Kiểm toán ra đời vào khoảng thế kỷ thứ ba trước Công nguyên gắn liền với nền văn minh Ai Cập và La Mã cổ đại. Ở thời kỳ đầu, kiểm toán chỉ mới ở mức độ sơ khai, biểu hiện là những người làm công tác kiểm toán đọc to những số liệu, tài liệu cho một bên độc lập nghe và sau đó chứng thực. Khi xã hội phát triển xuất hiện của cải dư thừa, hoạt động kế toán ngày càng được mở rộng và ngày một phức tạp thì việc kiểm tra, kiểm soát về kế toán và tài chính càng được quan tâm hơn.
Đến thời kỳ cách mạng công nghiệp bùng nổ ở châu Âu, xuất hiện nhiều thành phần kinh tế kéo theo sự ra đời nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau. Cùng với sự phát triển của thị trường, sự tích tụ và tập trung tư bản đã làm cho sự phát triển của các doanh nghiệp và các tập đoàn ngày càng mở rộng. Sự tách rời giữa quyền sở hữu của ông chủ và người quản lý, người làm công ngày càng xa, đã đặt ra cho các ông chủ một cách thức kiểm soát mới. Phải dựa vào sự kiểm tra của những người chuyên nghiệp hay những kiểm toán viên bên ngoài. Việc kiểm tra đi dần từ việc kiểm tra ghi chép kế toán đến tuân thủ quy định của pháp luật và mãi đến những thập niên 80, kiểm toán hoạt động bắt đầu được hình thành và phát triển, nhưng hiện nay đã trở thành lĩnh vực trung tâm của kiểm toán nói chung, đặc biệt là kiểm toán Nhà nước và kiểm toán nội bộ.
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, từ việc phá sản của hàng loạt tổ chức tài chính và sự khủng hoảng kinh tế trên thế giới đã bộc lộ rõ những hạn chế của kiểm tra kế toán, sự kiểm tra trên cùng một hệ thống. Chính từ đây, việc kiểm tra kế toán buộc phải được chuyển sang một giai đoạn mới, yêu cầu kiểm tra kế toán một cách độc lập đã được đặt ra.
Ở Hoa Kỳ sau khủng hoảng về tài chính vào những năm 1929, đến năm 1934 Ủy ban bảo vệ và trao đổi tiền tệ (SEC) đã xây dựng và ban hành quy chế về kiểm toán viên bên ngoài. Đồng thời, trường đào tạo kế toán viên công chứng của Hoa Kỳ (AICPA) đã in ra mẫu chuẩn đầu tiên về báo cáo kiểm toán tài khoản của các công ty. Cũng trong giai đoạn này, ở các tổ chức kinh doanh, các doanh nghiệp đã bắt đầu xuất hiện và phát triển chức năng kiểm tra một cách độc lập trong nội bộ với tên gọi kiểm toán nội bộ. Năm 1942 Viện kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ (IIA) được thành lập và đã đi vào hoạt động đào tạo các kiểm toán viên nội bộ. Đồng thời, Viện đã xây dựng và ban hành Hệ thống chuẩn mực kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ vào năm 1978.
