Các công trình nghiên cứu lý luận về các tội xâm phạm SHTT rất đa dạng ở
nhiều chuyên ngành với các cấp độ khác nhau, có thể được chia thành các nhóm
như sau:
Thứ nhất, nhóm các công trình có nội dung nghiên cứu về khái niệm, đặc
điểm và các yếu tố của SHTT, quyền SHTT.
Trong các tài liệu nước ngoài, lý luận về SHTT được nhiều nhà khoa học
quan tâm: Bài viết ―The philosophy of intellectual property‖ (tạm dịch: Triết lý về
sở hữu trí tuệ) của tác giả Justin Hughes trên Tạp chí Georgetown Law tập 77 số 2
tháng 12 năm 1988; cuốn “Introduction to Intellectual Property Theory and
Practice‖ (tạm dịch: Giới thiệu về lý thuyết và thực hành sở hữu trí tuệ) của Tổ
chức WIPO năm 1997; cuốn “The Economic structute of Intellectual Property” (tạm
dịch: Cơ cấu kinh tế của sở hữu trí tuệ) của tác giả William M. Landes và Richard
A.Posner, nhà xuất bản Belknap của Đại học Harvard năm 2003; cuốn “Intellectual
property law” (tạm dịch: Luật sở hữu trí tuệ) của tác giả L. Bently và B. Sherman
(tái bản lần thứ 2), xuất bản bởi Đại học Oxford năm 2004; cuốn “Intellectual
property law: text, cases and materials” (tạm dịch: Luật sở hữu trí tuệ: văn bản, các
vụ việc và tài liệu) (tái bản lần thứ 3) của các tác giả Tanya Aplin, Jennifer Davis,
xuất bản bởi Đại học Oxford năm 2017 Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong
các tài liệu này đã trình bày được sự phức tạp, phong phú của các quan điểm về khái
niệm SHTT với sự đồng thuận lớn cho rằng đây là một loại sản phẩm của trí tuệ con
người hoặc cho rằng đây là một loại tài sản đặc biệt. Số khác [132, tr.769-778] [141,
tr.7615-7621] các bài nghiên cứu hoặc từ điển lại nhận định đây là một khái niệm
dùng để chỉ các quy định pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa chủ thể sáng tạo
với các sản phẩm trí tuệ.
199 trang |
Chia sẻ: thuylinhk2 | Ngày: 27/12/2022 | Lượt xem: 597 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ theo pháp luật hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MAI THỊ THANH NHUNG
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRÍ TUỆ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2022
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MAI THỊ THANH NHUNG
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRÍ TUỆ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Ngành:
Mã số:
Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
9 38 01 04
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
GS. TS. VÕ KHÁNH VINH
Hà Nội - 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học. Các thông tin, số liệu nêu
trong Luận án là trung thực. Các luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ
ràng. Tổng thể kết quả nghiên cứu của Luận án chưa từng được công bố
trong công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Mai Thị Thanh Nhung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................. 9
1.1. Khái quát về tình hình nghiên cứu đề tài ........................................ 9
1.2. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu đề tài ............................. 27
1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu ................................ 30
1.4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu ............................... 31
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 33
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU TRÍ TUỆ ........................................................................... 34
2.1. Khái niệm, đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ ........... 34
2.2. Các yếu tố của các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ ............................ 46
2.3. Cơ sở của việc quy định các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ trong
pháp luật hình sự Việt Nam .................................................................. 53
2.4. Chính sách pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ ....... 60
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 67
Chƣơng 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA
VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRÍ TUỆ ....................................... 69
3.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm
sở hữu trí tuệ ........................................................................................... 69
3.2. Quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia về
các tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ .................................................... 96
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................ 115
Chƣơng 4: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ CÁC YÊU CẦU, GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN, BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU TRÍ TUỆ ......................................................................... 117
4.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam hiện hành về các tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ .................... 117
4.2. Các yêu cầu và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật
hình sự về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ .......................................... 142
4.3. Các biện pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ ......................... 163
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 ............................................................................ 167
KẾT LUẬN .................................................................................................. 169
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự
Bộ tổng luật liên bang (Mỹ)
Cấu thành tội phạm
Điều ước quốc tế
Hiệp định thương mại tự do
Sở hữu trí tuệ
Sở hữu công nghiệp
Trách nhiệm hình sự
BLHS
BLTTHS
USC
CTTP
ĐƯQT
FTA
SHTT
SHCN
TNHS
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
1. Bảng 1: Số vụ án và số bị can bị khởi tố, truy tố về các tội xâm phạm sở
hữu trí tuệ trên địa bàn cả nước từ năm 2010 đến năm 2020
2. Bảng 2 và biểu đồ 1: Số vụ án và số bị cáo bị xét xử về các tội xâm phạm
sở hữu trí tuệ trên địa bàn cả nước từ năm 2010 đến năm 2020
3. Bảng 3: Số vụ án theo cơ cấu các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ trên địa bàn
cả nước từ năm 2010 đến năm 2020
4. Bảng 4: So sánh số vụ và số bị cáo bị xét xử về các tội xâm phạm sở hữu trí
tuệ so với các tội phạm về hàng giả trên địa bàn cả nước từ năm 2010 đến
năm 2020
5. Bảng 5: So sánh số vụ án và số bị cáo bị xét xử về các tội xâm phạm sở hữu
trí tuệ so với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung trên địa bàn
cả nước từ năm 2010 đến năm 2020
6. Bảng 6: So sánh số vụ án và số bị cáo bị xét xử về các tội xâm phạm sở hữu
trí tuệ và tội phạm nói chung trên địa bàn cả nước từ năm 2010 đến năm 2020
7. Bảng 7: Số vụ và số tiền xử phạt vi phạm về sở hữu công nghiệp theo trên
địa bàn cả nước từ năm 2010 đến năm 2020
8. Bảng 8: Thống kê hình phạt áp dụng đối với tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp trên địa bàn cả nước từ năm 2010 đến năm 2020.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc nghiên cứu các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ (SHTT) theo pháp luật hình
sự Việt Nam xuất phát từ những đòi hỏi có tính cấp thiết sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ vai trò của SHTT đối với đời sống kinh tế - xã hội.
SHTT đã dần trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế, là một nguồn của cải tạo
ra sự thịnh vượng của mỗi doanh nghiệp, quốc gia, khu vực cũng như toàn xã hội.
Trong bối cảnh nhân loại đang bước vào nền kinh tế tri thức, các tài sản trí tuệ ngày
càng được thừa nhận trên toàn thế giới như là một tài sản thương mại quan trọng.
Không chỉ đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, SHTT còn
có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển bền vững của các lĩnh vực khoa học khác
trong đời sống xã hội đặc biệt là các vấn đề về bảo hộ và khai thác đa dạng sinh
học, về phát triển và chuyển giao công nghệ thân thiện với môi trường, gìn giữ
những giá trị văn học và nghệ thuật dân gian, văn hóa truyền thống.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của SHTT, các quốc gia trên thế
giới đã không ngừng nỗ lực khuyến khích các hoạt động sáng tạo và bảo vệ thành
quả sáng tạo này bằng nhiều biện pháp. Pháp luật quốc gia là một trong những công
cụ hữu hiệu để đạt được mục tiêu này. Kinh nghiệm và thực tiễn thế giới cũng chỉ ra
rằng, một trong những nền tảng cơ bản cho một nền kinh tế phát triển ổn định với
tốc độ tăng trưởng cao là hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ phải hoàn thiện, vững
chắc. Hệ thống pháp luật về SHTT trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ thể
nắm giữ tài sản trí tuệ, người tiêu dùng, doanh nghiệp và các vấn đề phúc lợi xã hội
khác. Đặc biệt, mức độ bảo hộ của pháp luật có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế quốc
gia, kinh tế toàn cầu trong vấn đề đảm bảo một môi trường an toàn, thuận lợi cho sự
sáng tạo, tạo động lực thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và thương mại; khuyến khích
nghiên cứu, phát triển công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa. Bảo vệ quyền
SHTT đầy đủ, chặt chẽ và mạnh mẽ có tác dụng tốt trong việc phát triển công nghệ
và kinh doanh lành mạnh.
