạy dỗ truyền nghề, chống thiên tai, diệt trừ ác thú, giàu lòng cứu nhân độ thế,. Với tư tưởng uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây, ngày hội diễn ra sôi động bằng những sự tích, công trạng, là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, làm cho thế hệ trẻ hôm nay hiểu được công lao tổ tiên, thêm tự hào về truyền thống quê hương, đất nước của mình. Đặc biệt, lễ hội ở nước ta gắn bó với làng xã, địa danh, vùng đất như một thành tố không thể thiếu vắng trong đời sống cộng đồng nhân dân. Lễ hội Quán Thế Âm - Đà Nẵng là lễ hội mang sắc thái tôn giáo kết hợp với văn hoá dân tộc, là một trong 15 lễ hội lớn cấp quốc gia, được tổ chức khá quy mô và thu hút đông đảo lượng tín đồ phật tử hành hương và du khách tới tham quan. Chúng ta sẽ tìm hiểu đôi nét về lễ hội Quán Thế Âm - Đà Nẵng qua bài viết này.

doc32 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3918 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lễ hội Quán Thế Âm - Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Mùa xuân - mùa khởi đầu cho một năm, mùa sinh sôi nảy nở của vạn vật, cỏ cây,... Giữa tiết trời ấm áp ấy, lòng người phơi phới rủ nhau đi hội, hành hương về cội nguồn, vui chơi và cầu mong cho mùa màng tốt tươi, con người hạnh phúc. Mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng bao giờ cũng hướng tới một một đối tượng linh thiêng cần được suy tôn như những vị anh hùng chống ngoại xâm, những người có công dạy dỗ truyền nghề, chống thiên tai, diệt trừ ác thú, giàu lòng cứu nhân độ thế,... Với tư tưởng uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây, ngày hội diễn ra sôi động bằng những sự tích, công trạng, là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, làm cho thế hệ trẻ hôm nay hiểu được công lao tổ tiên, thêm tự hào về truyền thống quê hương, đất nước của mình. Đặc biệt, lễ hội ở nước ta gắn bó với làng xã, địa danh, vùng đất như một thành tố không thể thiếu vắng trong đời sống cộng đồng nhân dân. Lễ hội Quán Thế Âm - Đà Nẵng là lễ hội mang sắc thái tôn giáo kết hợp với văn hoá dân tộc, là một trong 15 lễ hội lớn cấp quốc gia, được tổ chức khá quy mô và thu hút đông đảo lượng tín đồ phật tử hành hương và du khách tới tham quan. Chúng ta sẽ tìm hiểu đôi nét về lễ hội Quán Thế Âm - Đà Nẵng qua bài viết này. NỘI DUNG I. Khái quát về lễ hội Lễ hội ở nước ta thật đa dạng và phong phú. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, Việt Nam có gần 500 lễ hội cổ truyền lớn, nhỏ trải rộng khắp đất nước trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Phần lớn các lễ hội ở Việt Nam thường gắn với sự kiện lịch sử, tưởng nhớ người có công với nước trong chiến tranh chống giặc ngoại xâm nên các trò vui chơi ở lễ hội thường mang nhiều tính mạnh mẽ của tinh thần thượng võ như: Thi bắn nỏ, đấu vật (hội Cổ Loa) đấu vật, đấu võ, chạy thi (hội hoa Vị Khê, Nam Định), thi bắn nỏ, ném còn (ở vùng đồng bào dân tộc phía Bắc),... ở các lễ hội của bà con dân tộc Tây Nguyên, lễ hội đâm trâu được coi như tiêu biểu nhất. Trong lễ hội này, ngoài nghi lễ đâm trâu