Lịch sử phong cách thời trang

Câu 1: Hãy cho biết tính chất chung của “Mốt” thời trang và đặc điểm riêng của hiện tượng “Mốt”. Đầu tiên muốn tìm hiểu về mốt thời trang, thì chúng ta phải biết định nghĩa “Mốt” và “thời trang” là gì. 1.1: Định nghĩa về Mốt và thời trang. “Mode” có gốc từ “Mode” trong tiếng Pháp, hay “model” trong tiếng Anh, đều bắt nguồn từ tiếng Latinh “modus” có nghĩa là cách thức, phương pháp, quy tắc, mức độ chuẩn mực chung đã được công nhận. Thời trang là trang phục theo thời, là tập hợp những thói quen và thị hiếu phổ biến trong cách mặc, thịnh hành trong một không gian nhất định, vào một khoảng thời gian nhất định.

doc83 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 2172 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lịch sử phong cách thời trang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Câu 1: Hãy cho biết tính chất chung của “Mốt” thời trang và đặc điểm riêng của hiện tượng “Mốt”. Đầu tiên muốn tìm hiểu về mốt thời trang, thì chúng ta phải biết định nghĩa “Mốt” và “thời trang” là gì. 1.1: Định nghĩa về Mốt và thời trang. “Mode” có gốc từ “Mode” trong tiếng Pháp, hay “model” trong tiếng Anh, đều bắt nguồn từ tiếng Latinh “modus” có nghĩa là cách thức, phương pháp, quy tắc, mức độ chuẩn mực chung đã được công nhận. Thời trang là trang phục theo thời, là tập hợp những thói quen và thị hiếu phổ biến trong cách mặc, thịnh hành trong một không gian nhất định, vào một khoảng thời gian nhất định. 1.2: Tính chất chung của Mốt thời trang. “Mốt” được theo đuổi bởi số ít đối tượng trong một khoảng thời gian rất ngắn. Mốt được phổ biến một cách rộng rãi trên toàn cầu. Các hình thức thay đổi cảu mốt thường là các đặc điểm trang trí, hoa văn, chất liệu vải trong khi form dáng rất ít thay đổi. Mốt và thời trang đều phản ánh thói quen và thị hiếu thẩm mỹ trong cách ăn mặc, đã được xã hội công nhận. Xu hướng mốt không ngừng biến đổi và hoàn thiện theo sự biến đổi thị hiếu của xã hội. Trong khi sự biến đổi của cuộc sống diễn ra từ từ, thì sự biến đổi của mốt nhanh hơn và có sự đột biến hơn. Mốt thời trang xuất hiện và được truyền bá trong sự giao lưu đồng thuận hay cưỡng bức giữa các dân tộc. Nhờ kinh doanh, buôn bán hay chiến tranh, các thương gia hay chiến binh đã chuyên chở những sản phẩm vật chất, trong đó có cả quần áo từ nơi này sang nơi khác, từ đó mốt được hình thành và giao lưu nhanh chóng. Sau đó đến lượt mình, mốt thúc đẩy sự phát triển thời trang ở nơi mà nó được đem đến. 1.3: Đăc điểm riêng của hiện tượng Mốt. Lịch sử phát triển trang phục cho thấy mốt và thời trang là hai khái niệm gần giống nhau, nhưng không phải lúc nào chúng cũng đồng nhất với nhau. Giữa chúng có những điểm tương đối khác biệt. ví dự như: Thứ nhất: Thời trang: là cách ăn mặc thịnh hành, phản ánh tập quán mặc của cộng đồng, gắn liền với một thời kì lịch sử tương đối dài. Mốt: gắn liền với cái mới, thống trị nhất thời một số đông người, nhưng chưa hăn là thị hiếu của tất cả mọi người trong xã hội. Mốt thịnh hành trong một khoảng thời gian ngắn. Thứ hai: Thời trang: chỉ liên quan đến lĩnh vực như dệt, may, da giày, trang phục và những thứ khác liên quan đến vấn đề may mặc. Mốt: thì liên quan đến mọi vấn đề trong cuộc sống. Thứ ba: Thời trang: thường bị bó hẹp trong một phạm vi nhất định, vì nó có khuynh hướng gắn với một bộ phận xã hội, một địa phương, hay một vùng lãnh thổ. Mốt: được truyền bá, và có xu hướng lan ra toàn thế giới. Câu 2: Từ những tư liệu lịch sử, hãy sưu tầm những hình ảnh, đoạn văn nói về trang phục Việt Nam qua các thời kì. Theo chủng loại và chức năng, trang phục gầm có đồ mặc phía trên, đồ mặc phía dưới, đồ đội đầu, đồ đi chân và đồ trang sức. Theo mục đích, có trang phịc lao động và trang phục lễ hội. Theo giới tính thì có sự phân biệt trang phục nam và trang phục nữ. Cách thức trang phục của người Việt qua các thời đại bị chi phối bởi 2 nhân tố chính, của môi trường tự nhiên hoặc có nguồn gốc từ môi trường tự nhiên – đó là: khí hậu nóng bức của vùng nhiệt đới và công việc lao động nông nghiệp trồng lúa nước. 2.1: Trang phục Việt từ thời xa xưa Đồ mặc phía dưới Đồ mặc phía dưới tiêu biểu hơn cả của người phụ nữ Việt Nam qua các thời đại là cái váy. Từ thời Hùng Vương, phụ nữ đã mặc váy, lối mặc đó được bảo lưu một cách kiên trì ở nhiều nơi cho tới tận giữa thế kỉ này. Nó là đồ mặc điển hình của cả vùng Đông Nam Á và phổ biến đến mức, ở một số dân tộc Đông Nam Á, không chỉ phụ nữ, mà cả nam giới cũng mặc váy. Sở dĩ như vậy là vì mặc váy không chỉ mát, đối phó được một cách có hiệu quả với khí hậu nóng bức, mà còn rất phù hợp với công việc đồng áng. Là thứ đồ mặc phía dưới đặc thù của phương Nam, chiếc váy khác hẳn với chiếc quần có nguồn gốc từ gốc du mục Trung Á: thứ đồ măc này phù hợp với công việc chăn nuôi cưỡi ngựa và khí hậu Phương Bắc giá lạnh. Với âm mưu đồng hóa, phong kiến Trung Hoa đã nhiều lần muốn đưa chiếc quần vào thay thế cho chiếc váy của phụ nữ nước ta. Đến thời thuộc Minh, chiếc quần phụ nữ có lẽ đã phổ biến được ở một số bộ phận thị dân. Bởi vậy vào năm 1665, vua Lê Huyền Tông đã phải ra chiếu chỉ cấm phụ nữ: không được mặc quần để bảo tồn quốc tục mặc váy. Trong khi đó đến cuối thế kỷ 17, để tạo nên sự đối lập với Đàng Ngoài, chứ Nguyễn ở trong Nam đã lệnh cho trai gái Đàng Trong dung quần áo Bắc quốc để tỏ sự biến đổi. thành ra chiếc quần gốc du mục cuối cùng đã thâm nhập vào miền Nam sớm hơn miền Bắc. Đến năm 1828, vua Minh Mạng tiếp tục học theo Trung Hoa một cách triệt để, ra chiếu chỉ cấm dân mặc váy, và đã gây nên một sự phản ứng mạnh mẽ trong dân chúng Bắc Hà. Phản ứng bơi lẽ người dân Việt rất tự hào vè chiếc váy, rất tự tin vào bản sắc và bản lĩnh văn hóa của mình: ”Cái trống thì thủng hai đầu. Bên ta thì có, bên tàu thì không!” Đồ mặc phía trên Đồ mặc phía trên của phụ nữ ổn định nhất qua các thời đại là cái yếm. Yếm là đồ mặc mang tính chất thuần tuý Việt Nam, thường do phụ nữ tự cắt-may-nhuộm lấy, với nhiều kiểu cổ, nhiều màu phong phú: yếm nâu để đi làm thường ngày ở nông thôn; yếm trắng thường ngày ở thành thị: yếm hồng, yếm đào, yếm thấm... dùng vào những ngày lễ hội. Yếm dùng để che ngực cho nên nó trở thành biểu tượng của nữ tính (khi giặt phải phơi phóng ở chỗ kín đáo), và có sức quyến rũ mãnh liệt: “Ba cô đội gạo lên chùa, Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư. Sư về sư ốm tương tư ốm lăn ôm lóc cho sư trọc đầu...” Yếm và những bộ phận của yếm trở thành biểu tượng của tình yêu: “Yếm trắng mà vã nước hồ; Vã đi vã lại anh đồ yêu thương” Để đối phó với khí hậu nóng bức, phụ nữ khi làm lụng, nhất là trong bóng râm, dù là vào thời Hùng Vương hay là đầu TK. XX vẫn thường mặc váy-yếm với hai tay và lưng để trần. Phụ nữ nhiều dân tộc ít người đến nay vẫn mặc váy cởi trần. Dịp hội hè, phụ nữ xưa hay mặc áo lối mớ ba, mớ bảy, tức là mặc nhiều áo cánh lồng vào nhau. Tuy nhiên, với phong cách tế nhỉ, kín đao truyền thống, người phụ nữ Việt mặc cái áo dài màu thâm hoặc nâu phía bên ngoài lấp ló bên trong mới là các lớp áo cánh nhiều màu (vàng mỡ gà, vàng chanh, hồng cánh sen, hồng đào, xanh hồ thủy). Ở Nam Bộ, nơi khí hậu nóng quanh năm, “áo mớ” được thay bằng áo cặp (2 cái). Về mặt màu sắc, màu ưa thích truyền thống của người miền Bắc là màu nâu gụ - màu của đất; màu ưa thích của người Nam Bộ là màu đen - màu của bùn; người xứ Huế thì ưa màu tím trang nhã. Mấy chục năm gần đây, do ảnh hưởng của phương Tây, màu sắc trang phục đã trở nên hết sức đa dạng. Tuy nhiên, trong quân niệm nhân dân thì màu hông, màu đỏ vẫn là màu của sự may mắn, tốt đẹp, màu “đại cát”. ở nông thôn hiện nay, khi làm lễ cưới trước bàn thờ gia tiên, chú rể có thể mặc âu phục (nam giới dương tính hướng ngoại) còn có cô dâu thường vẫn mặc áo dài màu đỏ hoặc hồng chứ không mặc màu trắng là màu truyền thông Việt Nam. Sau đây là những hình ảnh minh họa cho trang phục nữ Việt Nam qua các thời kì, do một ban lấy cảm hứng và phác thảo dựa trên bộ phim tài liệu “Đi tìm trang phục Việt”. Trang phục nữ giới Bao giờ cũng vậy, phục trang phụ nữ bao giờ cũng đa dạng hơn phục trang đàn ông. Do vậy phục trang phụ nữ thời Lê cũng nhiều kiểu hơn và phức tạp hơn phục trang nam giới. Dạng 1: Áo giao lĩnh kín Kiểu phục trang đơn giản nhất cho phụ nữ thời Lê là dạng áo giao lĩnh tương tự như áo nam giới. Chúng ta có thể thấy ngay trong bức tranh này. Trang phục của người phụ nữ rất giống trang phục của người đàn ông, chỉ khác ở phần váy dưới. Trên bức tượng Dương Vân Nga tạc thời Lê Trung Hưng ở Ninh Bình, chúng ta cũng thấy dạng áo giao lĩnh đơn giản này. Có khác chăng bà chỉ khoác thêm một lớp áo choàng ở bên ngoài mà thôi. Dạng 2: Áo giao lĩnh hở Dạng thứ hai cũng là áo giao lĩnh không đai, nhưng có khác áo giao lĩnh đàn ông ở chỗ chính giữa áo để lộ ra một phần áo bên trong. Tượng công chúa Ngọc Hân Tượng phu nhân quận công Nguyễn Thế Mỹ, trang phục của bà giống như bức tượng trên, chỉ khác ở chỗ bà khoác thêm một lớp áo choàng ở ngoài. Dạng thứ 3 cũng là áo giao lĩnh Giống như dạng 1, là giao lĩnh kín (không lộ yếm trong). Nhưng khác ở chỗ lớp áo giao lĩnh ở ngoài ngắn và các cô buộc thêm một lớp váy ngắn bên ngoài.  Như cô gái trẻ trong bức tranh này. Đây là bức tranh do người Nhật vẽ về người Đông Kinh vào năm 1714. Trên góc phải của bức tranh có ghi chữ "Đông Kinh nhân", tức người Đông Kinh, người Hà Nội ngày xưa.  Trong khi cô gái trẻ khoác thêm lớp áo ngắn và lớp váy ngắn ở bên ngoài, thì bà lão ngồi cầm quạt vẫn mặc áo giao lĩnh kín đơn giản (dạng 1), chỉ khoác thêm áo khoác ngắn ở ngoài. Dạng 4: Giao lĩnh hở + váy ngoài  Dạng thứ 4, giống như dạng thứ 3, có thêm lớp váy ngắn ở ngoài, nhưng hai vạt giao lĩnh ở trên được để rời ra, lộ yếm ở trong.  (Dạng 4 so với dạng 3, giống như dạng 2 so với dạng 1. Một cái kín, một cái hở) Chúng ta có thể thấy dạng này ở rất nhiều pho tượng thời Lê. Dạng 5: Viên lĩnh dài Dạng này hoàn toàn khác với những dạng áo phụ nữ trên. Nếu những dạng trên có giao lĩnh (vạt chéo) ở ngoài thì dạng này có viên lĩnh (cổ tròn) ở ngoài. Dạng 6: Viên lĩnh ngắn  Dạng này cũng có một lớp viên lĩnh ở ngoài nhưng nó rất ngắn. Lớp viên lĩnh ngắn ở ngoài này có thể có nhiều kiểu. Dạng 7: Váy liền không dây (tạm gọi là thế) Dạng này không giống những dạng trên, rất đơn giản và mát mẻ. Nó chỉ gồm một chiếc váy liền không dây, kéo qua khỏi ngực và dùng một sợi vải buộc gút ở dưới ngực. Tượng công chúa Mạc Ngọc Lâm Minh Châu công chúa 2.2: Một chút về bối cảnh lịch sử Thời cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 là thời binh biến nhất trong xã hội Việt. Từ Bắc đến Nam đâu đâu cũng có khởi nghĩa, cũng có loạn. Nông dân Đàng Ngoài và Đàng Trong đều khởi nghĩa và cả hai chúa Trịnh và Nguyễn phải tiêu hao biết bao nhiêu sức lực để dẹp loạn. Ở Đàng Trong thì Tây Sơn nổi dậy chống nhà Nguyễn. Đàng Ngoài thì Lê-Trịnh đấu đả nhau, vùng núi phía Bắc cũng chia làm nhiều phe cánh. Tây Sơn chiếm Phú Xuân - Huế, lật đổ nhà Nguyễn, Nguyễn Ánh chạy vào Nam và củng cố lực lượng ở đây để chống lại Tây Sơn. Nguyễn Huệ mang quân ra Bắc với danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh và lật đổ chúa Trịnh. Khi quân Tây Sơn rút về thì con cháu nhà Trịnh lại ra giành quyền lực, vua Lê Chiêu Thống bị ép vào thế cùng phải chạy sang cầu cứu nhà Thanh. Khi về đến, Lê Chiêu Thống lại cho thiêu đốt cả Vương Phủ họ Trịnh để trả thù (nên nhớ cha Lê Chiêu Thống là thái tử Duy Vỹ vốn bị đổ oan, giam vào tù rồi bức chết bởi chúa Trịnh Sâm). Lửa cháy lan ra thiêu trụi cả thành Đông Kinh, hơn một tuần sau mới hết. Nhiều người phương Tây đã ghi lại sự kiện kinh hoàng này. Nguyễn Huệ đánh thắng quân Thanh nhưng kinh thành cũng đã tàn, bao nhiêu cung điện, công trình kiến trúc nguy nga bị thiêu rụi hết. Trước kia Đông Kinh vốn là một nơi tráng lệ, được các lữ khách phương Tây ca ngợi rằng nó còn hơn cả thành phố Venice, vốn là một trong những thành phố cảng phồn thịnh và tráng lệ nhất châu Âu; sau cơn binh biến nó trở nên hoang tàn, hơn 50 cung điện ở Vương Phủ cháy thành tro, hoàng cung cũng không thoát khỏi lửa, điện Kính Thiên chỉ còn là một tòa nhà bỏ hoang. Nguyễn Du khi quay trở về Đông Kinh đã đau đớn than rằng bao nhiêu cung địện xưa giờ chỉ còn là một phiến thành.  Nguyễn Huệ phải dời đô về Phú Xuân (Huế). Trong khi đó Nguyễn Ánh vẫn bao lần muốn đánh Tây Sơn. Không bao lâu thì Nguyễn Huệ cũng mất. Nguyễn Ánh thừa cơ mang quân từ miền Nam lên đánh Tây Sơn và dần dà diệt hết phe cánh Tây Sơn, chiếm hết cả nước. Nhà Nguyễn được thành lập, thống nhất đất nước. Nhưng loạn lạc vẫn chưa xong. Trong suốt nửa đầu thế kỷ 19, hàng trăm cuộc khởi nghĩa xảy ra ở hai miền Nam Bắc. Người ta ước tính số cuộc khởi nghĩa xảy ra từ thời Gia Long (1802) đến Tự Đức còn nhiều hơn cả số lượng cuộc khởi nghĩa xảy ra suốt thế kỷ 18. Dưới thời Minh Mạng đã có 254 cuộc khởi nghĩa xảy ra ở miền Bắc. Qua bao nhiêu chiến tranh, đất nước đã cạn kiệt, kinh tế suy thoái, người dân đói nghèo.  Vào cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18, hai người Tây Phương, Tavernier trong quyển "Relation nouvelle et singulière du Royaume de Tunquin" (1681) và Baron trong quyển "Description du Royaume de Tonquin" (đầu thế kỷ 18) đã viết rằng dân chúng Đàng Ngoài ăn mặc rất đẹp, dù nghèo hay giàu đều mặc tơ lụa vì họ sản xuất tơ lụa rất nhiều và vì thế giá rất rẻ nên cả người nghèo cũng mua được lụa để mặc.  Nhưng đến thế kỷ 19, dưới thời Nguyễn, Michael Đức Chaigneau lại miêu tả về cách ăn mặc của người Việt như sau: "Vợ những người buôn bán hay công chức nhỏ thì mặc một áo vải ngắn, mầu đen hay chocolat, quần lụa đen hay vải trắng. Dân chúng, thợ thuyền giới hạ lưu, đàn ông như đàn bà, ăn mặc rât tồi tệ. Đàn ông chỉ đánh một cái quần vải trắng hay mầu cháo lòng, dài tới đầu gối, buộc ngang lưng bằng một cái giải rút dài, buông thõng hai đầu ở trước bụng... Có người mặc áo vải ngắn mầu trắng hay nâu, thường là rách rưới, vá víu, dài chưa tới đầu gối, để lộ ống chân rám nắng. Phụ nữ ăn mặc cũng tựa như thế, chỉ khác áo dài hơn, ống tay áo rộng, quần và nón rộng hơn. Từng lớp trưởng giả sang trọng thì mặc áo mớ đôi bằng tơ lụa trông suốt qua được, quần lụa đến bụng chân" Trong khi thời thế 17, dân chúng giàu nghèo đều mặc tơ lụa, thì đến thế kỷ 19, chỉ có vợ những thương buôn giàu hay công chức nhỏ mới có thể mặc đến một chiếc quần "lụa đen". Nhưng chỉ có quần mới làm bằng lụa, còn áo thì cũng chỉ là "áo vải ngắn" (vải ở đây là vải bông / cotton clothes), không phải áo lụa. Dân chúng còn lại đều ăn mặc rách rưới tồi tệ.  Qua sự miêu tả của 3 người ở 3 thời điểm khác nhau trên, chúng ta có thể thấy hậu quả của chiến tranh ảnh hưởng đến đời sống, cách ăn mặc của người dân thế nào. Những hình ảnh trong các tấm ảnh xưa mà các bạn thấy là lúc người dân đã chịu nhiều chiến tranh đổ máu rồi, đời sống kinh tế cũng vất vả, nạn đói hoành hành, nên không thể ăn mặc đẹp được.  2.3: Trang phục Việt từ thế kỉ 19 đến nay. 2.3.1: Áo tứ thân Hình ảnh xưa nhất của áo tứ thân là đây. Có lẽ đây là vào khoảng cuối thế kỷ 19 . Nó không phải là áo tứ thân như các bạn tưởng ngày nay với 4 tà