40 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 27681 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lịch sử hình thành và phát triển của kiểm toán thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
Đề tài thảo luận
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KIỂM TOÁN THẾ GIỚI – BIG4
Nhóm 1
Trần Thị Dung NHE-K11
Vũ Thị Kiều NHA –K11
Lê Thanh Phương NHE – K11
Thạch Thị Thủy NHA – K11
Lưu Anh Thư NHA – K11
Nguyễn Văn Tuấn TTQTA – K11
MỤC LỤC
A. QUÁ TRÌNH RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KIỂM TOÁN ..........4
I. Kiểm toán thế giới ra đời ………………………………………………..4
II. Sự hình thành của nhóm 8 công ty kiểm toán lớn mạnh nhất ………...5
III. Quá trình sáp nhập của 8 đại gia kiểm toán ……………………………6
1. Big 6 (1989 – 1998) …………………………………………………….7
1.1. Ernst & Whinney sáp nhập với Arthur Young………………..............7
1.2. Deloitte Haskins & Sells sát nhập với Touche Ross …...……………..8
2. Big 5 (1998 - 2001) …………………………………………………..10
B. HOẠT ĐỘNG CỦA BIG5 ……………………………………………11
I. KPMG ………………………………………………………………….11
II. ERNST & Young ………………………………………………………13
III. Price Water Coopers (PWC) ………………………………………..…16
IV. Deloitte ………………………………………………………………..….17
V. Arthur Anderson ……………………………………………………..….19
1. Khái quát …………………………………………………………….…19
2. Danh tiếng …………………………………………………………...…20
3. Anderson Consulting and Accenture ………………………………..…20
C. ENRON SCANDAL – ARTHUR ANDERSON BIẾN MẤT ………21
I. Vài nét về Enron ……………………………………………………...…21
II. Dấu hiệu và diễn biến của vụ bê bối ……………………………………22
III. Hậu quả …………………………………………………………….……24
1. Enron ………………………………………………………………...…24
2. Arthur Anderson …………………………………………………….…25
IV. Nguyên nhân ………………………………………………………….…26
1. Sự lạm dụng các SPE và các giao dịch nội bộ……………………………26
1.1 Che dấu nợ trên bảng cân đối kế toán……………………………………26
1.2 Thổi phồng doanh thu và lợi nhuận……………………………………….26
2. Phản ứng dây chuyền……………………………………………………….27
3. Vấn đề kế toán………………………………………………………………28
4. Liên minh kế toán kiểm toán Enron – Athur Andersen…………………..28
V. Vai trò Arthur Anderson trong câu chuyện Enron ………………...…28
VI. Bài học ………………………………………………………………..…30
D. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA BIG4 HIỆN NAY- KIỂM TOÁN VN
I. Big 4 hiện nay ………………………………………………………….…31
II. Kiểm toán Việt Nam……………………………………………………...35
PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
Họ và tên
Công việc được phân công
Vũ Thị Kiều
A. QUÁ TRÌNH RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KIỂM TOÁN
Nguyễn Văn Tuấn
B. HOẠT ĐỘNG CỦA BIG5
I. KPMG
ERNST & Young
III. Price Water Coopers (PWC)
Trần Thị Dung
B. HOẠT ĐỘNG CỦA BIG5
IV. Deloitte
V. Arthur Anderson
1. Khái quát
2. Danh tiếng
3. Anderson Consulting and Accenture
Lưu Anh Thư
Thạch Thị Thủy
C. ENRON SCANDAL – ARTHUR ANDERSON BIẾN MẤT
Phụ trách bản Word + Slide + Thuyết trình
Lê Thanh Phương
D. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA BIG4 HIỆN NAY- KIỂM TOÁN VN
Thuyết trình.
Quá trình ra đời và phát triển của kiểm toán
I. Kiểm toán thế giới ra đời
Kiểm toán ra đời vào khoảng thế kỷ thứ ba trước Công nguyên gắn liền với nền văn minh Ai Cập và La Mã cổ đại. Ở thời kỳ đầu, kiểm toán chỉ mới ở mức độ sơ khai, biểu hiện là những người làm công tác kiểm toán đọc to những số liệu, tài liệu cho một bên độc lập nghe và sau đó chứng thực. Khi xã hội phát triển xuất hiện của cải dư thừa, hoạt động kế toán ngày càng được mở rộng và ngày một phức tạp thì việc kiểm tra, kiểm soát về kế toán và tài chính càng được quan tâm hơn.
Đến thời kỳ cách mạng công nghiệp bùng nổ ở châu Âu, xuất hiện nhiều thành phần kinh tế kéo theo sự ra đời nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau. Cùng với sự phát triển của thị trường, sự tích tụ và tập trung tư bản đã làm cho sự phát triển của các doanh nghiệp và các tập đoàn ngày càng mở rộng. Sự tách rời giữa quyền sở hữu của ông chủ và người quản lý, người làm công ngày càng xa, đã đặt ra cho các ông chủ một cách thức kiểm soát mới. Phải dựa vào sự kiểm tra của những người chuyên nghiệp hay những kiểm toán viên bên ngoài. Việc kiểm tra đi dần từ việc kiểm tra ghi chép kế toán đến tuân thủ quy định của pháp luật và mãi đến những thập niên 80, kiểm toán hoạt động bắt đầu được hình thành và phát triển, nhưng hiện nay đã trở thành lĩnh vực trung tâm của kiểm toán nói chung, đặc biệt là kiểm toán Nhà nước và kiểm toán nội bộ.
