cấp độ quốc gia hay ở cấp độ địa phương, chất lượng nguồn nhân lực (NNL) luôn là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), đảm bảo thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế dựa vào tri thức, sự tác động của CLNNL đến phát triển kinh tế - xã hội ngày càng trở nên to lớn, mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Vì vậy, nâng cao CLNNL luôn là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển KT-XH với mọi quốc gia, mọi địa phương
186 trang |
Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 2078 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chất lượng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Lai Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
* Tiếng Việt
Từ viết tắt
Cụm từ tiếng Việt
CLNNL
Chất lượng nguồn nhân lực
CMKT
Chuyên môn kỹ thuật
CNH-HĐH
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
ĐH-CĐ
Đại học, Cao đẳng
HĐND
Hội đồng nhân dân
KCN
Khu công nghiệp
KH&ĐT
Kế hoạch & Đầu tư
KT-XH
Kinh tế - xã hội
MNPB
Miền núi phía Bắc
NNL
Nguồn nhân lực
LĐTB&XH
Lao động Thương binh & Xã hội
TCCN
Trung cấp chuyên nghiệp
UBND
Ủy ban nhân dân
* Tiếng Anh
Từ viết tắt
Cụm từ tiếng Anh
Cụm từ tiếng Việt
BMI
Body Mass Index
Chỉ số khối cơ thể
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm trong nước
HDI
Human Development Index
Chỉ số phát triển con người
ILO
International Labour Organization
Tổ chức Lao động quốc tế
OECD
Organization for Economic Co-operation and Development
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
TFP
Total Factor Productivity
Năng suất các nhân tố tổng hợp
UN
United Nations
Liên Hợp quốc
UNDP
United Nations Development Programme
Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc
UNFPA
United Nations Population Fund
Quỹ Dân số Liên Hợp quốc
VCCI
Vietnam Chamber of Commerce and Industry
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
WB
World Bank
Ngân hàng Thế giới
WEF
World Economic Forum
Diễn đàn kinh tế Thế giới
WHO
World Health Organization
Tổ chức Y tế Thế giới
DANH MỤC BẢNG, HÌNH
1. Bảng
Bảng 2. 1: Khung tiêu chí và các chỉ số CLNNL ở địa phương 42
Bảng 2. 2: Các nhân tố rút trích và cách diễn giải các nhân tố tác động hình thành chất lượng nguồn nhân lực 48
Bảng 3. 1: Tổng sản phẩm bình quân đầu người của Lai Châu, so sánh với cả nước 72
Bảng 3. 2: Thu nhập bình quân đầu người/tháng phân theo thành thị/nông thôn và theo nguồn thu của Lai Châu (đồng) 72
Bảng 3. 3: Tổng thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp 74
Bảng 3. 4: Tỷ lệ hộ nghèo của Lai Châu giai đoạn 2008 -2013 (%) 74
Bảng 3. 5: Thực trạng năng suất lao động trong các khu vực kinh tế 75
Bảng 3. 6: Tỉ trọng người có việc làm và thất nghiệp trong tổng dân số đang trong độ tuổi lao động ở tỉnh Lai Châu (%) 77
Bảng 3. 7: Cơ cấu tuổi của lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên giai đoạn 2010 -2013 ở tỉnh Lai Châu (%) 77
Bảng 3. 8: Cơ cấu nguồn nhân lực tỉnh Lai Châu theo giới tính 78
Bảng 3. 9: Cơ cấu NNL tỉnh Lai Châu theo tiêu chí thành thị và nông thôn 79
Bảng 3. 10: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ của tỉnh Lai Châu, cả nước và một số tỉnh MNPB (%) 79
Bảng 3. 11: Thực trạng tốt nghiệp các cấp học của nguồn nhân lực 15 tuổi trở lên tại tỉnh Lai Châu (%) 80
Bảng 3. 12: Tỷ lệ nhân lực từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm ở tỉnh Lai Châu (%) 81
Bảng 3. 13: Thực trạng trình độ CMKT của NNL tỉnh Lai Châu, trung du MNPB và cả nước (%) 83
Bảng 3. 14: Trình độ chuyên môn của nhân lực đang làm việc 84
Bảng 3. 15: Thực trạng trình độ chuyên môn của nhân lực tại các doanh nghiệp năm 2013 ở Tỉnh Lai Châu và một số tỉnh MNPB 85
Bảng 3. 16: Một số chỉ số về thực trạng sức khỏe 89
Bảng 3. 17: Tổng hợp kết quả thực hiện EFA với từng nhóm đối tượng khảo sát trong phân tích đánh giá CLNNL tỉnh Lai Châu 92
Bảng 3. 18: Thứ tự ưu tiên các nhân tố và đối tượng tác động của chính sách và giải pháp để nâng cao CLNNL trên địa bàn tỉnh Lai Châu 93