trước sau. Nó vốn là một dạng áo giao lĩnh (áo vạt chéo)! Ở bên trong có yếm, ở bên ngoài hai vạt áo bắt chéo nhau rồi buộc đai ở bụng ống tay áo đã được thu hẹp lại sát với cánh tay. Nhưng do hoàn cảnh khó khăn, áo giao lĩnh họ mặc cũng trở nên tồi tệ, nhăn nhuốm, đai buộc thì không đẹp, váy cũng cũng ngắn chứ không dài chấm chân như trong hình vẽ và trong miêu tả của người ngoại quốc ngày xưa (từ năm 1631, C. Borri đã miêu tả trong quyển "Relation de la nouvelle mission des Pères de la Compagnie de Jésus au Royaume de la Cochinchine" rằng đàn bà ở đất Đàng Trong mặc áo váy dài chấm đất đến nỗi không tài nào nhìn thấy được ngón chân của họ khi họ bước đi). 2.3.2: Áo Ngũ thân. Chiếc áo "tứ thân-giao lĩnh" đó, nếu được kéo hết sang một bên rồi bấm khuy thì sẽ thành áo ngũ thân. 2.3.3: Áo dài Áo dài cũ bắt nguồn từ áo ngũ thân. Áo dài Lemur Áo dài Lemur Áo dài Lê Phổ Áo dài tay raglan Áo dài bà Nhu Ngoài ra còn một số kiểu áo dài khác như: áo dài mini, áo dài mang phong cách hippy. Và cuối cùng là một số kiểu áo dài hiện nay. Đối với nam giới Đồ mặc phía dưới ban đầu là chiếc khố. Khố là một mảnh vải dài quấn một hoặc nhiều vòng quanh bụng và luồn từ trước ra sau, đuôi khố thường thả phía sau (cũng có khi thả về phía trước). Khố mặc mát, phù bợp với khí hậu nóng bức và dễ thao tác trong lao động. Vì vậy, nó không chỉ là đồ mặc điển hình thời Hùng Vương mà còn được duy trì ở bộ phận dân chúng khá lâu về sau này. Thời Nguyễn các sắc lính tuy phân biệt với nhau bằng màu của thắt lưng (lễ phục) hoặc xà cạp (thường phục), nhưng vẫn dược gọi là "khố": lính khố xanh (địa phương), lính khố đỏ (quân thường trực), lính khố vàng (phục vụ vua). Ngày nay, tuy nam giới không còn đóng khố, nhưng do sự chi phối của khí hậu, lối cởi trần mặc độc một chiếc quần đùi (quần xà lỏn) lúc ở nhà vào mùa nóng ở người lớn cũng như trẻ con, nông thôn cũng như thành thị, thực ra cũng chẳng khác cách mặc cởi trần đóng khố thời Hùng Vương bao xa! Khi chiếc quần gốc du mục thâm nhập vào thì nam giới là bộ phận tiếp thu nó sớm nhất. Điều này thật dễ hiểu, bởi lẽ nam giới (dương tính) hướng ngoại nên dễ hấp thụ văn hóa bên ngoài hơn. Quần đàn ông có hai loại: quần lá tọa và quần ống sớ. Quần lá tọa cho ống rộng và thẳng, đũng sâu, cạp quần (miền Nam gọi là lưng quần) to bản. Khi mặc, người ta buộc dây thắt lưng ra ngoài cạp rồi thả phần cạp thừa phía trần rủ xuống ra ngoài thắt lưng (vì thế nên có tên gọi là "lá tọa"). Quần lá tọa chính là loại quần được sáng tạo phù hợp với môi trường khí hậu nóng bức của ta (do có ống rộng nên mặc mát chẳng thua kém gì cái váy của phụ nữ), và có thể sử dụng rất linh hoạt thích hợp với lao động đồng áng đa dạng - ở mỗi loại ruộng khác nhau (ruộng cạn, ruộng nước, nước nông, nước sâu), người đàn ông có thể điều chỉnh cho ống quần cao hoặc thấp rất dễ dàng bằng cách kéo cạp (lưng) quần lên hoặc xuống (chính vì vậy mà quần có đũng sâu). Ngày lễ hội, nam giới dùng quần ống sớ: quần màu trắng có ống hẹp, đũng cao gọn gàng, đẹp