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, từ việc phá sản của hàng loạt tổ chức tài chính và sự khủng hoảng kinh tế trên thế giới đã bộc lộ rõ những hạn chế của kiểm tra kế toán, sự kiểm tra trên cùng một hệ thống. Chính từ đây, việc kiểm tra kế toán buộc phải được chuyển sang một giai đoạn mới, yêu cầu kiểm tra kế toán một cách độc lập đã được đặt ra.
Ở Hoa Kỳ sau khủng hoảng về tài chính vào những năm 1929, đến năm 1934 Ủy ban bảo vệ và trao đổi tiền tệ (SEC) đã xây dựng và ban hành quy chế về kiểm toán viên bên ngoài. Đồng thời, trường đào tạo kế toán viên công chứng của Hoa Kỳ (AICPA) đã in ra mẫu chuẩn đầu tiên về báo cáo kiểm toán tài khoản của các công ty. Cũng trong giai đoạn này, ở các tổ chức kinh doanh, các doanh nghiệp đã bắt đầu xuất hiện và phát triển chức năng kiểm tra một cách độc lập trong nội bộ với tên gọi kiểm toán nội bộ. Năm 1942 Viện kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ (IIA) được thành lập và đã đi vào hoạt động đào tạo các kiểm toán viên nội bộ. Đồng thời, Viện đã xây dựng và ban hành Hệ thống chuẩn mực kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ vào năm 1978.
Tại Pháp, việc kiểm tra một cách độc lập của những người chuyên nghiệp bên ngoài đã được xác lập và thông qua bởi Đạo luật về các công ty thương mại ngày 24/07/1966. Đồng thời, kiểm toán nội bộ ở Pháp cũng đã được hình thành chính thức vào những năm 60 thế kỷ XX ở những công ty con thuộc tập đoàn ngoại quốc. Đến 1965 Hội kiểm toán viên nội bộ của Pháp được thành lập và sau này phát triển trở thành Viện kiểm toán viên nội bộ của Pháp vào năm 1973.
Ở giai đoạn đầu, khi mới hình thành, kiểm toán độc lập được biểu hiện thông qua việc cung cấp dịch vụ kiểm toán của một hoặc một nhóm kiểm toán viên hoặc của một văn phòng kiểm toán độc lập riêng biệt. Mô hình này đến nay vẫn đang được duy trì và vẫn phát huy hiệu quả ở một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, mô hình này bộc lộ nhiều hạn chế về khả năng cạnh tranh, nên nó đang dần dần chuyển sang sát nhập để hình thành các tổ chức, tập đoàn lớn, có đủ tiềm lực về tài chính và sức mạnh để cạnh tranh trong tương lai và sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của nền kinh tế thị trường.
II. Sự hình thành của nhóm 8 công ty kiểm toán lớn mạnh nhất
Nổi bật ở đầu thế kỉ XX, phải nhắc đến nhóm công ty kiểm toán - Big 8
Nhóm này bao gồm 8 công ty sau:
Hãng
Đối tác 1960
Trụ sở tại Mỹ
Nước ngoài
Đánhgiá
(Fortune 500)
Arthur Andersen
171
33
21
47
Ernst & Ernst
132
107
37
63
Haskins & Sells
176
58
42
61
Lybrand, Ross Bros. & Montgomery
126
43
27
52
Peat Marwick
190
87
55
61
Price Waterhouse
101
46
55
110
Touche Ross
71
31
34
26
Arthur Young
104
40
51
44
Hầu hết những công ty Big 8 đều bắt nguồn từ các liên minh được thành lập giữa các công ty kế toán Anh và Mỹ vào thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX. Ban đầu sự mở rộng quốc tế của các công ty này được thúc đẩy bởi nhu cầu của các công ty đa quốc gia ở Anh và Mỹ đối với dịch vụ toàn cầu. Họ mở rộng bằng cách hình thành quan hệ đối tác địa phương hoặc bằng cách hình thành liên minh với các công ty địa phương.