Do đó, các quốc gia đều chủ động trong việc hoạch định chính sách và xây
dựng hệ thống pháp luật về SHTT; pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT
cũng là một những bộ phận không thể thiếu của hệ thống đó.
2
Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn đã được tổng kết cho thấy tình trạng gia tăng
các vi phạm pháp luật về SHTT nói chung; những quy định và việc áp dụng pháp
luật hình sự xử lý các tội xâm phạm SHTT chưa phúc đáp được yêu cầu chống và
phòng ngừa các tội phạm này.
Theo số liệu thống kê từ Chương trình 168 về phối hợp hành động và phòng
chống xâm phạm quyền SHTT cho thấy, trong năm 2020, các lực lượng chức năng,
bộ ngành đã xử phạt 1.300 vụ xâm phạm quyền SHTT. Các hành vi xảy ra phổ biến
như: sản xuất, buôn bán hàng hóa giả mạo, xâm phạm quyền SHTT trên môi tường
internet, nhiều vụ việc có tính chất xuyên biên giới; những vi phạm cạnh tranh
không lành mạnh; nhái nhãn hiệu, vi phạm liên quan đến tên miền, tên thương mại;
xâm phạm quyền đối với sáng chế, giải pháp hữu ích và xâm phạm quyền đối với bí
mật kinh doanh. Trong số đó, có khoảng 95% các vụ xâm phạm quyền SHTT được xử
phạt bằng biện pháp hành chính. Và theo thống kê từ cơ quan xét xử hình sự, số vụ
phạm tội xâm phạm SHTT được xét xử chiếm tỷ lệ rất thấp. Trong khi đó trên thực tế,
các vụ xâm phạm SHTT, đặc biệt là trên nền tảng số có xu hướng phổ biến hơn; các
hành vi xâm phạm có chuyển biến nhanh, thủ đoạn tinh vi, khó lường và rất phức tạp,
gây ra những thiệt hại to lớn cho chủ thể sáng tạo cũng như kinh tế - xã hội.
Mặc dù, các biện pháp hành chính, dân sự, thương mại nêu trên đã phát huy
được những tác dụng tích cực trong hạn chế các vi phạm về SHTT; tuy nhiên, thực
tiễn cho thấy những hình thức này chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn hành vi xâm
phạm. Điều này phần nào đặt ra vấn đề liệu việc quy định và áp dụng quy định pháp
luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT có thực sự phù hợp và hiệu quả?
Song song với thực trạng gia tăng những hành vi xâm phạm thông thường,
xuất hiện thêm những hành vi xâm phạm mới có nguy hiểm đáng kể cho xã hội
nhưng chưa được quy định là tội phạm và bị xử lý về hình sự, dẫn đến giảm hiệu
quả chống và phòng ngừa các vi phạm về SHTT nói chung.
Thứ ba, xuất phát từ quan điểm của Đảng, Nhà nước về bảo vệ quan hệ SHTT.
Chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước đã
thể hiện rõ quan điểm cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về SHTT vì
những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong nhiều văn kiện chính
trị quan trọng:
3
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2020 đã chỉ rõ một trong
những định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam là: “Hoàn thiện pháp
luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, hình thành và phát triển thị trường khoa học -
công nghệ theo hướng mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ phù hợp với yêu cầu của WTO và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên.‖ Tiếp đó, Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng chỉ ra một trong những nhiệm vụ
cải cách tư pháp là hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự, trong đó cần “Quy định
là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế.‖
Vấn đề hoàn thiện pháp luật về SHTT được khẳng định tại Nghị quyết số
06/NQ-TW ngày 05/11/2016 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và tiếp
tục được đề cập trong Báo cáo đánh giá kinh tế của Đại hội Đảng lần thứ 13 cũng đã
đề xuất “tăng cường công tác bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ”. Nghị quyết
Đại hội 13 được thông qua cũng nêu rõ 06 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại
hội XIII, một trong những nhiệm vụ kinh tế được nhấn mạnh đó là: “hoàn thiện hệ
thống pháp luật, nhất là pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ và giải quyết các tranh
chấp dân sự, khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước.”