mắt. Đàn ông khi lao động thì thường cởi trần. Các thành ngữ “váy vận, yếm mang” ( đối với phụ nữ) và “cởi trần đóng khố” (đối với nam giới) miêu tả rất chính xác trang phục lao động truyền thông. Cách mặc với mục đích đối phó với môi trường tự nhiên này dần dần trở thành một quan niệm về cái đẹp của người Việt Nam cổ truyền: “Đàn ông đóng khố đuôi lươn. Đàn bà yếm thắm hở lườn mới xinh”. Khi lao động và trong những hoạt động bình thường, nam nữ cũng thường mặc áo ngắn có hai túi phía dưới, có thể xẻ tà hai bên hông hoặc bít tà; ngoài Bắc gọi là áo cánh trong Nam gọi là áo bà ba, áo có đính cúc nhưng phụ nữ khi mặc thường không cài cúc vừa để cho mát, vừa để hở cái yếm trắng làm duyên. Đồ đội đầu, đồ trang sức Bên cạnh hai bộ phận cơ bản là đồ mặc trên và dưới (quần áo, sống áo), trang phục Việt Nam còn có những bộ phận khác không kém điển hình như thắt hông, đồ đội đầu, đồ trang sức. Thắt lưng (thường làm bằng vải) là bộ phận phụ với mục đích ban đầu phục vụ cả nam lẫn nữ là giữ cho đồ mặc dưới khỏi tuột ( với mục đích này, thắt lưng có thể bằng một sợi dây, gọi là dải nút), rồi phát sinh thêm mục đích giữ áo dài cho gọn. Và mục đích thứ ba là tôn tạo cái đẹp cơ thể của người phụ nữ. Các bà các chị còn dùng them thắt lưng bao ( còn gọi là ruột tượng) để kiêm nhiệm mục đích thứ tư là làm túi đựng đồ vặt (tiền, trầu, cau). Khi lao động đồng áng, người Việt Nam thường đi chân đất, khi hội hè hoặc ở thành thị thì đi dép (theo chất liệu có dép da, dép dừa, dép cói, dép cao su), đi guốc (làm bằng gỗ), đi hài (đối với phụ nữ), đi giày (đối với nam giới). Trên đầu thường đội khăn. Phụ nữ trước đây để tóc dài và vấn tóc bằng một mảnh vải dài cuộn lại để trên đầu (gọi là cái vấn tóc), đuôi tóc để chừa ra một ít gọi là tóc đuôi gà: “Một thương tóc để đuôi gà, hai thương ăn nói mặn mà có duyên”. Nguyễn Nhược Pháp trong bài thơ Chùa Hương đã miêu ta rất chính xác trang phục của cô gái quê: “Khăn nhỏ, đuôi gà cao - Em đeo dải yếm đào - Quần lĩnh, áo the mới - Tay em cầm chiếc nón quai thao” Có thể phủ ra ngoài cái vấn tóc là cái khăn vuông, chít hình mỏ quạ vào mùa lạnh (có mỏ nhọn phía trước, hai đầu buộc dưới cằm) hoặc hình đồng tiền vào mùa nóng (như khăn mỏ quạ nhưng hai đầu buộc sau). Đàn ông trước đây để tóc dài búi lại thành một búi tròn trên đầu gọi là búi tó, búi củ hành. Khi làm lụng, người đàn ông vấn khăn đầu rìu, lúc sang trọng thì đội khăn xếp. Người Nam Bộ thường đội khăn rằn. Trên khăn hoặc thay cho khăn là nón để che mưa nắng. Nón thường có khung tre và lợp lá gồi. Nón chóp nhọn đầu; nón thúng rộng vành; nón ba tầm như nón thúng nhưng mảnh dẻ hơn - các loại nón này đều phải có quai để giữ, nón quai thao (làm bằng vải thao) là loại phổ biến hơn cả. Huế nổi tiếng với nón bài thơ - một lại nón mỏng giơ lên ánh sang thì nhìn thấy những trang trí bên trong (xưa có bài thơ). Vua xưa đội mũ miện; quan văn xưa đội mũ cánh chuồn (có hai cánh hai bên); tướng ra trận đội mũ trụ (bằng chất liệu cứng để chống binh khí); sư sãi