Price Waterhouse là 1 công ty Anh và đã mở chi nhánh tại Mỹ vào năm 1890, sau đó đã thiết lập một công ty Hoa Kỳ riêng biệt. Đối với công ty Peat Marwich Mithchell thì tại Mỹ và Anh đã cùng thông qua tên chung vào năm 1925. Những công ty khác sử dụng tên riêng cho doanh nghiệp trong nước và không thống nhất tên gọi thông thường cho đến sau này: Touche Ross năm 1960, Arthur Young năm 1968 (ban đầu là Arthur Young, McLelland Mooes), Coopers & Lybrand năm 1973, Deloitte Haskins & Sells năm 1978 và Ernst & Whinney năm 1979.
Arthur Andersen lại có một lịch sử khác. Công ty có nguồn gốc từ Hoa Kỳ, và mở rộng quốc tế bằng cách thiết lập văn phòng riêng của mình tại các thị trường khác, bao gồm Vương Quốc Anh.
III. Quá trình sáp nhập của 8 đại gia kiểm toán
Trong những năm 1980, trong nhóm Big 8, mỗi công ty với những chiến lược xây dựng thương hiệu toàn cầu, thông qua tiếp thị hiện đại đã phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế để tăng khả năng cạnh tranh, các công ty đang dần dần chuyển sang sáp nhập để hình thành các tổ chức, tập đoàn lớn, có đủ tiềm lực về tài chính và sức mạnh để cạnh tranh trong tương lai và sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của nền kinh tế thị trường. Họ đã kết hợp với nhiều công ty nhỏ hơn.
Một trong những vụ sáp nhập lớn nhất là vào năm 1987, khi Peat Marwick Mitchell đã sát nhập với tập đoàn KMP để trở thành KPMG Marwick, sau này được gọi đơn giản là KPMG.
1. Big 6 (1989-1998)
Sự cạnh tranh giữa các công ty kế toán công cộng ngày càng tăng cường, và Big 8 đã trở thành Big 6 khi năm 1989 Ernst & Whinney sát nhập với Arthur Young thành Ernst & Young vào tháng 6, và Deloitte Haskins & Sells sát nhập với Touche Ross thành Deloitte & Touche vào tháng 8 cùng năm.
1.1 Ernst & Whinney sát nhập với Arthur Young thành Ernst & Young tháng 6 năm 1989
Arthur Young sinh tại Scotland năm 1863; ông đã tốt nghiệp đại học Glasgow. Ông được hưởng nhiều đặc ân, đặc quyền và là người điềm đạm, nhỏ nhẹ. Chính sự quan tâm, hứng thú của ông đối với lĩnh vực đầu tư và ngân hàng đã dẫn ông đến với nghề kế toán. Ông di cư sang Mỹ và định cư ở thành phố Chicago. Vào năm 1906, ông thành lập công ty Arthur Young. Ngược lại, A.C. Ernst sinh năm 1881 ở Mỹ, bang Cleveland; ông là người tự mình làm nên sự nghiệp. Sau khi tốt nghiệp trường trung học, ông làm nhân viên kế toán. Bốn năm sau, vào năm 1903, ông cùng người em trai của mình là Theodore thành lập công ty Ernst.
AC. Ernst là người mở đầu cho ý tưởng rằng thông tin kế toán có thể được sử dụng để ra các quyết định kinh doanh - đây là sự khởi đầu cho hoạt động tư vấn quản lý. Ông cũng là người đầu tiên quảng bá cho dịch vụ chuyên nghiệp này.