Bảng 3. 19: Các chỉ tiêu y tế của tỉnh Lai Châu 101
Bảng 3. 20: Mức hưởng trợ cấp 1 lần đối với các đối tượng thu hút cán bộ đến công tác tại tỉnh Lai Châu 103
Bảng 4. 1: Các chỉ tiêu về chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Lai Châu đáp ứng mục tiêu phát triển KT-XH đến 2020 116
2. Hình:
Hình 1. 1: Khung lý thuyết về chất lượng nguồn nhân lực 26
Hình 2. 1: Nguồn nhân lực của địa phương 31
Hình 2. 2: Mô hình đánh giá CLNNL của địa phương cấp tỉnh 47
Hình 3.1: Thực trạng nhân lực trên 15 tuổi đang làm việc đã qua đào tạo, so sánh Lai Châu với cả nước, vùng trung du MNPB và một số tỉnh khác (%) 82
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Ở cấp độ quốc gia hay ở cấp độ địa phương, chất lượng nguồn nhân lực (NNL) luôn là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), đảm bảo thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế dựa vào tri thức, sự tác động của CLNNL đến phát triển kinh tế - xã hội ngày càng trở nên to lớn, mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Vì vậy, nâng cao CLNNL luôn là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển KT-XH với mọi quốc gia, mọi địa phương. Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chuyển từ kinh tế “nâu” sang phát triển kinh tế xanh, từ nền kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên và các ngành gia công, lắp ráp thâm dụng lao động kỹ thuật thấp sang nền kinh tế dựa vào công nghệ cao và nhân lực chất lượng cao, hướng tới nâng cao năng lực cạnh tranh, tính hiệu quả và giá trị gia tăng cao. Trong bước chuyển đổi chất lượng mang tính quyết định này, phát triển NNL, nhất là NNL chất lượng cao được xác định là một trong ba khâu đột phá chiến lược trong “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020” được thông qua tại Đại hội XI của Đảng. Nâng cao CLNNL là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và được coi là một trong những ưu tiên chính sách hàng đầu của Đảng và Nhà nước.
Lai Châu là một tỉnh MNPB, có điều kiện KT-XH đặc thù và còn khó khăn hơn rất nhiều so với các địa phương khác trong nước. Trải qua 30 năm đổi mới, với các kết quả phát triển còn tùy thuộc nhiều vào việc tận khai thác tài nguyên thiên nhiên và duy trì phương thức canh tác nông nghiệp miền núi truyền thống, lấy lao động thủ công làm sức mạnh phát triển chủ yếu, tương lai phát triển của Lai Châu đang đối mặt với những giới hạn nghiệt ngã. Việc vượt qua giới hạn đó, về nguyên tắc, trông đợi vào việc thay đổi phương thức phát triển KT-XH, với định hướng chính là chuyển sang dựa chủ yếu vào nguồn nhân lực và công nghệ. Đây là bài toán phát triển lớn và rất khó khăn đặt ra cho Lai Châu, khi tỉnh còn nghèo, trình độ dân trí thấp, dân cư sống phân tán trong vùng núi cao, điều kiện hạ tầng kết nối nhiều khó khănTrong giai đoạn vừa qua, tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế của Lai Châu đã có những bước cải thiện khá (đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 12%/năm trong giai đoạn 2008-2013), nhưng hầu hết các chỉ số phát triển KT-XH của Tỉnh vẫn thấp hơn mức trung bình của các địa phương trên toàn quốc. Năng suất lao động xã hội của Lai Châu hiện rất thấp, chỉ bằng 1/3 năng suất lao động xã hội của cả nước, trong khi đó tốc độ tăng trưởng năng suất lao động qua các năm chậm chạp. Tuy tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ở Lai Châu không trầm trọng nhưng đang có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây. Mức sống của người dân Lai Châu hiện rất thấp. Tính toán từ các số liệu thống kê cho thấy chỉ số tổng sản phẩm/đầu người của Lai Châu chỉ bằng 1/3 tổng sản phẩm trên đầu người của cả nước (tính theo USD). Thu nhập của người lao động ở Lai Châu thấp hơn nhiều so với các tỉnh MNPB. Lai Châu là một trong những tỉnh mà tình trạng nghèo đói trầm trọng và phổ biến nhất cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo của Lai Châu năm 2012 là 43,5%, gấp gần 4 lần tỷ lệ hộ nghèo của cả nước và gấp 1,9 lần tỷ lệ hộ nghèo các tỉnh Trung du MNPB.
Tình trạng KT-XH kém phát triển của Lai Châu bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản nhất là CLNNL của Tỉnh đang ở mức rất thấp. Trình độ giáo dục NNL tỉnh Lai Châu thấp hơn nhiều so với cả nước và so với các tỉnh MNPB. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ chỉ đạt hơn 60%, trong đó tỷ lệ biết chữ ở khu vực nông thôn thấp hơn nhiều so với khu vực thành thị. Tỷ lệ nhân lực từ 15 tuổi trở lên chưa bao giờ đi học chiếm hơn ¼ nguồn nhân lực trong độ tuổi này, trong khi đó tỷ lệ nhân lực tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông có xu hướng cải thiện nhưng với tốc độ chậm chạp, không đáng kể. Trình độ chuyên môn của NNL tỉnh Lai Châu hiện nay rất thấp so với mặt bằng chung của cả nước và các tỉnh Trung du MNPB. Nguồn nhân lực từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo của Lai Châu chỉ đạt khoảng hơn 11%. Nguồn nhân lực không có trình độ CMKT chiếm hơn 90%. Ngoài ra, NNL đang có nhiều vấn đề cần giải quyết về kiến thức và kỹ năng, thể lực cũng như phẩm chất và tác phong lao động. Những vấn đề về CLNNL đang và sẽ là ưu tiên cần giải quyết của chính quyền tỉnh Lai Châu nhằm giúp Lai Châu vươn lên thành một tỉnh đứng vị trí trung bình về phát triển kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn vừa qua, nhất là từ năm 2008 đến nay, Chính quyền tỉnh Lai Châu đã có nhiều nỗ lực với nhiều giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao CLNNL ở địa phương, như: xây dựng quy hoạch NNL của Tỉnh, giải pháp về giáo dục và đào tạo, giải pháp về y tế và chăm sóc sức khỏe... Các giải pháp này đã phần nào làm cải thiện từng bước CLNNL nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH Lai Châu. Tuy nhiên, các giải pháp này chưa thực sự hợp lý, một số giải pháp còn thiếu cơ sở khoa học và căn cứ thực tiễn, thiếu tỉnh khả thi và vì vậy làm cho CLNNL của Tỉnh ngày càng tụt hậu so với CLNNL ở các địa phương khác lân cận và so với mặt bằng chung của cả nước.
Trước tình hình đó, việc nâng cao CLNNL của Lai Châu là thực sự cấp bách nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của Tỉnh. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp có cơ sở khoa học để nâng cao CLNNL của tỉnh Lai Châu có ý nghĩa quan trọng cả trong giai đoạn trước mắt cũng như trong dài hạn.
Từ những lý do nói trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Chất lượng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Lai Châu” làm đề tài nghiên cứu sinh, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Mục đích, ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài luận án
Mục đích nghiên cứu đề tài luận án là nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định, điều chỉnh các chiến lược, quy hoạch và chính sách phát triển KT-XH của tỉnh Lai Châu; góp phần xác định cách thức phát triển mới, hiện đại của tỉnh Lai Châu, đó là cách thức phát triển dựa chủ yếu vào CLNNL và công nghệ theo hướng phát triển bền vững.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của nghiên cứu đề tài luận án: Góp phần xây dựng, hoàn thiện phương pháp phân tích đánh giá, CLNNL và phương thức nâng cao CLNNL trong phát triển KT-XH của một địa phương cấp tỉnh; sử dụng phương pháp, chỉ tiêu đánh giá CLNNL đã đề ra vào việc phân tích, đánh giá CLNNL trong phát triển KT-XH của một địa phương cụ thể, đặc thù là tỉnh Lai Châu, đề xuất phương cách nâng cao CLNNL đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh và bền vững tỉnh Lai Châu thời kỳ tới. Qua đó, Luận án sẽ góp phần vào thực hiện khâu đột phá chiến lược về phát triển NNL, góp phần phát triển nhanh và bền vững KT-XH của Việt Nam nói chung, tