Lịch sử ngành thuế Việt Nam

Xác định đầy đủ nhiệm vụ quản lý thuế; đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện tự tính, tự khai tiến tới tự nộp thuế và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Tăng cường quyền hạn của cơ quan thuế; tăng cường chức năng quản lý nhà nước về thuế để thực thi tốt pháp luật; bổ sung thêm các quyền hạn cho cơ quan thuế; trên cơ sở tăng cường tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế; tăng cường thanh tra, kiểm tra. Tổ chức bộ máy hợp lý theo hướng cải cách hành chính và hiện đại hoá công tác quản lý thuế.

doc33 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2981 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lịch sử ngành thuế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỊCH SỬ NGÀNH THUẾ VIỆT NAM 1. Sơ lược lịch sử ngành thuế Việt Nam Ngày 13/01/2011 Những nội dung cơ bản của quyết định số 218/2003/QĐ-TTg Tổ chức bộ máy ngành thuế được tổ chức lại theo nguyên tắc: Xác định đầy đủ nhiệm vụ quản lý thuế; đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện tự tính, tự khai tiến tới tự nộp thuế và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Tăng cường quyền hạn của cơ quan thuế; tăng cường chức năng quản lý nhà nước về thuế để thực thi tốt pháp luật; bổ sung thêm các quyền hạn cho cơ quan thuế; trên cơ sở tăng cường tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế; tăng cường thanh tra, kiểm tra. Tổ chức bộ máy hợp lý theo hướng cải cách hành chính và hiện đại hoá công tác quản lý thuế. 1. Về nhiệm vụ: Theo QĐ 218, nhiệm vụ  cơ bản của Tổng cục Thuế là tổ chức quản lý thu thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác của NSNN, còn nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng chính sách thuế, phí, lệ phí không phải là nhiệm vụ chính của Tổng cục Thuế, mà với tư cách là người quản lý, tổ chức thực hiện chính sách, Tổng cục Thuế có nhiệm vụ đề xuất và tham gia (với Vụ Chính sách thuế- Bộ Tài chính) xây dựng, bổ sung, sửa đổi các văn bản qui phạm pháp luật về thuế. Nhiều nhiệm vụ của quản lý thuế chưa được quy định tại NĐ 281-HĐBT nay được quy định rõ trong QĐ 218 và trở thành  các nhiệm vụ trọng tâm của quản lý thuế, đó là:  Chiến lược phát triển qui hoạch, kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm của ngành Thuế để xác định mục tiêu, định hướng và các bước đi trong tiến trình cải cách quản lý thuế ở nước ta. (khoản 1 điều 2) Nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế nhằm làm cho mọi tổ chức, cá nhân hiểu rõ chính sách thuế, nâng cao tính tuân thủ tự giác trong việc chấp hành các nghĩa vụ thuế. Hạn chế các sai sót, các vi phạm do sự thiếu hiểu biết gây ra Nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thuế nhằm tăng cường quản lý thuế giữa Việt Nam với  các nước trên thế giới, quản lý thực hiện Hiệp định thuế; trao đổi học tập kinh nghiệm giữa các quốc gia trong lĩnh vực quản lý thuế và  hội nhập Quốc tế trong lĩnh vực thuế. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế đối với các hoạt động kinh doanh mang tính chất khu vực và toàn cầu. Nhiệm vụ phát triển hệ thống công nghệ thông tin quản lý thuế, nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý thuế, nhanh chóng hiện đại hoá ngành thuế.  2- Về quyền hạn của cơ quan thuế:   Bổ sung thêm các quyền: Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng về các đối tượng nộp thuế vi phạm nghiêm trọng các chính sách thuế.  Được yêu cầu các tổ chức tín dụng, các tổ chức và cá nhân khác có liên quan cung cấp tài liệu và có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thuế để thu thuế. Xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý các tổ chức, cá nhân không thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm cung cấp tài liệu hoặc không phối hợp với cơ quan thuế để thu thuế. Thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành pháp luật về thuế Quyết định việc uỷ nhiệm cho các cơ quan, tổ chức thu một số khoản thuế. (mở rộng hơn so với qui định trong NĐ281).Đây cũng là một trong những nội dung cải cách hành chính về quản lý thuế.  Ngoài ra, Quyết định 218 còn quy định tại mục 18, điều 2: “thực hiện những nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ Tài chính giao” tạo cơ sở pháp lý cho Bộ trưởng Bộ Tài chính giao thêm những nhiệm vụ khác cho Tổng cục Thuế. 3- Về cơ cấu tổ chức: Nguyên tắc cơ cấu tổ chức của cơ quan thuế: Thu gọn đầu mối, nhưng bao quát hết các nhiệm vụ. Cơ cấu tổ chức chủ yếu theo chức năng và theo đối tượng kết hợp theo sắc thuế nhằm chuyên môn hoá, áp dụng tin học, giảm tiêu cực, giảm phiền hà cho ĐTNT; Phát triển các tổ chức để thực hiện và đảm đương những nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới, đó là: dịch vụ hỗ trợ ĐTNT, thanh tra kiểm tra, bồi dưỡng đào tạo cán bộ, tin học hoá, quản lý ĐTNT; thu gọn các tổ chức mang tính chất phục vụ. Nâng cao vị thế chỉ huy của Tổng cục- phụ cấp trách nhiệm tăng lên.  a/ Bộ máy giúp việc Tổng cục trưởng TCT: Bộ máy giúp việc Tổng cục trưởng TcT được tổ chức thành các Ban. Số đầu mối giảm từ 22 phòng còn 14 Ban và 3 đv sự nghiệp. Thu hẹp việc tổ chức theo sắc thuế, mở rộng tổ chức theo chức năng và đối tượng Thành lập Ban Ban Tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế.  3 Đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tổng cục: Trung tâm tin học - thống kê Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ Thuế Tạp chí Thuế.   Đại diện Tổng cục Thuế tại tpHCM tương đương cấp Ban. b/ Cơ cấu tổ chức Cục Thuế và Chi cục Cơ cấu tổ chức Cục Thuế lần này đã giảm đáng kể số đầu mối: Cấp Cục thuế tổng số giảm khoảng hơn 100. Nếu tính cả cấp Chi cục thì tổng số đầu mối (kể cả các tổ, đội) toàn ngành giảm khoảng gần 1000 Giải thể Phòng Nghiệp vụ thuế: Nhiệm vụ của Phòng này trước đây nay được chuyển giao cho 2 Phòng đảm nhiệm là Phòng Tổng hợp và dự toán và Phòng Tuyên truyền hỗ trợ ĐTNT. Xoá bỏ Phòng Thu lệ phí trước bạ và thu khác. Cơ cấu Chi cục Thuế: số tổ, đội cũng được sắp xếp lại và giảm so với trước đây, đồng thời cũng phân công lại một số nhiệm vụ giữa các tổ, đội thuộc Chi cục.    Quyết định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Thuế trực thuộc Tổng cục Thuế, Chi cục Thuế trực thuộc Cục Thuế lần này đã thể hiện một bước thực hiện cải cách thủ tục hành chính, sắp xếp lại tổ chức, tinh gọn đầu mối khá cơ bản tạo điều kiện thực hiện cải cách quản lý thuế. 4- Về con dấu, kinh phí và mối quan hệ của cơ quan thuế với UBND các cấp: Về con dấu Tổng cục Thuế được sử dụng con dấu hình quốc huy, nhằm thể hiện tính chất  cơ quan công quyền quan trọng của Nhà nước, cũng như tạo thuận lợi trong các giao dịch Quốc tế.  Về kinh phí Tổng cục Thuế được thực hiện cơ chế khoán kinh phí do Thủ tướng Chính phủ quy định. Về quan hệ với chính quyền địa phương Theo quy định tại Nghị định 281- HĐBT thì cơ quan thuế chịu sự lãnh đạo song trùng của cơ quan thuế cấp trên và UBND cùng cấp. Trong quá trình thực hiện đã bộc lộ một số điểm hạn chế. Nay Quyết định 218 quy định trách nhiệm phối hợp của cơ quan thuế ở địa phương với UBND các cấp và tổ chức, cá nhân. Đây chính là điều kiện để cơ quan thuế chủ động hơn trong việc quản lý thuế. Đồng thời cũng quy định trách nhiệm của UBND các cấp trong việc phối hợp chỉ đạo, kiểm tra cơ quan thuế. 2. Giai đoạn trước cách mạng tháng 8/1945 Ngày 06/01/2011 Những hình thức đóng góp thời kỳ đầu dựng nước và thời Bắc thuộc (Từ cuối thời kỳ Hùng Vương đến giữa thế kỷ thứ X) 1- Thời kỳ đầu dựng nước: Trải qua nhiều thiên niên kỷ tồn tại và phát triển, người dân Việt ngày càng đông, sống trải rộng suốt từ biên giới Việt - Trung đến Quảng Bình ngày nay. Đầu thiên niên kỷ thứ II trước Công nguyên (TCN) họ đã phát minh ra kỹ thuật luyện kim và phát triển dần lên, tạo cơ sở cho một nền văn hoá đồng thau rực rỡ: Văn hoá Đông sơn. Đây cũng là thời kỳ mà người Việt biết chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng lúa nước, dùng sức kéo trâu bò... Từ sự phân công lao động xã hội, phân hoá giai cấp và với nhiều yêu cầu khác nhau, 15 khu vực lớn - lúc bấy giờ được gọi là "bộ lạc" - đã tập hợp nhau lại trong một quốc gia thống nhất: nước Văn Lang - Nhà nước đầu tiên của người Việt ra đời. Dưới thời Vua Hùng Vương, ruộng đất thuộc quyền sở hữu tối cao của nhà Vua, bao gồm nhiều loại ruộng đất công ở các làng xã. Theo Các Mác, "nơi nào mà một bộ phận xã hội chiếm độc quyền về tư liệu sản xuất thì nơi đó, người lao động tự do hay không tự do, đều phải buộc thêm vào thời gian lao động tất yếu để nuôi sống mình, một số thời gian trội ra để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cho người chiếm hữu tư liệu sản xuất". (Các Mác - tư bản. Quyển I. Tập I - NXB Sự Thật - Hà nội - 1963. trang 321). Đối với Việt Nam, quy luật đó cũng không thể là ngoại lệ. Cùng với sự xuất hiện quyền chiếm hữu ruộng đất của một số tù trưởng ở nước ta thời đó, quan hệ bóc lột đã bắt đầu phát sinh. Những thành viên trong các công xã phải nộp cho tù trưởng của họ một phần sản phẩm làm ra hoặc một số ngày lao dịch không công. Hơn nữa, Nhà nước của vua Hùng muốn tồn tại và phát triển , tất nhiên phải thu một số vật phẩm của dân, bao gồm lương thực, thú vật săn bắt, sản phẩm thủ công..., những mầm mống đầu tiên của hình thức thuế. Trong thời kỳ ấy, khoản thu của Nhà nước Văn Lang ở Trung ương là một bộ phận tài sản, vật phẩm của các địa phương, do các Lạc tướng trích nộp lên trên. Cuối thế kỷ thứ II TCN, nước Âu Lạc ra đời thay thế nước Văn Lang. Vua An Dương Vương được thừa hưởng những tài sản mà Nhà nước của vua Hùng để lại và tìm cách gia tăng thêm. Chế độ cống nạp, đóng góp được thực hiện đều đặn, ngày càng phong phú, cho phép nhà vua xây dựng quân đội hùng mạnh, có nhiều thuyền chiến, giáo mác, cung tên, xây dựng lâu đài ở trung tâm thành Cổ Loa. Tuy nhiên, ở thời kỳ đầu dựng nước, các hình thức đóng góp của dân chỉ dừng lại ở trạng thái "mầm mống thuế", cống phẩm là những hiện vật trong đó lương thực, thực phẩm, thú vật săn bắt là chủ yếu. 2- Thời Bắc thuộc: Cuộc xâm lược của Triệu Đà năm 180 - 179 TCN, qua câu chuyện Mỵ Châu - Trọng Thuỷ đã đưa Âu Lạc vào ách đô hộ của đế chế phương Bắc: thời Bắc thuộc, qua các triều đại nhà Triệu, nhà Tây Hán, Đông Hán, nhà Ngô, nhà Tuỳ, nhà Đường. 2.1 Thời nhà Triệu, Tây Hán thống trị (từ thế kỷ thứ II TCN đến đầu thế kỷ thứ I SCN): Lúc đầu, thế lực thống trị phong kiến phương Bắc chưa trực tiếp nắm ngay được toàn bộ nước ta. Chúng bắt buộc phải để cho các Lạc tướng được quyền trị dân và bóc lột như cũ, với điều kiện là các Lạc tướng đó phải thường xuyên vơ vét những sản phẩm quý của dân (như vàng, bạc, ngọc trai, sừng tê giác, ngà voi, đồi mồi...) để cống nạp lên cho chúng. Nói cách khác, vua chúa phương Bắc đã dựa trên sự khống chế bằng bạo lực, uy quyền để vơ vét cống phẩm, vừa có tính chất cướp bóc, vừa có tính chất sơ khai địa tô, với mức áp đặt tuỳ thích, không theo phép tắc, luật lệ cố định. 2.2 Thời nhà Đông Hán, nhà Ngô, nhà Tuỳ thống trị (từ dầu thế kỷ thứ I đến dầu thế kỷ thứ VII): Nhà Đông Hán đã bỏ chế độ Lạc tướng "cha truyền con nối", thay thế bằng chế độ "huyện lệnh" (đặt những viên cai trị ở các huyện) tuyển dụng từ giai cấp quý tộc ở địa phương, nhưng ở một số vùng quan trọng, thì có các quan lại người Trung quốc trực tiếp cai trị. Đặc điểm của sự thống trị "lưỡng hợp" đó đã quyết định sự tồn tại song song của hai phương thức bóc lột trong thời kỳ này là cống nạp và tô thuế. Nhìn chung cả nước, phương thức bằng cống nạp lúc này vẫn là phổ biến. Về cống nạp, dân ta phải nộp hạt châu, hương dược, ngà voi, sừng tê giác, đồi mồi, san hô, chim vẹt, chim chả, chim công, cùng các vật lạ... Về tô thuế, chính quyền phương Bắc đã thi hành chính sách bóc lột bằng địa tô. Xét về bản chất kinh tế, cần phân biệt hai khái niệm giữa "tô" và "thuế". Tô là sản phẩm thặng dư mà nông dân phải nộp cho chủ đất khi sử dụng ruộng đất của họ. Thuế là những khoản đóng góp của mỗi người dân đối với Nhà nước để giai cấp thống trị duy trì quyền lực công cộng. Trong thời kỳ ấy, kẻ thống trị tự coi mình là chủ đất, vừa là người đứng đầu Nhà nước phong kiến. Người nông dân vừa là người cày ruộng của vua, vừa là thần dân của vua. Bởi vậy, họ phải nộp cho vua cả tô lẫn thuế. Đúng như Các Mác đã viết:"nếu đối lập với những người sản xuất trực tiếp không phải là những kẻ sở hữu ruộng đất tư nhân, mà là của Nhà nước, như ở Châu á, với tư cách là một kẻ sở hữu ruộng đất, đồng thời là vua chúa thì địa tô kết hợp làm một với thuế. Nói đúng hơn, trong trường hợp đó, không có thuế khoá nào khác phân biệt với hình thái địa tô" (Các Mác. Tư bản. Quyển III, tập III trang 243-244). 2.3 Thời nhà Đường thống trị (Thế kỷ VII đến đầu thế kỷ X) Dưới thời thống trị của nhà Đường, chính quyền đã với tay tới cơ sở làng, xã. Nhà Đường đã đặt ra "tiểu xã", "đại xã", "tiểu hương", "đại hương" với quy mô: tiểu xã gồm từ 10 đến 30 hộ; đại xã từ 40 đến 60 hộ; tiểu hương từ 70 đến 150 hộ; đại hương từ 160 hộ trở lên. Đặc điểm đó đã quyết định phương thức bóc lột trong thời kỳ này, chủ yếu là tô, thuế. Nhà Đường đã thi hành chế độ Tô, Dung, Điệu ở nước ta: Đối với tô, nhân đinh cày ruộng phải nộp cho Nhà nước 2 thạch lúa; với dung, nhân đinh phải đi lao động công ích 1 năm từ 20 đến 50 ngày; với điệu, thợ thủ công phải nộp sản phẩm do mình làm ra (Lịch sử Việt nam - tập I - trang 121). Theo nguyên tắc chung, tuỳ kết quả sản xuất được nhiều hay ít để quy định mức thu sản phẩm, không thành quy tắc cố định, rõ ràng. Dân cư miền núi cũng phải nộp tô thuế bằng nửa suất của dân cư miền xuôi. Ngoài ra, ở các vùng trung tâm, các hộ được chia thành "thượng hộ" (phải nộp 1 thạch, 2 đấu thóc/hộ), "thứ hộ" (8 đấu thóc/hộ) và "hạ hộ" (6 đấu thóc/hộ). (Nghiên cứu lịch sử số 16-trang 33). Nhân đinh có vị trí quan trọng cho việc thu tô, thuế, lao dịch, bắt lính. Vì vậy, để thực hiện triệt để chủ trương bóc lột, chính quyền đô hộ rất chú ý đến việc kiểm kê, kiểm soát, nắm chắc hộ khẩu của dân. 2.4 Khái quát chính sách thuế dưới thời Bắc thuộc Nhìn chung, trong thời Bắc thuộc, vấn đề tô thuế nổi lên một số điểm cơ bản sau đây: - Từ thời Tây Hán (Thế kỷ thứ II TCN) đến hết thời nhà Tuỳ (đầu thế kỷ thứ VII) thống trị nước ta, nhà nước phong kiến phương Bắc không trực tiếp quản lý và kinh doanh ruộng đất, không cần sử dụng nhiều lao động sống (trừ một số nhu cầu đắp đê, xây dựng...). Phương thức bóc lột cống nạp là chủ yếu. Lúc này, kinh tế tự nhiên ở nước ta gần như hoàn toàn bao trùm, kinh tế hàng hoá còn rất yếu. Có hai hình thức tô, thuế cùng tồn tại bằng hiện vật và bằng lao dịch nhưng tô hiện vật chiếm vai trò chủ yếu. - Từ thời Đông Hán (thế kỷ thứ I) phương thức bóc lột tô thuế đã xuất hiện nhưng đến thời nhà Đường (từ thế kỷ thứ VII đến đầu thế kỷ thứ X) mới chiếm vị trí chủ yếu. Quá trình chuyển biến từ phương thức cống nạp sang phương thức bóc lột bằng tô thuế cũng là quá trình hình thành chế độ phong kiến, địa chủ ở nước ta. Dưới thời kỳ bị phong kiến phương Bắc thống trị, một lớp địa chủ người Việt dần dần xuất hiện. Đó là những tù trưởng các bộ lạc cũ đã đầu hàng phong kiến phương Bắc, được phong hầu tước, cấp đất hoặc là những quý tộc, hào trưởng địa phương, lợi dụng uy quyền của mình, dần dần xâm chiếm ruộng đất công. Tầng lớp địa chủ mới đã tiếp tục bóc lột nông dân bằng hình thức địa tô hoặc lao dịch một số ngày lao động không công... - Tổ chức phụ trách thu các loại cống nạp, tô, thuế dưới thời Bắc thuộc được gọi chung là "công tào", chủ yếu là: Diêm quan, phụ trách thu thuế muối; Thiết quan thu thuế khoáng sản, đặc biệt là sắt; Thuỷ quan, thu thuế thuỷ sản; các huyện lệnh, trưởng hương, trưởng xã chịu trách nhiệm thu các loại sản phẩm, tô thuế trong địa bàn được phụ trách. Sản phẩm cống nạp phải tập trung chuyển về kho chính tại Trung quốc. - Chế độ cống nạp, tô thuế rất nặng nề, một phần để nuôi dưỡng bộ máy quan lại và đội quân chiếm đóng. Nhưng trên thực tế, bọn quan lại đô hộ sống chủ yếu bằng vơ vét, cướp bóc tài sản của nhân dân ta. Trời rét căm căm, dân phải xuống biển mò ngọc trai, đồi mồi, lên rừng tìm sừng tê giác, ngà voi... Nếu không đủ số lượng thì bị đòn roi, chém giết dã man... Đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm bùng nổ hàng loạt các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ, đấu tranh quyết giành độc lập, tự do cho đất nước. 3.Giai đoạn 1945 - 1955 - Thời kỳ đầu chưa có chính sách thuế chính thức dưới chính quyền cách mạng Ngày 05/01/2011 Bối cảnh lịch sử thời kỳ đầu của Cách mạng tháng 8 và chính sách động viên đóng góp chủ yếu theo hình thức tự nguyện Sau cách mạng tháng 8 thắng lợi, nhu cầu chi tiêu cho công tác an ninh-quốc phòng và bảo vệ đất nước trên nhiều mặt ngày càng lớn. Trong lúc đó, quỹ ngân khố Trung ương mà Nhà nước ta nắm được chỉ có 1.250.000 đồng Đông Dương (Một triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng) kể cả 580.000 đồng tiền hào rách chờ ngày tiêu huỷ. Tuy vậy, chủ trương của Hồ Chủ Tịch và Chính Phủ cách mạng lâm thời là không thể đơn thuần giải quyết vấn đề tài chính Nhà nước Việt nam chỉ biết bắt buộc nhân dân nộp thuế như chế độ cũ.  Với phương châm "lấy dân làm gốc", dựa vào dân, vì lợi ích của nhân dân, ngày 4-9-1945, Chính Phủ đã ban hành sắc lệnh số 4 thành lập "Quỹ độc lập" để thu nhận các món tiền và đồ vật mà nhân dân sẵn lòng quyên góp ủng hộ nền độc lập quốc gia. Trong khuôn khổ của Quỹ độc lập, từ ngày 19-9-1945 Tuần lễ vàng đã được phát động long trọng trong cả nước. Nhân dịp này, trong bức thư gửi đồng bào cả nước, Hồ Chủ Tịch đã nhấn mạnh "Tuần lễ vàng sẽ thu góp số vàng trong nhân dân, nhất là của các nhà giầu có để dùng vào việc cần cấp và quan trọng nhất của chúng ta lúc này là quốc phòng. Tuần lễ vàng sẽ tỏ cho toàn quốc đồng bào và cho toàn thế giới biết rằng trong lúc chiến sĩ Việt minh trên các mặt trận quyết hy sinh giọt máu cuối cùng để giữ vững nền tự do độc lập của nước nhà thì đồng bào ở hậu phương, nhất là những nhà giàu có cũng có thể hy sinh được chút vàng để phụng sự tổ quốc. Như thế, Tuần lễ vàng không những có ý nghĩa đóng góp vào nền tài chính, quốc phòng mà còn có ý nghĩa chính trị quan trọng... Tôi tin rằng toàn quốc đồng bào, nhất là các nhà giàu có , trong sự quyên góp này sẽ xứng đáng với sự hy sinh phấn đấu của các chiến sỹ ái quốc trên các mặt trận" (Hồ Chủ Tịch toàn tập - NXB Sự thật- Hà nội 1984- Tập 4- Trang 15-16).  Nhờ vậy, Quỹ độc lập, Tuần lễ vàng và Tuần lễ đồng đã được đồng bào cả nước nhiệt liệt hưởng ứng. Nhiều người, nhiều gia đình đã không tiếc những đôi hoa tai vàng từ hồi còn con gái, những chiếc nhẫn cưới, những đôi vòng, đôi xuyến vốn là những kỷ niệm quí giá, thiêng liêng của gia đình, những bộ tam sự, ngũ sự đã bao đời dùng để thờ cúng tổ tiên góp vào công quỹ Nhà nước. Một cụ già 80 tuổi mang đến một gói lụa điều bên trong là nén vàng gia bảo nặng 17 lạng, có người quyên góp toàn bộ tư trang của những người trong gia đình đến nộp cho ban tổ chức Tuần lễ vàng... Lòng dân đối với chính quyền cách mạng thật vô biên. Theo báo cáo tổng hợp của Bộ Tài chính ngày 20-5-1946 thì Quỹ độc lập đã thu được 20 triệu đồng Đông Dương và Tuần lễ vàng đã động viên được khoảng 370kg vàng, tương đương với số thuế thu trong 1 năm dưới chính quyền thực dân, phong kiến ở nước ta. (Võ Nguyên Giáp – Những chặng đường lịch sử – NXB Chính trị quốc gia 1994 – trang 275).  Thực hiện 10 chính sách trong chương trình Việt Minh trước thực trạng chế độ thuế khoá dưới chế độ thực dân phong kiến cũ quá hà khắc, Đảng và Chính phủ chủ trương bãi bỏ các thứ thuế hà khắc do Pháp - Nhật đặt ra, đồng thời xây dựng một hệ thống chính sách thuế mới hợp lý, công bằng, giảm nhẹ hơn, nhằm giải phóng sức sản xuất bị kìm hãm từ bao đời nay do nạn sưu cao, thuế nặng. Nhưng tiếc rằng, do không nắm vững các quan điểm, nội dung chính sách thuế mới nên một số cán bộ lại tuyên truyền, nhấn mạnh đến ý kiến: "Chính quyền cách mạng sẽ bỏ hết các thứ thuế", gây nên sự hiểu lầm trong một số người là dưới chính quyền cách mạng sẽ không phải nộp thuế nữa. Vì vậy, sắc lệnh số 11 ngày 7-9-1945 của Chính Phủ đã nêu rõ: "Chính sách thuế khoá hiện hành sẽ thay đổi dần; Mỗi khi bãi bỏ một thứ thuế cũ hay đặt ra một thứ thuế mới phải có sắc lệnh ấn định". Trong sắc lệnh cũng đã qui định: "Bãi bỏ thuế thân là một thứ thuế vô lý, trái ngược với tinh thần của chính thể dân chủ cộng hoà". Việc xoá bỏ thuế thân đã thực sự giải phóng nhân dân ta thoát khỏi sự trói buộc vào chiếc thẻ thuế thân, gắn với bắt bớ, giam cầm, hành hạ nhân dân như đối với người nô lệ. Chính Phủ cũng ra lệnh đình chỉ hẳn việc nấu và bán thuốc phiện nhằm chống tệ nạn nghiện hút mà thực dân Pháp đã, đầu độc nhân dân ta để thu lợi nhuận và bần cùng hoá đời sống nhân dân ta, gây nên cảnh tan nát của các gia đình.  Ngày 29-9-1945, Bộ Tài chính đã ban hành Chỉ thị số 3-TC bãi bỏ chế độ độc quyền muối . Đồng thời tổ chức mua muối của dân với giá hợp lý, giảm bớt thiệt thòi cho nhân dân, tạo được yên tâm, phấn khởi sản xuất trong dân.  Trong tình hình bị lũ lụt gây mất mùa, đói kém cho nông dân, ngày 28-10-1945, Bộ Tài chính đã được phép ban hành Nghị định giảm đồng loạt 20% thuế điền thổ chung cho cả nước và miễn thuế điền thổ năm 1946 cho các vùng bị lũ lụt.  Dưới chế độ cũ, thuế môn bài cũng là một gánh nặng đáng kể với người buôn b
Luận văn liên quan