A. Young quan tâm sâu sắc đến sự phát triển của nghề nghiệp non trẻ này. Trong những năm 20, ông đã thành lập một trường đào tạo nghiệp vụ; và đến thập kỷ 30, công ty của ông là nơi đầu tiên tuyển dụng nhân viên từ các trường đại học. Cả hai công ty nhanh chóng thâm nhập được vào thị trường toàn cầu. Khoảng đầu năm 1924, họ liên kết với những công ty danh tiếng của Anh; trong đó Young liên kết với Broads Paterson và Ernst liên kết với Whinney Smith & Whinney. Năm 1879, bản hiệp định đầu tiên của Ernst đã dẫn tới sự thành lập tập đoàn Ernst & Whinney. Đây là những tập đoàn liên kết đầu tiên trong số rất nhiều tập đoàn khác trên thế giới và chúng là khởi nguồn của những tập đoàn thống trị toàn cầu hiện nay
Năm 1989, hai công ty do họ sáng lập đã kết hợp làm một, thành tập đoàn Ernst & Young. Tập đoàn mới này đã xác định một cách nhanh chóng vị trí của nó là người dẫn đầu xu hướng toàn cầu hoá của các công ty kiểm toán, của các kỹ thuật kinh doanh tiên tiến và của sự thay đổi kinh doanh không ngừng. C A. Ernst và A. Young chỉ sống hơn nửa thế kỷ, nhưng những di sản họ để lại – sự sáng tạo và nỗ lực, sự nhạy cảm và quan tâm, lòng nhiệt tình và niềm tin - đã làm nên nét đặc trưng riêng của tập đoàn Ernst & Young ngày hôm nay.
1.2 Deloitte Haskins & Sells sát nhập với Touche Ross thành Deloitte & Touche vào tháng 8 năm 1989
Năm 1845, William Welch Deloitte đã mở một văn phòng tại Basinghall Street ở London. Deloitte là người đầu tiên được bổ nhiệm làm kiểm toán viên độc lập của một công ty đại chúng, sau đó ông đã tiếp tục mở một văn phòng tại New York năm 1880.
Năm 1895 Charles Waldo Haskins và Elijah Watt Sells đã thành lập Haskins & Sells ở New York.
Năm 1898, George Touche thành lập một văn phòng tại London và sau đó vào năm 1900 ông cùng John Ballantine Niven thành lập công ty Touche Niven ở tòa nhà Johnston tại 30 phố Broad ở New York.
Vào lúc đó, có khoảng dưới 500 kiểm toán viên hành nghề ở Hoa Kỳ, nhưng kỷ nguyên mới của thuế thu nhập đã sớm tạo ra nhu cầu rất lớn cho các chuyên gia kế toán.
Ngày 01 tháng 4 năm 1933, Đại tá Arthur Hazelton Carter - Chủ tịch Hội kế toán Công chứng của bang New York - quản lý đối tác của Haskins & Sells, điều trần trước Ủy ban Thượng viện Mỹ về ngân hàng và tiền tệ. Carter đã thuyết phục Quốc hội rằng kiểm toán độc lập nên được bắt buộc đối với công ty đại chúng.
Năm 1947, Detroit - kế toán của George Bailey, sau đó là chủ tịch của Viện Kế toán Hoa Kỳ, đã giới thiệu tổ chức riêng của mình. Các công ty mới này đã có sự khởi đầu thuận lợi, trong vòng chưa đầy 1 năm. Các thành viên sáp nhập với Touche Niven và AR Smart để hình thành Touche, Niven, Bailey & Smart. Đứng đầu là Bailey - tổ chức phát triển nhanh chóng, một phần là do chức năng tư vấn quản lý chuyên môn hóa. Nó cũng có quan hệ gần gũi với các tổ chức được đồng thành lập bởi Touche Niven, George Touche. Năm 1960, công ty được đổi tên thành Touche, Ross, Bailey & Smart, và trở thành Touche Ross vào năm 1969.
Năm 1952, Deloitte sáp nhập với Haskins & Sells để hình thành Deloitte, Haskins & Sells. Năm 1968, Nobuzo Tohmatsu thành lập Tohmatsu Awoki & Co, một công ty có trụ sở tại Nhật Bản đã trở thành một phần của mạng lưới Touche Ross vào năm 1975. Năm 1972, Robert Trueblood - Chủ tịch Touche Ross, đề xuất việc thành lập ban Tiêu chuẩn Kế toán tài chính. Ông đã lãnh đạo việc mở rộng Touche Ross trong thời đại đó.
Năm 1982, David Moxley và Gregory W. Grant trở thành nhà lãnh đạo tại Touche Ross. Năm 1985, Edward A. Kangas - một nhà tư vấn quản lý, được bổ nhiệm quản lý đối tác của Touche Ross. Năm 1984, J. Michael Cook đã trở thành đối tác quản lý của Deloitte, Haskins & Sells.