hiến tế hấp dẫn, ly kỳ còn có trò múa khiên, ném lao, đấu gậy. Các trò vui chơi giải trí ở lễ hội còn bao gồm những hoạt động văn hoá, xã hội khác như thi hát Quan họ, thi thổi cơm, chọi gà, dệt vải, đấu vật, đánh đu,... và đặc biệt nhất là thi đánh đu. Đánh đu không chỉ xuất hiện trong dịp lễ hội lớn mà còn là một trò vui chơi dân dã trong những ngày Tết ở khắp các làng xã. Ngày xuân, người ta thường đi chơi đông hơn bình thường. Kẻ đi xa, người đi gần, trang phục lộng lẫy, hân hoan phấn khởi làm cho không khí đầu xuân càng thêm rạo rực. Có lẽ ai cũng muốn dành ít thời gian để vãn cảnh thiên nhiên đất trời, tận hưởng bầu không khí trong lành với mùa xuân tươi đẹp. Họ đến với các di tích lịch sử, danh thắng, đền, chùa để tham dự các lễ hội truyền thống. Chỉ tính riêng tháng Giêng cũng đã có biết bao nhiêu lễ hội tưởng nhớ các vị anh hùng dân tộc, những người có công chống giặc ngoại xâm như: Hội Đống Đa, kỷ niệm chiến thắng của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ và tưởng niệm các chiến sĩ vong trận trong đại chiến thắng Đống Đa vào ngày 5/1. Hội đền An Dương Vương (Cổ Loa Hà Nội) ngày 6/1 tưởng niệm Thục Phán người có công dựng nước Âu Lạc, xây thành Cổ Loa; Hội đền Cửa Suốt (Quảng Ninh) tưởng niệm Trần Quốc Toản có công đánh đuổi giặc Nguyên, hội đền Hạ Lôi (Mê Linh) tưởng niệm Hai Bà Trưng, hội “Cơm hòm” ở Phổ Yên, Thái Nguyên ngày 6 tháng Giêng kỷ niệm người đàn bà vô danh thời Hậu Lê có công bày mưu đánh giặc Minh,... Cũng vào thời điểm này, du khách bốn phương về hội Hoa Vị Khê (Nam Định) từ ngày 20 đến ngày 30 tháng Giêng để chiêm ngưỡng hoa, cây cảnh của làng nghề truyền thống Vị Khê, hội du xuân lễ bái cầu mong một năm mới thịnh vượng ở núi Bà Đen (Tây Ninh). Đặc biệt vào mùa này, du khách đổ lên núi Yên Tử dự lễ hội chùa, vãn cảnh hùng vĩ của đất nước và thử thách lòng thành của mình. Đến Hòa Bình để được xem hội Chơi hang, hội Xên bản, Xên mường của người Thái; lên Sơn La cùng thả hồn vào những cánh rừng ban trắng trong ngày hội hoa ban, đi chơi núi, du thuyền độc mộc trên thắng cảnh hồ Ba Bể. Ngoài ra, người Tày, Nùng Tây Bắc còn có hội Lồng Tồng, người Dao có hội Tết Nhảy, người Mông có hội Sắc bùa, hội chơi núi chơi xuân, người Khơ me Nam Bộ có hội mừng năm mới,... Sự phong phú của lễ hội ở Việt Nam vừa là nét đẹp văn hóa dân tộc nhưng cũng vừa là một trong những sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Nằm trong xu thế chung của cả nước, Đà Nẵng - thành phố xinh đẹp bên sông Hàn cũng là vùng đất có nhiều lễ hội được diễn ra hàng năm. Du khách đến đây rất thích tham gia các lễ hội truyền thống, và là dịp để mỗi người gặp gỡ, gần gũi nhau, cùng cầu mong mưa thuận gió hoà, tổ tiên phù hộ và mong ước người thân gặp nhiều may mắn. Lễ hội ở Đà Nẵng có nhiều điểm giống các vùng duyên hải Miền Trung, song cũng mang rất nhiều nét đặc trưng tạo nên vẻ đẹp rất riêng của miền đất này. Trong những ngày lễ hội, cả một vùng rực rỡ màu sắc, và rộn ràng những khúc hát cầu an, nhịp điệu bài chòi tha thiết. Các lễ hội của Đà Nẵng có từ rất xưa, được lưu truyền từ đời này sang đời khác, như Lễ hội Cầu Ngư, Lễ hội Quán Thế Âm, Lễ hội đình làng Hoà Mỹ, Lễ hội đình làng An Hải,... Qua thời gian, cũng có những lễ hội không còn nữa như Lễ rước Mục đồng, là lễ hội rất đặc biệt dành riêng cho trẻ chăn trâu, những đứa trẻ chân lấm đầu trần tinh nghịch. Không chỉ giữ gìn những lễ hội truyền thống, người Đà Nẵng đã tạo cho mình một lễ hội mới dựa trên nền truyền thống là Lễ hội đua thuyền. Lễ hội này được tổ chức nào ngày quốc khánh 2/9 hằng năm trên dòng sông Hàn với hàng chục đội đua của các địa phương trong và ngoài thành phố. Đó thật sự là những ngày hội của non sông và cũng là ngày hội của lòng người. Lễ hội đã hiện diện trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân loại từ bao đời nay, lễ hội đã ăn sâu trong tâm thức người dân Việt Nam nói chung, người dân Đà Nẵng nói riêng. Lễ hội ở Đà Nẵng có thể được phân chia theo các dạng thức sau: Lễ hội liên quan đến cuộc sống trong mối quan hệ với tự nhiên, lễ hội liên quan đến cuộc sống trong mối quan hệ với môi trường xã hội, lễ hội tôn giáo và văn hóa. Đặc biệt, Lễ hội tôn giáo là hệ thống lễ kỷ niệm ngày sinh của các đấng giáo chủ sáng lập ra tôn giáo như đức Chúa Jesus với lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh; đức Phật Thích Ca với lễ Phật Đản, đức Bồ Tát với lễ hội Quán Thế Âm,... ngày tưởng nhớ mẹ với lễ Vu Lan,... những lễ này được diễn ra hết sức long trọng, phần lễ được chú trọng hơn phần hội với những nghi thức truyền thống nghiêm túc. Hiện nay, các hoạt động trong quá trình diễn ra lễ hội ngày càng được tổ chức phong phú hơn, đối tượng tham dự rộng rãi hơn, không chỉ hạn hẹp trong phạm vi những người có đạo mà còn dành cho cả những người ngoại đạo, nhất là lễ hội mang tính quốc gia như Lễ hội Quán Thế Âm (được ghi vào danh mục những ngày lễ hội lớn của cả nước, gắn với khu di tích lịch sử - văn hoá và danh thắng). Trong những năm gần đây, lễ hội Quán Thế Âm đã thu hút hàng vạn người từ các vùng miền về tham dự. Hội trong các lễ hội tôn giáo có các hình thức sinh hoạt cộng đồng sinh động như các trò chơi dân gian, biểu diễn nghệ thuật, tái hiện các sự tích - truyền thuyết tôn giáo, rước cộ, xe hoa, thuyền hoa, phóng sinh, hoa đăng, thả diều, triển lãm thư pháp, trưng bày tranh ảnh nghệ thuật, cắm trại, ẩm thực dân gian,... Đặc biệt, được sự quan tâm của lãnh đạo thành phố, các lễ hội tôn giáo khởi sắc hơn, phong phú đa dạng hơn, thu hút rất đông đảo du khách nội địa và nước ngoài. II. Lễ hội Quán Thế Âm Đà Nẵng 2.1. Khái quát về Quán Thế Âm bồ tát và Chùa Quán Thế Âm Đà Nẵng 2.1.1. Quán Thế Âm bồ tát Quán Thế Âm, tiếng Phạn là Avalokitesvara. Đó là vị bồ tát trong Phật giáo Bắc tông, mang hạnh nguyện cao cả: Đại từ đại bi, linh cảm ứng, tầm thinh cứu khổ. Do đại nguyện lớn lao này mà khi phiên âm tên Ngài là Quán Thế Âm, hàm nghĩa “lắng nghe âm thanh kêu cứu khổ nạn mà giúp đỡ”. Ngài còn được gọi dưới danh hiệu bồ tát Quán tự tại. Thế nào là Quán tự tại? Là ở nơi không hai lập cái thế. Không hai, tức không có ta và vật, không đây và đó, không khoảng