Hoạt động Logistics rất phức tạp và liên quan đến việc mở rộng địa lý. Khắp nơi trên thế giới, 24 giờ mỗi ngày, 7 ngày 1 tuần, suốt 52 tuần trong năm, logistics có liên quan đến sản phẩm và dịch vụ ở một thời điểm xác định. Không thể tưởng tượng nổi làm sao chúng ta có thể thực hiện bất cứ sự tiếp thị, sự sản xuất, hoặc thương mại quốc tế nếu thiếu logistics. Hầu hết người tiêu dùng ở các nước công nghiệp phát triển, chấp nhận chi trả 1 mức cao trong thu nhập cho logistics. Khi họ mua hàng hoá tại một cửa hàng bán lẻ, qua điện thoại hoặc qua internet- họ mong đợi sẽ được giao hàng đúng hẹn.
Mặc dù logistics được hình thành từ khi bắt đầu nền văn minh, nhưng đến thế kỉ 21 các hoạt động logistics thực tiễn mới thể hiện đây là một trong những lĩnh vực lý thú và đầy thách thức của quản trị chuỗi cung ứng. Bởi vì logistics vừa cũ nhưng cũng vừa mới, chúng ta sẽ tiếp cận logistics theo khái niệm mới.
35 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4516 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Logistics trong quản trị chuỗi cung ứng tích hợp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 2
Logistics
Logistics trong kinh doanh chiếm tỉ trọng lớn và rất quan trọng.
Xác nhận giá trị logistics
Những lợi ích dịch vụ
Tối thiểu hóa chi phí
Giá trị logistics
Chức năng của logistics
Qui trình đặt hàng
Hàng tồn kho
Vận chuyển
Kho hàng, quản lý nguyên vật liệu, và đóng gói
Thiết kế hệ thống giúp thuận lợi hóa công việc
Các hoạt động logistics
Dòng hàng tồn kho
Dòng thông tin
Khâu tổ chức vận hành logistics
Hệ thống dạng bậc thang
Hệ thống trực tiếp
Hệ thống kết hợp
Cơ cấu linh hoạt
Đồng bộ hoá chuỗi cung ứng
Cấu trúc chu trình thực hiện
Tính không chắc chắn của chu trình thực hiện
Tóm tắt
Hoạt động Logistics rất phức tạp và liên quan đến việc mở rộng địa lý. Khắp nơi trên thế giới, 24 giờ mỗi ngày, 7 ngày 1 tuần, suốt 52 tuần trong năm, logistics có liên quan đến sản phẩm và dịch vụ ở một thời điểm xác định. Không thể tưởng tượng nổi làm sao chúng ta có thể thực hiện bất cứ sự tiếp thị, sự sản xuất, hoặc thương mại quốc tế nếu thiếu logistics. Hầu hết người tiêu dùng ở các nước công nghiệp phát triển, chấp nhận chi trả 1 mức cao trong thu nhập cho logistics. Khi họ mua hàng hoá tại một cửa hàng bán lẻ, qua điện thoại hoặc qua internet- họ mong đợi sẽ được giao hàng đúng hẹn.
Mặc dù logistics được hình thành từ khi bắt đầu nền văn minh, nhưng đến thế kỉ 21 các hoạt động logistics thực tiễn mới thể hiện đây là một trong những lĩnh vực lý thú và đầy thách thức của quản trị chuỗi cung ứng. Bởi vì logistics vừa cũ nhưng cũng vừa mới, chúng ta sẽ tiếp cận logistics theo khái niệm mới.
Logistics có liên quan đến quản lí qui trình đặt hàng, hàng tồn kho, vận chuyển, sự kết hợp kho hàng, quản lý nguyên vật liệu, và đóng gói, tất cả được tích hợp trong một hệ thống giúp thuận lợi hóa công việc. Mục tiêu của logistics là hỗ trợ quá trình thu mua, sản xuất, và phục vụ khách hàng. Trong một công ty, thách thức là làm sao phối hợp các hoạt động riêng lẻ thành một hệ thống tích hợp để phục vụ khách hàng tốt nhất. Trong bối cảnh chuỗi cung ứng ngày càng mở rộng, đồng bộ hoá hoạt động rất quan trọng với khách hàng cũng như người cung cấp nguyên liệu và dịch vụ để liên kết các hoạt động bên trong và bên ngoài tạo thành một chu trình tích hợp.
Logistics liên quan đến trách nhiệm thiết kế và quản lí các hệ thống để kiểm soát sự di chuyển và vị trí địa lí của nguyên liệu thô, qui trình hoạt động, và hàng tồn kho với tổng chi phí thấp nhất. Để đạt được tổng chi phí thấp nhất nghĩa là tài sản tài chính và con người phải được giữ ở mức thấp nhất. Ngoài ra, cần phải giữ chi phí hoạt động thấp nhất có thể. Sự kết hợp các nguồn tài nguyên, các kĩ năng và các hệ thống để đạt chuỗi logistics tinh giảm là một thách thức, nhưng một khi đạt được rất khó để các đối thủ bắt chước.
Chương này nghiên cứu sự góp phần của logistics vào quản trị chuỗi cung ứng tích hợp. Đầu tiên, chúng ta sẽ nhấn mạnh chi phí và dịch vụ. Tiếp theo, chúng ta sẽ xác định giá trị logistics. Sau đó, chúng ta sẽ xem xét các hoạt động kinh doanh truyền thống kết hợp với nhau để tạo nên một qui trình logistics. Cuối cùng, chúng ta sẽ nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đồng bộ hoá logistics đối với chuỗi cung ứng tích hợp thông qua cấu trúc chu trình thực hiện và tính không chắc chắn của chu trình thực hiện.
LOGISTICS TRONG KINH DOANH CHIẾM TỈ TRỌNG LỚN VÀ VÔ CÙNG QUAN TRỌNG
Trong suốt quá trình logistics dòng nguyên vật liệu được đưa vào sản xuất và sản phẩm hoàn thành được phân phối đến khách hàng. Sự phát triển gần đây trong thương mại toàn cầu đã mở rộng quy mô và sự phức tạp của hoạt động logistics.
Logistics làm tăng giá trị cho chuỗi cung ứng khi hàng tồn kho được xác định một cách chiến lược để đạt được doanh số. Dù khó khăn để đo lường, hầu hết các chuyên gia đồng ý rằng chi tiêu hàng năm để thực hiện logistics ở Mĩ năm 2004 xấp xỉ 8,6% của 11,74 tỉ đô la GNP, tương đương 1.015 tỉ đô la. Chi tiêu cho vận chuyển năm 2004 là 644 tỉ đô la, chiếm 63,3% tổng chi phí logistics. Theo như minh hoạ ở bảng 2.1, logistics trong kinh doanh thực sự là một lĩnh vực kinh doanh rộng lớn.
Mặc dù quy mô tương đối của chi phí logistics có giảm, sự hứng thú đối với logistics không hề suy giảm. Sự kích thích sinh ra từ việc hiểu được các công ty sử dụng năng lực logistics để đạt được lợi thế cạnh tranh. Các công ty có năng lực logistics tầm cỡ thế giới có thể cung cấp cho những khách hàng quan trọng nhất của họ dịch vụ tốt nhất. Các công ty dẫn đầu điển hình tận dụng nguồn lực công nghệ thông tin để điều khiển hoạt động logistics toàn cầu trên cơ sở đúng thời gian. Trong nhiều trường hợp, hoạt động đúng thời gian không thể thực hiện, khách hàng sẽ được thông báo trước về sự cố, vì vậy họ sẽ không ngạc nhiên khi sự cố xảy ra. Trong nhiều trường hợp, bằng việc hợp tác với khách hàng và nhà cung cấp, hoạt động đúng thời gian được sử dụng để ngăn chặn sự thất bại của dịch vụ khách hàng đáng giá. Bằng việc thực hiện các hoạt động trên cùng với sự sẵn sàng của hàng tồn kho, giao hàng đúng tốc độ và đảm bảo, hoạt động có hiệu quả, các công ty có thể trở thành các đối tác lý tưởng trong chuỗi cung ứng.
Bảng 2.1 Chi phí logistics ở Mỹ, 1980- 2004 ( tỉ đô la ngoại trừ GDP)
Nguồn: sửa lại từ Rosalyn Wilson, “Báo cáo tình hình logistics” hàng năm lần thứ 16, hội đồng các chuyên gia về quản trị chuỗi cung ứng, Oak Brook , IL, 2005
GIÁ TRỊ LOGISTICS
Đến nay, logistics được quản trị như là một nỗ lực kết hợp nhằm mục tiêu thỏa mãn nhu cầu khách hàng với chi phí thấp nhất. Logistics được xem xét với khía cạnh tạo ra giá trị. Ở phần này, chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích những yếu tố giá trị - dịch vụ và giảm thiểu chi phí.
Lợi ích dịch vụ
Hầu hết bất kỳ một dịch vụ logistics nào cũng sẽ dễ thực hiện hơn nếu một doanh nghiệp sẵn sàng cam kết với những nguồn lực cần có. Trong môi trường kinh doanh hiện nay, điều hạn chế là thực trạng nền kinh tế, chứ không phải là công nghệ. Ví dụ như, một lượng tồn kho hợp lý có thể được duy trì trong những khu vực lân cận với một lượng khách hàng chủ yếu. Ta có thể tổ chức một đội xe chuyên chở hàng để sẵn sàng nhanh chóng vận chuyển trong những khu vực gần nhau. Để tạo điều kiện thuận tiện cho quá trình đặt hàng, ta nên duy trì việc kết nối, mối liên hệ giữa khách hàng và nhà cung cấp dịch vụ logistics. Hướng đến sự nhanh chóng của chuỗi hoạt động logistics, một sản phẩm hoặc bộ phận sản phẩm sẽ được đưa đến tay khách hàng nhanh nhất với yêu cầu của họ. Ích lợi này sẽ càng hiệu quả hơn khi một nhà cung cấp đồng ý ký gửi một lượng hàng tồn kho tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, rút ra yêu cầu cần có hoạt động logistics khi cung cấp sản phẩm. Logistics sẽ giúp quá trình chuyển hàng từ nhà cung cấp được hoàn thành một cách tốt nhất khi có nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, phát triển tốt nhất dịch vụ này có lẽ là giấc mơ của những nhà quản lý, vì nó khá tốn chi phí và đặc trưng cao, khó có thể theo đuổi hầu hết kỳ vọng của mọi khách hàng và hoạt động sản xuất.
Chiến lược chủ yếu là làm cách nào thực hiện tốt hơn đối thủ cạnh tranh về mặt chi phí. Một loại nguyên vật liệu riêng biệt, cần cho sản xuất nhưng lại không có sẵn. Điều này sẽ làm cho hoạt động của nhà máy ngưng trệ, dẫn đến tăng chi phí đáng kể, mất đi lượng doanh thu tiềm năng, và thậm chí là ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh. Ta có thể dễ dàng nhìn thấy tác động đến lợi nhuận một cách đáng kể. Ngược lại, ảnh hưởng đến lợi nhuận trong 1 đến 2 ngày trì hoãn sản xuất sẽ được giảm đến mức thấp nhất hay thậm chí là không đáng kể trên toàn bộ hoạt động sản xuất, khi ta có đưa sản phẩm bổ sung đến những nhà kho. Trong hầu hết mọi trường hợp, ảnh hưởng về chi phí cũng như lợi nhuận của việc thất bại trong chuỗi hoạt động logistics, liên quan trực tiếp đến tầm quan trọng của dịch vụ khách hàng. Hoạt động kinh doanh càng thất bại đáng kể, trước tiên là do việc thực hiện chuỗi cung ứng - hoạt động logistics còn nhiều bất cập, sai sót.
Chuỗi cung ứng cơ bản và sáng tạo được đo lường dựa trên sự sẵn sàng, hoạt động điều hành, và đảm bảo dịch vụ. Chuỗi hoạt động logistics cơ bản được mô tả với một doanh nghiệp cung cấp cho tất cả khách hàng thiết lập.
Sự sẵn sàng, hiểu là có lượng hàng tồn kho phù hợp với nguyên liệu của khách hàng cũng như yêu cầu của sản phẩm. Mô hình truyền thống này càng giúp cắt giảm chi phí tồn kho khi sự sẵn có hàng là hợp lý. Công nghệ thông tin tạo điều kiện thuận lợi cho sự linh hoạt của hệ thống, cung cấp một cách thức mới hướng đến nguồn hàng dự trữ sẵn, mà không cần một lượng vốn đầu tư cao vào dự trữ tồn kho. Quản lý lượng hàng tồn kho hợp lý, là điều then chốt, quyết định tính hiệu quả của hoạt động logistics.
Hoạt động điều hành quản lý, trực tiếp giải quyết thời gian giao nhận cho 1 đơn đặt hàng, liên quan đến tốc độ giao nhận và tính đảm bảo. Một cách dễ hiểu, hầu hết khách hàng đều muốn vận chuyển nhanh. Tuy nhiên, giao nhận nhanh chóng lại có điểm hạn chế là không có tính đảm bảo cao cho hàng hóa. Một thực tế, nhà cung cấp hứa hẹn giao hàng vào ngày mai, nhưng lại thường giao trễ hơn. Đề đạt đến sự trôi chảy trong quản lý điều hành, trước hết các doanh nghiệp cần chú ý tập trung vào tính hiệu quả cao của giao nhận, và sau đó dần dần cải thiện tốc độ giao nhận. Một khía cạnh khác của quản lý, điều hành cũng rất quan trọng: hoạt động quản lý cũng được nhìn nhận dưới sự linh hoạt giải quyết, cung cấp những đơn đặt hàng bất ngờ, không mong đợi. Mặt khác, những trục trặc, sự cố xảy ra thường xuyên, ta sẽ đánh giá thời gian khắc phục những sự cố ấy. Một vài doanh nghiệp có thể thực hiện hoàn hảo tất cả những yếu tố trên trong mọi lúc. Đánh giá những sai sót là một việc rất quan trọng. Sự cố, điều này liên hệ với khả năng thất bại trong hoạt động logistics, như là những sản phẩm gây hại, phân loại sai sót, hoặc là những tài liệu không phù hợp. Khi những sự cố như vậy xảy ra, năng lực của một doanh nghiệp về logistics được đánh giá dưới khía cạnh thời gian khắc phục sự cố. Hoạt động quản lý, đó là cách một doanh nghiệp xử lý tất cả những đơn đặt hàng, gồm cả những sai sót trong dịch vụ, trên cơ sở ngày làm việc và cả những ngày nghỉ.
Sự đảm bảo của dịch vụ liên quan với chất lượng của logistics. Chìa khóa của chất lượng chính là việc đo lường chính xác tính có sẵn cũng như hoạt động quản lý, điều hành. Việc đo lường này hoàn toàn có thể thực hiện nếu tổng thể hoạt động logistics đều hướng đến những mục tiêu dịch vụ mong muốn. Nhằm đạt được sự đảm bảo, điều thiết yếu là xác định và thực hiện đầy đủ sự đo lường nguồn hàng tồn kho sẵn có và hoạt động quản lý. Để hoạt động logistics liên tục đáp ứng nhu cầu của khách hàng, điều thiết yếu là việc quản lý cần phải có những cải tiến. Chất lượng logistics không phải là điều dễ dàng, cần có kế hoạch sản xuất sản phẩm tốt hơn, bằng cách huấn luyện, đào tạo nhân viên, tinh thần làm việc hết mình, sự đo lường một cách toàn diện, và những cải tiến liên tục. Để cải tiến dịch vụ, những mục tiêu cần được thiết lập trên cơ sở chọn lọc. Một vài sản phẩm sẽ bị chỉ trích, chê bai nhiều hơn cái khác, vì sự quan trọng của nó đối với khách hàng và lợi nhuận đóng góp.
Dịch vụ logistics cơ bản cần thực tế với nhu cầu, đòi hỏi của khách hàng. Hầu hết trường hợp, các doanh nghiệp phải đương đầu với tình huống khách hàng tiềm năng khác biệt đáng kể. Vài khách hàng đòi hỏi những dịch vụ cộng thêm độc nhất hay là đặc biệt. Vì vậy, người quản lý phải nhận thấy khách hàng là khác biệt, và những dịch vụ cung cấp phải phù hợp để đáp ứng những yêu cầu độc nhất và tiềm năng khách hàng. Nhìn chung, doanh nghiệp có xu hướng khá là tích cực đối với những dịch vụ cơ bản. Không cần phải có khả năng đáp ứng những mục tiêu dịch vụ cao, không thực tế, có thể dẫn đến những vấn đề, sự cố trong quan hệ khách hàng, quản lý điều hành hơn là có ít mục tiêu tham vọng từ lúc bắt đầu. Những cam kết dịch vụ toàn diện, trên mọi lĩnh vực là không thực tế, có thể làm giảm bớt năng lực của doanh nghiệp để thỏa mãn những yêu cầu đặc biệt của những khách hàng tiềm năng cao.
Tối thiểu hóa chi phí
Trọng điểm của hoạt động logistics được chỉ ra từ những nghiên cứu gần đây về lý thuyết tổng chi phí và từ thực tiễn. Năm 1956, một công trình nghiên cứu về cước phí hàng không đã cho thấy triển vọng phát triển mới về chi phí logistics. Trong nỗ lực chứng minh rằng vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không với mức chi phí khá cao là hướng phát triển hợp lý, Lewis, Culliton, và Steele đã dựa trên các khái niệm tổng chi phí logistics hiện đại. Tổng chi phí được xác định bao gồm tất cả phí tổn, lượng chi tiêu cần thiết mà mọi hoạt động logistics đòi hỏi. Tác giả đã minh họa bằng chiến lược phân phối một bộ phận điện tử khi mà giá vận chuyển hàng không trực tiếp từ nhà máy đến khách hàng được bù đắp nhiều hơn bằng sự cắt giảm tồn kho và vài chi phí dự trữ. Họ xác định rằng cách để chi phí logistics thấp nhất với việc cung cấp dịch vụ khách hàng tốt nhất là tập trung quản lý hàng tồn kho ở một nhà kho và vận chuyển bằng đường hàng không.
Quan niệm về tổng chi phí trước đó chưa được áp dụng trong hoạt động logistics. Có lẽ bởi vì xu hướng kinh tế của thời đại và hướng phát triển cơ bản trong thực tiễn truyền thống, vấn đề tổng chi phí vẫn đang trong sự tranh cãi. Thực tiễn phổ biến trong hoạt động quản lý, được củng cố thêm từ quản trị tài chính và kế toán, chú trọng tập trung vào việc đạt được chi phí thấp nhất có thể cho mỗi chức năng riêng biệt của hoạt động logistics, cân bằng các yếu tố khác nhau về chi phí để đạt được sự kết hợp tốt nhất. Những nhà quản lý truyền thống thường tập trung vào cắt giảm chi phí chức năng, như là vận chuyển, với mong muốn rằng những nỗ lực này sẽ đạt được những mức chi phí kết hợp thấp nhất. Những hướng phát triển mới trong khái niệm tổng chi phí đã mở ra một cánh cửa mới, chỉ ra các chi phí chức năng có quan hệ chặt chẽ với nhau như thế nào và tác động lẫn nhau. Những sự cải tiến tiếp theo đã cung cấp kiến thức hiểu biết toàn diện hơn về những bộ phận cấu thành chi phí logistics và xác định nhu cầu then chốt trong phân tích phát triển chi phí chức năng và chi phí dựa trên hoạt động. Tuy nhiên, những yếu tố cho quá trình logistics hiệu quả vẫn đang ở thời cơ thế kỷ 21. Nhiều thực tiễn hiện nay trong kế toán, tài chính, vẫn đang là rào cản đối với giải quyết việc thực hiện tổng chi phí logistics.
Giá trị Logistics
Chìa khóa để đạt được vị trí dẫn đầu về Logistics là nắm vững năng lực điều hành và cam kết trong việc đáp ứng sự mong đợi cũng như những yêu cầu của khách hàng mục tiêu. Trong khuôn khổ chi phí cho phép, sự cam kết này chính là lời xác nhận về giá trị Logistics. Đây là một cam kết duy nhất của một công ty đối với một cá nhân hoặc một nhóm khách hàng được chọn
Các doanh nghiệp tiêu biểu tìm cách phát triển và thực hiện đúng năng lực logistics tổng thể nhằm đáp ứng được sự mong đợi của khách hàng tại một mức phí tổn chung thực tế. Rất hiếm khi với tổng chi phí thấp nhất mà dịch vụ khách hàng có thể đạt được tốt nhất lại có thể cùng nhau tạo nên chiến lược Logistic như mong đợi .Tương tự như vậy, sự kết hợp thích hợp sẽ khác nhau cho các khách hàng khác nhau. Một nỗ lực Logistics được thiết kế tốt phải có tác động cao đến khách hàng trong hoạt động kiểm soát đúng và cam kết giảm thiểu hàng tồn kho. Và, hơn tất cả, nó phải thích hợp cho các khách hàng cụ thể.
Đã có sự tiến bộ đáng kể để phát triển các công cụ hỗ trợ quản lý trong việc đo lường sự cân đối chi phí / dịch vụ. Xây dựng một chiến lược đòi hỏi một khả năng để ước tính chi phí hoạt động cần thiết để đạt được mức độ dịch vụ thay thế. Tương tự như vậy, các cấp thay thế hiệu suất của hệ thống là vô nghĩa, trừ khi xem xét trong điều kiện chỗ ở của khách hàng kinh doanh tổng thể của đơn vị, sản xuất, mua sắm và chiến lược. Việc thiết kế dây chuyền cung ứng là nội dung chính của phần ba.
Các công ty hàng đầu nhận ra rằng một hệ thống Logistics được thiết kế tốt và vận hành tốt có thể giúp đạt được lợi thế cạnh tranh. Trong thực tế, cũng như là một quy luật chung, các công ty đã xác định được bản chất của các đối thủ cạnh tranh trong ngành công nghiệp của họ do có được một lợi thế chiến lược dựa trên năng lực Logistics
CHỨC NĂNG CỦA LOGISTICS
Trong bối cảnh quản lý dây chuyền cung ứng, Logistics tồn tại để di chuyển hàng tồn kho trong thời gian, địa điểm mong muốn, và các lợi ích sở hữu với tổng chi phí thấp nhất. Hàng tồn kho có giá trị giới hạn cho đến khi nó được định vị vào đúng thời điểm và đúng vị trí để hỗ trợ chuyển giao quyền sở hữu hoặc giá trị gia tăng được tạo ra. Nếu một công ty không đáp ứng yêu cầu thời gian và địa điểm một cách đồng bộ, nó không có gì để bán. Đối với một chuỗi cung ứng, để nhận ra những lợi ích tối đa từ chiến lược Logistics, mọi chức năng của công việc phải được tích hợp. Các quyết định trong lĩnh vực này sẽ tác động đến chi phí của tất cả những lĩnh vực khác. Đó là sự quan hệ qua lại giữa các chức năng. Nó thách thức sự thành công của quản lý đó có được một lợi thế chiến lược dựa trên năng lực Logistics tích hợp. Hình 2.1 cung cấp một cái nhìn trực quan về bản chất tương quan trong năm lĩnh vực của công việc đó có được một lợi thế chiến lược dựa trên năng lực Logistics: (1) qui trình đặt hàng; (2) hàng tồn kho; (3) vận chuyển; (4) kho hàng, quản lý nguyên vật liệu, đóng gói; và (5) hệ thống giúp thuận lợi hóa công việc. Tích hợp công việc liên quan đến các khu vực chức năng này tạo ra các khả năng cần thiết để đạt được những giá trị Logistics.
Hình 2.1: Logistics hợp nhất
Qui trình đặt hàng
Trước đây, thông tin chính xác để thực hiện tốt hoạt động Logistics chưa được quan tâm nhiều. Đối với hoạt động Logistic, thì việc xử lý đơn đặt hàng là quan trọng bậc nhất. Không hoàn toàn thấu hiểu tầm quan trọng này dẫn đến kết quả không hoàn toàn hiểu biết các biến dạng và các thất bại trong xử lý việc đặt hàng ảnh hưởng đến hoạt động Logistics. Hiện nay công nghệ thông tin có khả năng xử lý các yêu cầu của khách hàng khó tính nhất. Khi bạn muốn, thông tin đặt hàng có thể được trao đổi giữa các đối tác kinh doanh.
Lợi ích của các luồng thông tin nhanh có liên quan trực tiếp đến cân bằng công việc. Điều đó có thể được hiểu với một công ty khi tích lũy đơn đặt hàng tại một văn phòng bán hàng địa phương trong một tuần, gửi chúng đến một văn phòng khu vực, xử lý các đơn đặt hàng trong một đợt, giao cho một nhà kho phân phối, và sau đó gửi chúng qua đường hàng không để được giao hàng nhanh . Ngược lại, giao tiếp mạng Internet của đơn đặt hàng trực tiếp từ khách hàng sẽ tiết kiệm được thời gian và chi phí, cùng với giao thông vận tải chậm, như vậy ít tốn kém và vẫn có thể đạt được dịch vụ vận chuyển nhanh hơn với tổng chi phí thấp hơn. Mục tiêu chính là để cân bằng các thành phần của hệ thống Logistics.
Dự báo và truyền đạt các yêu cầu của khách hàng là hai lĩnh vực của hoạt động Logistics được điều chỉnh bởi thông tin. Tầm quan trọng tương đối trong từng khía cạnh của thông tin là hoạt động liên quan trực tiếp đến mức độ mà các dây chuyền cung ứng được định vị đối với chức năng trên cơ sở đáp ứng hoặc dự phòng. Những phản ứng của các chuỗi cung ứng càng nhanh thì tầm quan trọng của thông tin chính xác và kịp thời liên quan đến hành vi mua hàng của khách hàng càng lớn. Như được thảo luận trong chương 1, chuỗi cung ứng đang ngày càng phản ánh một sự pha trộn giữa việc phản ứng nhanh và thực hiện trước kì hạn.
Trong hầu hết các chuỗi cung ứng, các yêu cầu của khách hàng được truyền đi ở dạng đơn đặt hàng. Việc xử lý các đơn đặt hàng liên quan đến tất cả các khía cạnh của việc quản lý các yêu cầu của khách hàng, kể cả khi nhận lệnh đầu tiên, giao hàng, lập hoá đơn, và gom hàng. Khả năng Logistics của một công ty chỉ có thể tốt như năng lực qui trình đặt hàng.
Xử lý đơn hàng của Amazon.com
Kênh kinh doa