Năm 1989 Deloitte Haskins & Sells tại Mỹ sáp nhập với Touche Ross ở Mỹ để hình thành Deloitte & Touche. Các công ty hợp nhất được lãnh đạo bởi J. Michael cùng Cook và Edward A. Kangas. Được dẫn dắt bởi các quan hệ đối tác Anh, một số lượng nhỏ hơn của các công ty thành viên Deloitte Haskins & Sells từ chối sáp nhập với Touche Ross và ngay sau đó sáp nhập với Coopers & Lybrand thành Coopers & Lybrand Deloitte (sau này sáp nhập với Price Waterhouse để trở thành PwC). Một số công ty thành viên của Touche Ross cũng bác bỏ việc sáp nhập với Deloitte Haskins & Sells và sáp nhập với các công ty khác.
Tại thời điểm sáp nhập do Mỹ dẫn đầu để hình thành Deloitte & Touche, tên của các công ty quốc tế là một vấn đề, vì không có quyền sử dụng độc quyền trên thế giới với những tên "Deloitte" hoặc "Touche Ross" - công ty thành viên chủ chốt như Deloitte Anh và Touche Ross tại Úc đã không tham gia vào việc sáp nhập. Năm 1993 công ty quốc tế đã được đổi tên thành Deloitte Touche Tohmatsu để phản ánh sự đóng góp từ các công ty Nhật Bản cũng như các thỏa thuận sử dụng cả tên Deloitte Touche .
Năm 1995, các đối tác của Deloitte & Touche quyết định tạo ra Deloitte & Touche Consulting Group (nay là Deloitte Consulting).
2. Big5 (1998-2001)
Big 6 đã trở thành Big 5 vào tháng 7 năm 1998 khi Price Waterhouse (PW) sáp nhập với Coopers &Lybrand để hình thành Công ty PricewaterhouseCoopers
Hai công ty Price Waterhouse và Coopers & Lybrand đều có lịch sử từ thế kỷ 19.
Price Waterhouse Samuel Lowell, bắt đầu hành nghề kế toán của mình ở London vào năm 1849.
Năm 1865, Price đã hợp tác với William Hopkins Holyland và Edwin Waterhouse. Holyland rời đi sau đó để làm công việc kế toán riêng mình, bởi vậy công ty đã được biết đến từ năm 1874 với tên Price, Waterhouse & Co. Các thỏa thuận hợp tác ban đầu, có chữ ký của Price, Holyland và Waterhouse có thể được tìm thấy trong Southwark Towers, một trong những văn phòng quan trọng của PwC (nay phá hủy và là địa điểm mới cho Shard London Bridge) ở London.
Đến thế kỷ XIX, Price Waterhouse đã được công nhận là một công ty kế toán. Do thành quả trao đổi thương mại giữa Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, Price Waterhouse mở văn phòng tại New York vào năm 1890, và công ty Mỹ tự sớm mở rộng nhanh chóng. Các công ty ban đầu của Anh đã mở một văn phòng ở Liverpool vào năm 1904 và sau đó ở những nơi khác tại Vương quốc Anh và các quốc gia ở nước ngoài, mỗi lần thiết lập một quan hệ đối tác riêng biệt ở mỗi nước
Trong một nỗ lực hơn nữa để tận dụng lợi thế nền kinh tế theo quy mô, PW và Arthur Andersen đã thảo luận sáp nhập vào năm 1989 nhưng các cuộc đàm phán thất bại chủ yếu là do xung đột lợi ích như là giữa các liên kết thương mại mạnh của Andersen với IBM và kiểm toán IBM của PW.
Trong tháng 3 năm 2002, Arthur Anderson, LLP chi nhánh tại Hồng Kông và Trung Quốc hoàn tất đàm phán để gia nhập PriceWaterhouseCoopers, Trung Quốc Coopers & Lybrand. Năm 1854 William Cooper thành lập công ty của mình tại London, và đã trở thành Cooper Brothers bảy năm sau khi ba anh em tham gia. Tại Mỹ vào năm 1898, Robert H. Montgomery, William M. Lybrand, Adam A. Ross Jr và anh trai Edward của ông T. Ross hình thành Lybrand, Ross Brothers và Montgomery. Coopers & Lybrand là kết quả của sự hợp nhất trong năm 1957 giữa Cooper Brothers & Co; Lybrand, Ross Bros & Montgomery và một công ty Canada McDonald, Currie và Co.