cách, không chướng ngại, hoàn toàn tự do nên không gì là không biết, không gì là không thấy, không đâu là không đến được, đó là tự tại. Sự hóa hiện mầu nhiệm cùng với những đức năng được nhiều bản kinh Bắc truyền mô tả, Ngài được biểu trưng bằng những hình ảnh khác nhau như: Cửu diện Quán Âm, Thập nhất diện Quán Âm, Tống tử Quán Âm, Quán Âm thiên thủ thiên nhãn, Nam Hải Quán Âm, Bạch y Quán Âm… Ngày nay, Quán Thế Âm bồ tát được thờ phụng tại nhiều quốc gia dưới nhiều tên gọi khác nhau như Kannon, Kanzeon (Nhật Bản), Guan Yin, Guan Shiyin (Trung Quốc), Spyanrasgzigs (Tây Tạng), Nidubarusheckchi (Mông Cổ), Quan Âm (Việt Nam). Người Champa và Khmer gọi là Lokesvara. Quán Thế Âm bồ tát thể hiện tính “Bi” nên còn được gọi là Phật Quan Âm, là bậc Đại Bi, cùng với Bát Nhã là hai dạng của Phật tính. Quán Thế Âm bồ tát cũng thể hiện nguyện lực của Phật A Di Đà và với lòng từ bi vô lượng, thể hiện sức mạnh huyền diệu, cứu giúp mọi chúng sinh quán tưởng đến người khi gặp hiểm nguy. Theo các nhà nghiên cứu, tín ngưỡng Quán Thế Âm phổ biến ở các nước theo Phật giáo Bắc tông. Người đầu tiên dịch kinh điển về tín ngưỡng Quán Thế Âm là Chi Cương Lương Tiếp đã dịch kinh Pháp Hoa tam muội (6 quyển) năm 255 tại Giao Châu (Bắc Việt Nam) cùng với nhà sư Thích Đạo Thanh. Ngài Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch Quán Thế Âm Phổ môn trong kinh Chính Pháp Hoa năm 286. Ngài Đàm Vô Kiệt dịch kinh Quán Thế Âm bồ tát thọ ký. Ngoài ra, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Hoa Nghiêm, kinh Thập nhất diện Quán Thế Âm thần chú,… cũng đề cập đến Quán Thế Âm. Chính nhờ các bản kinh này đã làm cho tín ngưỡng Quán Thế Âm ngày càng phát triển rộng rãi. Theo kinh điển và truyền thuyết của Phật giáo Đại Thừa thì trong vô số các vị bồ tát được ngưỡng vọng và thờ tự phổ biến nhất có 4 vị là Văn Thù (Manjusri), Phổ Hiền (Samantabhadra), Địa Tạng (Ksitigarbha) và Quan Âm (Avalokitesvara). Bốn vị này có liên hệ sâu xa với chúng sinh ở cõi Ta Bà và khi truyền vào Trung Quốc, bốn vị bồ tát này cư ngụ nơi bốn đại danh sơn là Ngũ Đài, Nga Mi, Phổ Đà và Cửu Hoa. Đạo trường của Văn Thù bồ tát là núi Ngũ Đài ở tỉnh Sơn Tây; đạo trường của Phổ Hiền bồ tát là núi Nga Mi ở tỉnh Tứ Xuyên; đạo trường của Địa Tạng Vương bồ tát là núi Cửu Hoa, thuộc tỉnh An Huy; còn đạo trường của Quan Thế Âm bồ tát là núi Nam Hải Phổ Đà của tỉnh Triết Giang. Quán Thế Âm có bản nguyện và năng lực là quan sát và lắng nghe những âm thanh kêu gọi cứu khổ của chúng sinh mà mở lòng cứu độ chúng sinh trong mọi hoàn cảnh, tình huống khổ đau, hoạn nạn, hiểm nguy,… và nhiều sự nhiệm mầu khác. Cũng vì đó mà hàng Phật tử tôn kính, thờ tự, ngưỡng nguyện Ngài mọi lúc, mọi nơi trong sự độ trì của Ngài. Tiểu sử Quan Thế Âm bồ tát có nhiều, trong chính sử cũng có mà dã sử cũng có, tuy nhiên ở mỗi nơi một khác và được tạo dựng theo từng khung cảnh và tập quán của từng khu vực. Mỗi quốc gia lại có những truyền thuyết riêng, nhưng đều nhấn mạnh đến đức hy sinh và sự nhẫn nhục của Ngài trước khi thành đạo. Có chuyện cho rằng, bồ tát nguyên