Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và công cụ tài chính nhất định. Thị trường tài chính là tổng hòa các quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế.
Cấu trúc thị trường tài chính: hiện nay có 3 cách chia phổ biến:
Theo công cụ tài chính trên thị trường:
- Thị trường nợ
- Thị trường vốn cổ phần
Theo sự luân chuyển các nguồn tài chính:
- Thị trường sơ cấp
- Thị trường thứ cấp
Theo thời gian sử dụng nguồn tài chính huy động được:
- Thị trường tiền tệ
- Thị trường vốn
11 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6431 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lí thuyết cấu trúc thị trường tài chính và thực trạng ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và công cụ tài chính nhất định. Thị trường tài chính là tổng hòa các quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế.
Cấu trúc thị trường tài chính: hiện nay có 3 cách chia phổ biến:
Theo công cụ tài chính trên thị trường:
- Thị trường nợ
- Thị trường vốn cổ phần
Theo sự luân chuyển các nguồn tài chính:
- Thị trường sơ cấp
- Thị trường thứ cấp
Theo thời gian sử dụng nguồn tài chính huy động được:
- Thị trường tiền tệ
- Thị trường vốn
I. Cấu trúc thị trường tài chính.
1.1.Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần
1.1.1Thị trường nợ.
Phương pháp chung nhất mà các công ty sử dụng để vay vốn trên thị trường tài chính là đưa ra một công cụ vay nợ ( trái khoán hay một món vay thế chấp).
Công cụ vay nợ (debt instrument) Sự thỏa thuận mang tính hợp đồng, trong đó người đi vay thanh toán cho người nắm giữ công cụ nợ một khoản tiền lãi cố định, và hoàn trả tiền vốn vào cuối kỳ hạn.
Kỳ hạn thanh toán : + < 1 năm: công cụ nợ ngắn hạn.
+ >= 1 năm: công cụ nợ trung và dài hạn.
Thị trường nợ: Thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ.
1.1.2.Thị trường vốn cổ phần.
Công cụ vốn (equity instrument) là loại công cụ mà buộc người phát hành phải trả cho người nắm giữ nó một số tiền dựa vào kết quả đầu tư (nếu có) sau khi đã thực hiện xong các nghĩa vụ đối với công cụ nợ. Công cụ vốn thường thấy nhất là cổ phiểu phổ thông ( cổ phiếu thường).
Người nắm giữ cổ phiếu :
+ Sở hữu một phần tài sản của công ty.
+ Có quyền được chia lợi nhuận từ thu nhập ròng của công ty.
Sở hữu công cụ nợ
Sỡ hữu cổ phiếu
-Được xem như là chủ nợ của công ty, được thanh toán trước các cổ đông công ty.
-Hưởng phần lãi cố định, và được hoàn trả vốn vào cuối kì hạn, không đc hưởng trên phần lợi nhuận của công ty.
-Chỉ nhận đc tiền lãi sau khi công ty trả đã thanh toán cho chủ nợ
-Cổ đông đc hưởng lợi ích trực tiếp do lợi nhuận hoặc là do tài sản của công ty tăng lên.
1.2. Thị trường cấp một và thị trường cấp hai( thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp).
1.2.1Thị trường sơ cấp ( primary market )
Đây là nơi mua bán những chứng khoán đang phát hành hay chứng khoán mới. Vì thế, trong thực tế người ta còn gọi thị trường phát hành chứng khoán.
Đặc điểm
+ Thị trường chứng khoán sơ cấp là thị trường hoạt động không liên tục, nó chỉ hoạt động khi có đợt phát hành chứng khoán mới.
+ Tham gia vào thị trường chứng khoán sơ cấp chủ yếu là các nhà phát hành, các nhà đầu tư và các nhà bảo lãnh (trường hợp phát hành chứng khoán theo phương thức bảo lãnh phát hành).
+ Tiền bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp thuộc về các nhà phát hành, do đó hoạt động ở thị trường này đã làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
+ Nguồn vốn chủ yếu của thị trường này là nguồn tiền tiết kiệm của công chúng cũng như một số tổ chức phi tài chính.
((Việc phát hành lần đầu tiên chứng khoán ra công chúng là giai đoạn khó khăn nhất, vì nếu không đạt được kết quả thì chứng khoán phát hành sẽ không tiêu thụ được và làm mất uy tín của đơn vị phát hành. Không phải nhà phát hành nào cũng có đủ điều kiện để thực hiện tốt việc phát hành nên trên thị trường sơ cấp xuất hiện tổ chức trung gian giữa nhà phát hành và người đầu tư, đó thường là ngân hàng.
Nhà phát hành sẽ thu được vốn mới chỉ khi những chứng khoán của nó được bán lần đầu tiên trên thị trường sơ cấp. Sau đó, việc mua bán các chứng khoán này trên thị trường chứng khoán thứ cấp sẽ không làm ảnh hưởng đến số vốn của người phát hành))
Chức năng:
Hoạt động của thị trường sơ cấp tạo ra một kênh huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. Ở thị trường sơ cấp, người phát hành nhận được tiền từ việc bán chứng khoán. Qua hoạt động này ở thị trường sơ cấp, các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế, xã hội được chuyển thành vốn đầu tư cho người phát hành chứng khoán. Thị trường sơ cấp là một kênh phân bổ vốn có hiệu quả. Chính vì vậy, thị trường sơ cấp không những đóng vai trò tập hợp các nguồn vốn mà còn là công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế
1.2.2Thị trường thứ cấp(secondary market):
Đây là nơi mua bán các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp.
Đặc điểm
- Thị trường có tính chất cạnh tranh hoàn hảo.
- Thị trường có tính liên tục.
- Khối lượng và nhịp độ giao dịch lớn gấp nhiều lần so với thị trường chứng khoán sơ cấp.
- Hoạt động chủ yếu của thị trường chứng khoán thứ cấp là các nhà đầu tư thực hiện chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán và tiền cho nhau.
Chức năng:
- Tạo điều kiện dễ dàng để bán những công cụ tài chính nhằm thu tiền mặt, tức là tạo cho các công cụ tài chính tăng tính thanh khoản tức là đc ưa chuộng hơn và dễ bán hơn. Thị trường thứ cấp không tạo ra thêm các nguồn lực tài chính cho nền kinh tế, nhưng đây lại là một thị trường tạo ra tính linh hoạt cho nền kinh tế.
- Xác định giá chứng khoán hợp lý trên cơ sở đấu giá tự do. Giá hợp lý trên thị trường thứ cấp ảnh hưởng đến giá phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Giá chứng khoán ở thị trường thứ cấp càng cao thì giá công ty phát hành nhận được sẽ càng cao => tổng vốn đầu tư cao hơn
Cách thức tổ chức thị trường thứ cấp
a. Thị trường tập trung
Là thị trường có địa điểm giao dịch hiện hữu, thường được gọi là Sở giao dịch hoặc Sàn giao dịch. Thị trường tập trung còn được gọi là thị trường chính thức.
Muốn tham gia vào thị trường tập trung này cần phải đăng ký làm thành viên, và các chứng khoán muốn được giao dịch trên thị trường cũng cần phải được đăng ký chính thức tại Sở giao dịch. Các giao dịch tại Sàn giao dịch được thực hiện thông qua một chủ thể đặc biệt chuyên hoạt động tại thị trường này, đó là người môi giới chứng khoán. Ví dụ điển hình trên thế giới: thị trường giao dịch chứng khoán Mỹ và NewYork là nơi dành cho cổ phiếu.
b. Thị trường trao tay (OTC – Over the Counter)
Là thị trường vốn không có địa điểm giao dịch hiện hữu, mọi hoạt động giao dịch đều được thực hiện thông qua mạng máy tính. Do đó, thị trường này còn được gọi là thị trường không chính thức.
Với việc không cần phải tập trung và không cần phải đăng ký chính thức, số lượng thành viên của thị trường OTC khá đông đảo, và do đó các giao dịch được thực hiện thông qua thị trường này cũng lớn hơn rất nhiều so với các giao dịch được thực hiện thông qua thị trường chính thức.