Năm 1990 tại một số quốc gia, Coopers & Lybrand Anh sáp nhập với Deloitte Haskins & Sells để trở thành Coopers & Lybrand Deloitte, và vào năm 1992 đổi tên thành Coopers & Lybrand.
Năm 1998, Price Waterhouse sáp nhập với Coopers Lybrand để hình thành Công ty PricewaterhouseCoopers trong một nỗ lực để đạt được một quy mô lớn mà có thể đưa công ty phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong một liên minh mới.
B. Hoạt động của Big5
KPMG
KPMG
Loại
Hợp tác xã Thụy Sĩ
Công nghiệp
Dịch vụ chuyên nghiệp
Được thành lập
1987; sáp nhập từ Peat Marwick và Klynveld Goerdeler
Trụ sở chính
Amstelveen , Hà Lan (toàn cầu)
Diện tích phục vụ
Trên toàn thế giới
Chủ chốt
Timothy P. Flynn ( Chủ tịch )
Dịch vụ
Kiểm toánThuếTư vấn
Doanh thu
US $ 20600000000 (2010)
Nhân viên
138.000
Website
KPMG.com
Công ty này được thành lập vào năm 1870 khi William Barclay Peat thành lập công ty kiểm toán tại Luân Đôn.
Trong khi đó vào năm 1917, Piet Klijnveld mở công ty kế toán của ông ở Amsterdam. Sau đó, ông sáp nhập với Kraayenhof để hình thànhCông ty TNHH Klynveld Kraayenhof
Năm 1979 Klynveld Kraayenhof & Co ( Hà Lan ), Thomson McLintock ( Hoa Kỳ ) và Deutsche Treuhandgesellschaft ( Đức ) sáp nhập, thành lập KMG (Klynveld Main Goerdeler)
Sau đó vào năm 1987 và Peat Marwick KMG mở đầu cuộc sáp nhập của các công ty kế toán lớn và thành lập KPMG tại Hoa Kỳ.
Trong năm 2001 công ty tư vấn KPMG Divested Mỹ thông qua một IPO của KPMG Consulting Inc, mà bây giờ gọi là BearingPoint, Inc .Đầu năm 2009, BearingPoint đệ đơn bảo hộ phá sản và tiếp tục bán phần còn lại của công ty cho Deloitte, PricewaterhouseCoopers và 1 số công ty khác.trụ sở tại Vương quốc Anh và cánh tay tư vấn của Hà Lan đã được bán cho Atos Origin vào năm 2002. Năm 2003 KPMG từ bỏ cánh tay pháp lý của nó. Công ty thành viên của KPMG tại Anh, Đức, Thụy Sĩ và Liechtenstein sáp nhập để tạo thành KPMG LLP tại châu Âu vào tháng 10/2007. KPMG cung cấp các dịch vụ sau:
Kiểm toán:
Báo cáo tài chính kiểm toán
Kiểm toán quản lý
Thuế: Kinh doanh và cá nhân các dịch vụ thuế
Tư vấn: các dịch vụ tư vấn của KPMG được tổ chức vào ba chủ đề (tăng trưởng, quản trị và hiệu suất) và chín đường dây dịch vụ:
Dịch vụ tư vấn kế toán
Hiệu suất kinh doanh dịch vụ
Tài chính doanh nghiệp
Dịch vụ quản lý rủi ro tài chính
Pháp lý
Kiểm toán nội bộ, rủi ro và tuân thủ dịch vụ (IARCS)
Tư vấn công nghệ thông tin
Tái cơ cấu
Dịch vụ giao dịch ( M & A )
Tên và xây dựng thương hiệu
Nguồn gốc của tên KPMG xuất phát từ tên của bốn đối tác sáp nhập các công ty của họ hạch toán độc lập của riêng:
K là viết tắt của Klynveld , sau khi Piet Klynveld , người sáng lập công ty kế toán Klynveld Kraayenhof & Co tại Amsterdam vào năm 1917.
P là viết tắt của Peat , sau khi William Barclay Peat , người sáng lập công ty