Thứ tư, xuất phát từ quan điểm của pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền
SHTT: “Các vấn đề và mối quan tâm về sở hữu trí tuệ ngày càng hòa nhập với các
vấn đề toàn cầu khác; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này không thể tiếp tục triển
khai khi tách rời môi trường chính sách rộng hơn.‖ [74, tr.8]
Trong thời kỳ mà hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một xu hướng tất yếu,
việc hợp tác phát triển ở nhiều lĩnh vực giữa các quốc gia trên thế giới trong đó có
lĩnh vực SHTT là một đòi hỏi cấp thiết. Hiệp định TRIPS về các khía cạnh liên
quan đến thương mại của quyền SHTT đánh dấu sự xuất hiện của quyền SHTT
trong vai trò một lĩnh vực đàm phán thương mại đa phương. Tiếp nối truyền thống
của TRIPS, lĩnh vực SHTT được các hiệp định đối tác đa phương, song phương và
khu vực khác nhau, đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới
(như CPTPP, EVFTA) đưa ra với tư cách một trong những lĩnh vực đàm phán,
4
thỏa thuận và ký kết. Những sự hợp tác này đã, đang và sẽ mang lại nhiều cơ hội
cũng như thách thức cho các quốc gia thành viên (trong đó có Việt Nam). Một trong
số những thách thức đó là việc hoàn thiện chính sách, pháp luật. Sau những thỏa
thuận chủ yếu điều chỉnh các nội dung cơ bản của việc thực thi quyền SHTT bằng
các biện pháp dân sự, thương mại, hành chính thì các biện pháp xử lý hình sự đối
với tội xâm phạm SHTT được đặc biệt nhấn mạnh bởi các đối tác phát triển. Theo
đó, yêu cầu xử lý hình sự các hành vi phạm tội ở mức độ nhất định đối với quốc gia
thành viên được thể hiện trong các FTA nói riêng, Điều ước quốc tế có liên quan
ngày một chặt chẽ và cụ thể hơn, trong đó, có một số yêu cầu đặt ra mà pháp luật
hình sự Việt Nam chưa đảm bảo được sự tương thích.
Thứ năm, xuất phát từ lý luận khoa học về nhóm các tội phạm trong luật
hình sự: Nghiên cứu các tội xâm phạm SHTT nói riêng, các tội phạm nói chung dưới
góc độ lý luận khoa học luật hình sự cho thấy: Việc nghiên cứu tội phạm không chỉ là
nghiên cứu từng tội danh cụ thể mà còn bao gồm nghiên cứu tập hợp các tội phạm có
điểm chung. Trong đó, đặc điểm chung về tính chất quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ và bị tội phạm xâm hại (khách thể của tội phạm) là tiêu chí cơ bản nhất để sắp
xếp các tội danh khác nhau vào cùng một nhóm, ví dụ: các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm quyền con người,
quyền tự do, dân chủ của công dân; các tội xâm phạm sở hữu Đây là một trong
những cơ sở để nhận thức tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, giúp
xây dựng đường lối xử lý thống nhất đối với các tội phạm trong cùng nhóm.
Mặt khác, lý luận chung về các tội xâm phạm SHTT là một trong cơ sở để
xây dựng cấu thành tội phạm của các tội cụ thể. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về
mặt khoa học những yếu tố của tội phạm, các nhà xây dựng pháp luật cũng như các
nhà áp dụng pháp luật mới có thể quy định phù hợp và áp dụng chính xác các dấu hiệu
của tội phạm. Do vậy, việc nghiên cứu lý luận về các tội xâm phạm SHTT là một yêu
cầu cần thiết, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận khoa học luật hình sự; tạo cơ sở
nhận thức và xây dựng các quy định của pháp luật hình sự một cách khoa học.
Với những lý do nêu trên, việc nghiên cứu toàn diện các tội xâm phạm SHTT
theo pháp luật hình sự Việt Nam là cần thiết, có ý nghĩa thời sự về lý luận cũng như
thực tiễn.