Mối quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó thị trường sơ cấp là thị trường cơ sở, là tiền đề để cho thị trường thứ cấp hoạt động; thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì không có chứng khoán cho thị trường thứ cấp hoạt động; và ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp khó có thể hoạt động một cách trôi chảy được. Dù cho trên thị trường thứ cấp không có một lượng vốn mới được tạo ra nhưng thị trường thứ cấp lại có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại của thị trường sơ cấp và ảnh hưởng lớn tới quyết định đầu tư. Nếu không có sự tồn tại của thị trường thứ cấp thì rất khó để chuyển chứng khoán thành tiền.
Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết. Trong thực tế, hoạt động của thị trường chứng khoán chúng ta không thể chỉ rõ ra được đâu là thị trường sơ cấp và đâu là thị trường thứ cấp, bởi vì trong hoạt động của thị trường chứng khoán vừa diễn ra việc phát hành chứng khoán vừa diễn ra việc mua đi bán lại chứng khoán.
1.3. Thị trường vốn và thị trường tiền tệ.
1.3.1. Thị trường tiền tệ.
. Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các chứng khoán nợ ngắn hạn, thường có thời gian đáo hạn từ 1 năm trở xuống.
1 số đặc điểm:
- Thời gian luân chuyển vốn ngắn hạn. Công cụ của thị trường này là những món nợ vay hay những chứng khoán có thời gian đáo hạn dưới 1 năm. Nó dc mua bán rộng rãi hơn vs chứng khoán dài hạn nên có xu hướng lỏng hơn.
- Các công cụ trên thị trường tiền tệ có độ an toàn tương đối cao do có độ dao động giá trị nhỏ hơn vs các chứng khoán đầu tư dài hạn nhưng lại thường có mức lợi tức thấp hơn
- Hình thức tài chính đặc trưng là hình thức tài chính gián tiếp chủ yếu là các NHTM.
Phân loại
* Thị trường cho vay ngắn hạn của các định chế tài chính trung gian. Các tổ chức này sẽ huy động các nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, cá nhân bằng hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm và đem cho các tổ chức kinh tế, cá nhân khác vay lại nếu cần.
* Thị trường hối đoái (thị trường ngoại hối): là nơi diễn ra các hoạt động mua bán và trao đổi ngoại tệ. Khác với các loại thị trường khác, người ta dùng tiền để đổi lấy hàng hoá, thì trên thị trường này người ta dùng tiền để đổi lấy tiền. Một đặc tính riêng biệt nữa của thị trường ngoại hối đó là tất yếu nó sẽ là thị trường quốc tế. Khi nào người dân ở các khu vực khác nhau còn dùng những đồng tiền khác nhau thì thị trường ngoại hối tồn tại là cần thiết.
* Thị trường liên ngân hàng: đây là thị trường hoạt động phục vụ cho các khách hàng là các ngân hàng thương mại. Trong hoạt động không phải lúc nào ngân hàng luôn có đủ tiền để cho vay, không phải lúc nào ngân hàng cũng tìm được khách hàng để cho vay hết khoản tiền mà mình có. Vì thế sẽ phát sinh nhu cầu vay và cho vay giữa các ngân hàng nhằm phục vụ tốt cho hoạt động chính của mình là huy động vốn và cho vay vốn. Đặc điểm của thị trường này là chỉ dành riêng cho các ngân hàng và thường khối lượng, giá trị giao dịch là lớn.
1.3.2. Thị trường vốn:
Là thị trường trong đó diễn ra việc mua bán các công cụ vay nợ dài hạn ( cổ phiếu, trái phiếu)
Đặc điểm
- Các công cụ tài chính trên thị trường vốn thường thường là dài hạn => độ rủi ro cao hơn và lãi suất tất nhiên là cao hơn so với trên thị trường tiền tệ, đồng thời tính thanh khoản là thấp hơn.
Phân loại:
+ Thị trường cổ phiếu: chiếm tỷ lệ rất lớn trên thị trường vốn.