là con trưởng của một vị vua tại Ấn Độ, tên là Bất Tuân, cùng với cha và em theo Phật Thích Ca tu hành, sau được cải danh, vua cha thành Phật A Di Đà, còn hai người con là hai vị bồ tát, một người là Quán Thế Âm, một người là Đại Thế Chí, ba cha con gọi là Tây Phương Tam Thánh. Ở Ấn Độ, nơi xuất phát đạo Phật, Quán Thế Âm được biểu tượng qua hình ảnh một người nam. Về sau, khi du nhập vào Trung Quốc và một số quốc gia ở Đông Nam Á, Quán Thế Âm bồ tát lại mang hình tướng người nữ. Do đâu và vào thời kỳ nào mà Quán Thế Âm bồ tát từ hình tượng một người nam biến thành người nữ? Có nhiều ý kiến cho rằng, từ thế kỷ thứ V trở về trước, bồ tát được miêu tả như một người đàn ông với hình dáng rất thanh tú. Nhưng từ thế kỷ thứ VIII trở đi thì Quan Thế Âm bồ tát được miêu tả như một người đàn bà. Theo nhà sử học Trung Hoa Lý Bách Dược chuyên nghiên cứu về thời kỳ nhà Đường, viết trong Bắc Tề thư thì vào thời Nam Bắc Triều, vua Tề Võ Thành bị bệnh, nằm mơ thấy Quán Thế Âm trong hình dáng một người đàn bà đẹp. Việc nhà vua nằm mơ đó không biết thực hư thế nào nhưng trước đời Đường, trong những bức họa của dân gian thì Quán Thế Âm bồ tát đã được vẽ thành hình một người đàn bà rồi. Từ giữa đến cuối thế kỷ thứ IX trở về sau, tại Trung Quốc, Quán Thế Âm bồ tát hoàn toàn được miêu tả dưới hình dáng một người phụ nữ cho tới ngày nay. Lý giải điều này, có người cho rằng, đạo Phật truyền vào Trung Quốc đã bị biến dạng, không còn như nguyên thủy, và ít nhiều pha trộn với những hình tượng tôn giáo bản xứ, trong đó lý thuyết âm dương được thêm vào, và bên cạnh chư Phật trong nam thân, có một vị Phật trong nữ thân đứng song song, nên Quán Thế Âm là nam nhân ở Ấn Độ khi truyền sang Trung Quốc đã thành nữ giới. Ở Việt Nam và một số quốc gia ở khu vực châu Á như Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Quốc là những quốc gia lấy nông nghiệp làm trọng, vì vậy cư dân nông nghiệp lúa nước có khuynh hướng trọng yếu tố phồn thực, sự sinh sôi, nảy nở, phát triển, và chỉ có người phụ nữ mới có khả năng làm được việc này. Vì vậy, xu hướng thờ thần nữ và trọng yếu tố âm đã trở nên phổ biến. Một nhà văn hóa học nổi tiếng đã cho rằng: Tính chất âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến hậu quả trong lĩnh vực quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm, trọng phụ nữ, và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tình trạng lan tràn các nữ thần. Và vì cái đích mà người Việt Nam hướng tới là sự phồn thực, cho nên nữ thần của ta không phải là các cô gái trẻ đẹp, mà là các Bà Mẹ, các Mẫu. Quán Thế Âm là biểu trưng cho vị bồ tát hóa độ xuyên suốt thời gian và không gian kể từ khi Đức Phật Thích Ca thị hiện ở cõi Ta Bà cho đến lúc Phật Di Lặc đản sinh và hơn thế nữa. Chí nguyện đó trở thành cơ sở cho niềm tin bất diệt trong tâm thức người Phật tử, vì vậy Đức Quán Âm có ý nghĩa như là toàn bộ giá trị thăng chứng trí tuệ, giác ngộ giải thoát, sự chứng đắc quả vị Phật, luôn hiện hữu trong mọi chúng sinh. Trong những khổ đau, hoạn nạn của cuộc sống, người ta thường cầu xin sự giúp đỡ và chở che nhiệm mầu của Đức Quán Âm, bởi họ cảm nhận Ngài luôn dõi mắt và lắng nghe từng nhịp đập con tim của họ chẳng khác người mẹ trông con. Vì thế mà Ngài trở thành mẹ hiền Quán Thế Âm, dân gian còn gọi là Phật Bà. Từ đó, nói đến “Quán Âm” là nói đến hiện thân của lòng từ bi cao cả, tột cùng của chư Phật và Bồ tát nhiều đời. Thậm chí, bất kỳ sự linh nghiệm nào mà người ta đón nhận được từ trong khó khăn, nguy hiểm hay an vui, thuận lợi đều được xem là có sự cứu độ của Ngài. Và đó là vị bồ tát cứu giúp cho người sống cũng như cả cho người chết, nhưng trì niệm danh hiệu Ngài trong việc cầu an vẫn là phổ biến hơn cả. Niệm hồng danh của Ngài, tham gia vào việc tổ chức lễ hội nhân ngày vía Quán Thế Âm đã trở thành một lễ hội lớn, mang tính khu vực, vùng, chứ không còn nằm trong khuôn khổ của một ngôi chùa hay của một đạo Phật ở Việt Nam nữa. Tính chất rộng mở của lễ hội cho thấy vị trí và tầm quan trọng của vị bồ tát này trong đời sống tâm linh của từng cá nhân và của cả cộng đồng. 2.1.2. Chùa Quán Thế Âm Đà Nẵng Chùa Quán Thế Âm được thành lập vào năm 1957, tọa lạc tại chân núi Kim Sơn, một trong năm ngọn Ngũ Hành Sơn - TP. Đà Nẵng, là nơi danh lam thắng cảnh của đất nước. Đặc biệt, nơi đây được gọi là Thánh Địa Phật Giáo, vì hầu hết trên năm ngọn Ngũ Hành Sơn đều có chùa chiền cổ kính hoặc tân tạo. Hệ thống hang động thiên nhiên kỳ vĩ, biển rộng sông dài, mái chùa hoặc ẩn mình trong hang cốc hoặc cheo leo trên sườn vai của núi hoặc uy nghiêm tọa lạc bên núi vững vàng, sương giáng mây vờn, tàng cây tươi mát, chim hót lừng vang. Phía Đông biển xa vời vợi, bãi cát trải dài, phía Tây Trường Giang lượn khúc, sông sen thơm lừng, đồng quê yên ả. Chùa do cố Hòa thượng Thích Pháp Nhãn trong một giấc thần mộng về Ngài Quán Thế Âm ứng hiện nơi động thiêng, pháp đàn của Ngài. Theo đó, Hòa thượng đã tìm thấy ngôi thạch động có tôn tượng Quan Âm hoàn toàn do thiên nhiên tạo nên thật là ứng nghiệm, từ đó Hòa thượng đã thành lập ngôi chùa Quán Thế Âm, vì có sự nhiệm mầu của Phật Pháp như vậy khiến lòng người phải ngưỡng mộ kính tin. Chùa nằm nép mình dưới ngọn núi Kim Sơn, soi bóng bên dòng sông Cổ Cò, một nhánh của sông Trường giang. Kim Sơn có dáng hình quả chuông nên còn có tên dân dã là ngọn núi Chuông Úp. Vào năm 1956, cố hoà thượng Thích Pháp Nhãn có cơ duyên phát hiện ra một hang động nằm sâu trong lòng núi hướng ra dòng sông. Đường vào động là những bậc đá tự nhiên. Động có chiều dài hơn năm chục mét, chiều ngang gần mười mét và trần động nhấp nhô cao thấp khoảng mười đến mười lăm mét, thuộc vào dạng hang động lớn của Ngũ Hành Sơn. Điều đặc biệt độc đáo trong hang động này là vô số các thạch nhũ đầy màu sắc, hình thể phong phú da dạng, trong đó có những tượng hình rất giống hình dáng thật, do thiên nhiên khắc hoạ với những hình khối đường nét rõ ràng sắc sảo, chẳng khác nào do những nghệ nhân tài hoa chạm trổ công phu. Bước vào động phía trước mặt ngước nhìn trên vách đá, nổi bật lên pho tượng Quan Thế Âm, là một vị Thánh trong Phật giáo. Pho tượng cao bằng hình người (1,75m), cân phân, thanh tú, một giải kim tuyến lấp lánh, rực sáng, bề ngang hơn gang tay phủ từ bờ vai chảy dài đến hết thân tượng, làm cho bức tượng hết sức sống động huyền ảo, bàn tay phải bưng bình nước cam lồ, chân tượng đứng trên lưng rồng đang cuộn mình giữa tầng sóng gợn. Phía sau, hình một đứa bé tượng trưng Thiện Tài đồng tử. Phía trên, bên trái, hình con chim khổng tước hai cánh toả rộng trần động, bên phải là khóm trúc, sau lưng là một dải mây đá ngũ sắc lung linh. Nhìn tổng thể, đây là một bức tượng phù điêu kết hợp hài hoà rất tài tình, gồm ba sự tích về Quán Thế Âm là Quan Âm Nam Hải tức Quan Âm ở biển phương Nam, Quan Âm Tống Tử là Quan Âm Thị Kính, Quan Âm hàng phục độc long (tức con rồng dữ) gây sóng gió ngoài biển khơi trong kinh Pháp Hoa. Điều đáng kinh ngạc và thán phục là chỉ với sự xâm thực nước gió cộng với thời tiết thiên nhiên đã tạo thành một tác phẩm phù điêu hoàn hảo, tuyệt mỹ đến từng chi tiết như đã mô tả. Đó là cái kỳ diệu vô giá của hang động Quan Âm. Ở giữa tiếng như chuông ngân, đây là cái chuông đá lớn hiếm có và duy nhất tại di tích này, các chỗ trong hang động động từ trên vòm động, một khối thạch nhũ bằng cây cột lớn, dài hơn năm mét thòng xuống sát đất, gõ vào phát ra còn có trống, mõ, khánh âm thanh khá chuẩn, tạo thành một bộ nhạc khí trong nghi lễ của chùa Phật giáo, tất cả cũng chỉ từ đá sinh ra. Ở gần cuối hang động, là một hang động nhỏ, hơi cúi thấp người để đi qua một đường hang hơi hẹp sẽ gặp một hồ nước mát, trong vắt quanh năm gọi là nước Cam lồ. Hồ nước này có một khoảng không gian riêng, như một cái động nhỏ kế tiếp hang động chính vậy. Một điều khác nữa của hang động này, là không khí hang động vừa linh thiêng vừa huyền bí vừa trang nghiêm vừa thân thuộc, vừa như cái bên ngoài đời và cái bên trong cõi lòng. Một không khí của đạo, của đời hoà lẫn trong hơi thở, trong cảm xúc sống của con người. Là nhân tố hình thành nên ngôi chùa Quán Thế Âm và một Lễ hội văn hoá. Chùa Quán Thế Âm tọa lạc tại địa chỉ 48 Sư Vạn Hạnh, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, trụ trì chùa hiện nay là Đại đức Thích Huệ Vinh, cảnh quan chùa rộng rãi, nhiều công trình được xây dựng như tượng đồng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm rất đặc sắc, hội trường, tăng xá,... thuận lợi cho việc tu tập và sinh hoạt, số tăng chúng tu học tại chùa gồm 40 vị, có các đạo tràng tu học - tương tế - từ thiện - văn nghệ, thư họa,... Ngôi chùa hiền hoà cổ kính, hang động thâm sâu huyền bí, là sự hổ tương cộng hưởng, tạo cho Ngũ Hành Sơn một sắc thái thiêng liêng sâu lắng, thanh thoát cao thượng cho tâm hồn, đó cũng là một bản sắc văn hoá đặc trưng. Sự thẩm thấu toả rộng theo dòng thời gian và hội tụ lòng ngưỡng mộ của con người trong tinh thần cộng đồng truyền thống dân tộc, từ đó hình thành nên một lễ hội văn hóa kết hợp giữa đời và đạo, là nhịp cầu giao hoà cảm thông giữa con người và thiên nhiên một quan hệ mật thiết muôn thuở. 2.2. Lễ hội Quán Thế Âm Đà Nẵng 2.2.1. Xuất xứ của lễ hội Chùa Quán Thế Âm có một phúc duyên lành
Luận văn liên quan