5
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ theo pháp luật hình sự Việt Nam, luận án đề
xuất các giải pháp hoàn thiện và bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam đối với các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án đặt ra phải giải quyết các nhiệm vụ
sau đây:
- Phân tích những vấn đề lý luận về các tội xâm SHTT;
- Khái quát lịch sử lập pháp, phân tích quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam (trọng tâm là quy định của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) về
các tội xâm phạm SHTT; đồng thời, phân tích, so sánh với pháp luật quốc tế và
pháp luật một số quốc gia về các tội phạm này nhằm rút ra được bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về các tội xâm phạm SHTT; tìm ra những vướng mắc, bất cập và nguyên
nhân của các vướng mắc, bất cập đó.
- Đưa ra được các yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự; giải
pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu các quan điểm lý luận, học thuyết khoa học về các tội
xâm phạm SHTT; quy định của pháp luật hình sự Việt Nam ở những thời kỳ khác
nhau và pháp luật quốc tế, pháp luật một số quốc gia trên thế giới về các tội xâm
phạm SHTT; thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam trong những năm gần
đây về các tội xâm phạm SHTT; yêu cầu và giải pháp hoàn thiện, bảo đảm áp dụng
đúng quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Đối với các vấn đề lý luận và pháp luật thực định,
thời gian nghiên cứu bám sát tiến trình lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam (tập
6
trung phân tích các giai đoạn kể từ khi BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1985 ra đời đến nay). Đối với thực tiễn áp dụng pháp hình
sự, thời gian nghiên cứu đối với các số liệu từ năm 2010 đến năm 2020; thời gian
nghiên cứu đối với các vụ án được tiến hành từ năm 2010 đến nay.
- Địa bàn nghiên cứu:
+ Nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự được thực hiện trên phạm vi:
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam có tham khảo thêm một số vấn đề pháp
luật quốc tế và pháp luật 04 nước (Hoa Kỳ, Pháp, Trung Quốc, Singapore).
+ Nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
được thực hiện với các số liệu, các vụ việc (có tính đại diện) trên phạm vi cả nước.
- Giới hạn đối tượng nghiên cứu: ngoài những giới hạn về thời gian và địa
bàn nêu trên, trong nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về các
tội xâm phạm SHTT, tác giả lựa chọn chỉ tập trung làm rõ hoạt động áp dụng luật
nội dung (Luật hình sự) để đi sâu nghiên cứu, đảm bảo dung lượng của luận án.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về tội phạm, về TNHS làm phương pháp luận nghiên cứu.
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng phù hợp cho từng
chương trong luận án, cụ thể:
Chương 1: Sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống hóa để
làm rõ các vấn đề liên quan đến đề tài đã được nghiên cứu trong các công trình khoa
học đã công bố để tìm ra những nội dung nên kế thừa, cần được tiếp tục nghiên cứu
trong luận án.
Chương 2: Sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp diễn dịch, phương
pháp tổng hợp để làm rõ các vấn đề lý luận về các tội xâm phạm SHTT.
Chương 3: Sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương
pháp diễn dịch, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp để làm rõ các quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam, pháp luật quốc tế và pháp luật của một số
quốc gia về các tội xâm phạm SHTT.
7
Chương 4: Sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu điển
hình, phương pháp chuyên gia, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp để
nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hình sự hiện hành về các tội
xâm phạm SHTT; đưa ra các yêu cầu, biện pháp hoàn thiện và các biện pháp bảo
đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự Việt Nam về các tội này.
Các tội xâm phạm SHTT là một vấn đề đa phương diện. Với xu hướng đổi
mới tư duy tiếp cận nghiên cứu từ đơn ngành sang tư duy kết hợp tiếp cận đa ngành,
liên ngành trong nghiên cứu luật học, luận án kết hợp các hướng tiếp cận khác nhau
phù hợp với yêu cầu của từng nội dung cần làm sáng tỏ trong luận án. Từ đó, các
hướng tiếp cận của luận án bao gồm tiếp cận tiếp cận luật học thực định (là hướng
tiếp cận chủ đạo), xã hội học pháp luật, kinh tế học, chính sách học pháp luật và tiếp
cận dựa trên quyền.
5. Những đóng góp mới của luận án
Về nội dung: Luận án là công trình nghiên cứu về các tội xâm phạm SHTT
một cách tương đố