- Thị trường thực hiện các giao dịch, mua bán các loại cổ phiếu do các công ty cổ phần phát hành.
- Cung cấp phương tiện đầu tư vào CTCP và chuyển nhượng CP giữa các nhà đầu tư.
- Tạo kênh huy động vốn, phân phối vốn khác, tận dụng và huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, giúp cho công ty đa dạng hóa nguồn vốn của mình.
+Các khoản vay thế chấp.
Thị trường thế chấp: đây là thị trường chuyên cho vay các món nợ dài hạn dùng để tài trợ mua bán địa ốc, nhà xưởng. Do thời hạn dài và thường giá trị của các món nợ vay thường rất lớn để hình thành bất động sản (nhà, đất, nhà xưởng,...) nên cần có sự thế chấp tài sản cho món nợ vay này. Tài sản thế chấp có thể là những tài sản sẵn có của những người đi vay và kể cả những tài sản được hình thành từ khoản nợ vay đó. Chính vì thế, thị trường thế chấp còn được gọi là thị trường cho vay dài hạn có cầm cố bất động sản
+ Thị trường trái phiếu dài hạn
-Kết nối giữa nhà phát hành- những người có nhu cầu huy động huy động vốn dài hạn với nhà đầu tư với nhu cầu đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi dài hạn để sinh lợi.
-Gia tăng sự ổn định của thị trường tài chính nói chung, cải thiện hoạt động của các tổ chức tài chính thông qua cạnh tranh và phát triển cơ sở hạ tầng, giúp công ty tìm nguồn vốn dài hạn từ thị trường thay vì chỉ lệ thuộc vào ngân hàng; tạo ra và ngày càng hoàn thiện cơ sở hạ tầng tài chính.
1.3.3. Mối liên hệ giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
Thị trường tiền tệ và thị trường vốn là hai bộ phận cấu thành nên thị trường tài chính cùng thực hiện một chức năng là cung cấp vốn cho nền kinh tế. Do đó các nghiệp vụ hoạt động ở trên hai thị trường có mối liên quan bổ sung và tác động tương hỗ.
Lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và mua bán chứng khoán trên thị trường vốn. Nếu lãi suất của các ngân hàng trả cho người tiết kiệm cao, điều này sẽ khiến cho người tiết kiệm thích gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi suất và rủi ro thấp hơn so với việc đầu tư vào chứng khoán. Mặt khác, các biến đổi về giá cả và lãi suất trên thị trường tiền tệ thường kéo theo các biến đổi
trực tiếp trên thị trường vốn như quan hệ cung cầu và giá của cổ phiếu và trái phiếu. Chẳng hạn như, một số chứng khoán dài hạn có lãi suất thả nổi, căn cứ để điều chỉnh lãi suất là lãi suất tiền gửi ngắn hạn của ngân hàng. Hay khi định giá của cổ phiếu hay trái phiếu tại một thời điểm bất kỳ nào đó trên thị trường, người ta phải tham khảo lãi suất của ngân hàng được hình thành trên thị trường tiền tệ. Giữa lãi suất thị trường và giá của trái phiếu có mối quan hệ tỷ lệ nghịch: khi lãi suất của ngân hàng tăng cao hơn lãi suất trái phiếu, trái phiếu sẽ sụt giá và tình hình ngược lại khi lãi suất ngân hàng hạ xuống hơn lãi trái phiếu.
Ngược lại, các thay đổi về chỉ số giá cổ phiếu của thị trường vốn cũng phản ảnh các hiện tượng tốt hay xấu, đã đang hoặc sẽ xảy ra trên thị trường tiền tệ. Đối với thị trường vốn, việc duy trì một lãi suất ổn định không thăng trầm quá đáng là cần thiết cho sự ổn định của thị trường.
Trên thực tế, các hoạt động của thị trường tiền tệ và thị trường vốn được thực hiện đồng bộ xen lẫn nhau, tác động và chịu sự ảnh hưởng của nhau, tạo thành cơ cấu hoàn chỉnh của một thị trường tài chính.
Việc phân định thị trường tài chính thành 2 bộ phận là thị trường tiền tệ và thị trường vốn chỉ là biện pháp để tạo thuận lợi cho quá trình nghiên cứu từng loại thị trường. Trên thực tế, không phải dễ dàng có thể chỉ ra đâu là khu vực chuyên môn hoá của thị trường tiền tệ và đâu là khu vực chuyên môn hoá của thị trường vốn. Các chính sách của Nhà nước như chính sách lãi suất, tiền tệ với mục đích phát triển thị trường tiền tệ đồng thời cũng là các yếu tố ngăn cản phạm vi hoạt động của thị trường vốn. Xét trong tương lai, xuất phát từ những đòi hỏi thực tế, không thể tồn tại một thị trường tiền tệ thuần tuý cũng như không thể tồn tài một thị trường vốn thuần tuý mà phải tồn tại một thị trường tài chính bao gồm cả thị trường vốn và thị trường tiền tệ hỗn hợp
II. Thực trạng thị trường tài chính Việt Nam.
2.1 . Tiềm năng của thị trường tài chính Việt Nam.
Với công cuộc đổi mới và cải cách kinh tế, nền kinh tế Việt Nam đã từng
bước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường và ngày càng
hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong bối cảnh đó,
TTTC cũng đã được hình thành và cải cách theo các nguyên tắc thị trường, góp
phần phân bổ các nguồn lực tài chính một cách hiệu quả hơn và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. 7/11/2006 Việt Nam đã gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), đồng nghĩa với việc mở ra nhiều cơ hội cũng như
thách thức đối với nền kinh tế đất nước nói chung và TTTC nói riêng. Các ngân hàng và định chế tài chính trong nước sẽ có điều kiện tốt hơn để
tranh thủ nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, đào tạo và đào tạo lại nguồn
nhân lực. Hội nhập sâu rộng hơn cũng tạo sức ép buộc các ngân hàng và các định
chế tài chính nâng cao tính minh bạch, áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế
tiên tiến về kế toán, báo các tài chính và quản trị rủi ro, chuyên môn hoá, đa dạng
hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng, và nắm bắt kịp thời các nghiệp vụ mới.
sức hấp dẫn ngày càng tăng của các nhà đầu tư quốc tế vào Việt nam, chính sách cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước gắn liền với hoạt động niêm yết…là những yếu tố bảo đảm sự phát triển bền vững của TTCK VN.
2.2.Thực trạng thị trường tài chính Việt Nam
Trong những năm qua, cùng với quá trình cải cách kinh tế, TTTC Việt Nam
đã có những bước phát triển nhất định. Trước hết, các thị trường cấu thành cơ bản
của TTTC đã được hình thành và từng bước hoàn thiện. Nhiều loại hình định chế
trung gian tài chính được thành lập. Đặc biệt, thị trường chứng khoán đã được thiết
lập và có những đóng góp ban đầu trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn cho
nền kinh tế.
Thứ hai, trong hơn những năm gần đây, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại
nhằm giảm thiểu những yếu kém của hệ thống và những sai lệch trong chính sách
tín dụng. Hoạt động tín dụng đã được đổi mới theo hướng các tổ chức
tín dụng có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quyết định cho vay, lựa chọn
khách hàng và biện pháp đảm bảo tiền vay trên nguyên tắc thương mại, đảm bảo
an toàn và hiệu quả.
Thứ ba, các nguyên tắc quản lý tài chính tiên tiến và chuẩn mực quốc tế về
tính minh bạch, kế toán, kiểm toán, giám sát... đã và đang từng bước được thể chế
hoá và ứng dụng rộng rãi hơn trong thực tế. Các thể chế về quản trị doanh nghiệp
(kể cả ngân hàng) cũng được hoàn thiện một bước, nhất là đối với các công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Cuối cùng, khung pháp luật của TTTC đang ngày càng phù hợp hơn với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Chính sách tín dụng ngày càng đối xử bình đẳng hơn đối với các doanh nghiệp tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài. Các định chế tài chính nước ngoài ngày càng được phép mở rộng phạm vi, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của mình.
Hạn chế
Tuy đạt được không ít thành tựu, song TTTC Việt Nam vẫn được xem là
còn kém phát triển. Độ sâu tài chính đo bằng tỷ lệ của tổng phương tiện thanh toán
(M2)/GDP và tổng tín dụng trong nước/GDP đã tăng đáng kể, đều từ dưới 20%
năm 1990 tương ứng lên 50,5% và 35,1% năm 2000 và 79,0% và 70,2% năm
2005. Song những chỉ số này chỉ tương đương với của các nước trong khu vực vào
những năm cuối thập niên 1980 - đầu thập niên 1990. . năm 2009 Tổng phương tiện thanh toán tăng 28,7% và tổng tín dụng cho nền kinh tế tăng 37,7% so với năm 2008. Năm 2010 : Tổng phương tiện thanh toán đến 31-12 tăng 25,3% so với cuối năm 2009; huy động vốn tăng 27,2%. Nếu trừ hư số do tỷ giá và giá vàng tăng, thì tổng phương tiện thanh toán tăng 23,0%, huy động vốn tăng 24,5%.
Thị trường chứng khoán, tuy có những bước phát triển nhanh trong năm
2006, song vẫn còn nhỏ bé. (Tổng vốn hoá thị trường của 54 công ty niêm yết trên
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh tại thời điểm
16/11/2006 đạt 58.562 tỷ đồng, tương đương 3,64 tỷ USD hay gần 7% GDP năm
2005; nếu tính cả chứng chỉ quỹ, tổng vốn hoá thị trường đạt 60.522,7 tỷ đồng,
tương đương 3,77 tỷ USD hay 7,2% GDP năm 2005. Cùng thời điểm, tổng giá trị
trái phiếu niêm yết cũng chỉ đạt khoảng 6,9% GDP năm 2005, trong đó hầu hết
thuộc trái phiếu Chính phủ và chính quyền địa phương (chiếm khoảng 97%). Có
rất ít trái phiếu công ty được phát hành. Thị trường chứng khoán cho đến nay vẫn
chưa là “hàn thử biểu“ của nền kinh tế và kênh huy động vốn quan trọng của các
doanh nghiệp Việt Nam.
Năm 2009: . Tổng giá trị vốn hóa thị trường lên tới hơn 669 nghìn tỷ đồng (39 tỷ USD), tương đương 55% GDP của năm 2008. Mức vốn hóa này tăng gần gấp 3 lần so với thời điểm cuối năm 2008
Năm 2010 : Mức vốn hoá thị trường chứng khoán tính đến cuối tháng 12 là 620 nghìn tỷ đồng, tương đương gần 38% GDP năm 2009.)
Mẫu hình TTTC Việt Nam cơ bản là dựa vào ngân hàng hay do ngân hàng
chi phối (bank-based or bank dominated financial market), trong khi thị trường tín
dụng lại chứa đựng không ít vấn đề như:
- Mức độ tích tụ và phân khúc thị trường còn cao. Các NHTM nhà nước
hiện chiếm gần 80% thị phần huy động tiền gửi và tín dụng của toàn hệ thống ngân
hàng. Nhóm khách hàng truyền thống của các NHTM Nhà nước là các doanh
nghiệp Nhà nước (DNNN)2. Các ngân hàng thương mại cổ phần chủ yếu tập trung
vào đối tượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhóm khách hàng của các ngân hàng
liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài là khu vực các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài.
- Rủi ro tín dụng, nhất là vấn đề nợ xấu vẫn còn hiện hữu có thể tăng do thu nhập của các NHTM chủ yếu dựa trên nguồn thu từ chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Tỷ lệ nợ quá hạn
so với tổng dư nợ của hệ thống NHTM được công bố đã giảm từ 13% năm 2000
xuống còn 3,4% năm 2005. Tuy nhiên, nếu dựa trên cách phân loại quốc tế về nợ,
thì tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM có thể lớn gấp nhiều lần con số công bố. Hơn
nữa, nguy cơ tiếp tục phát sinh nợ quá hạn là khá cao do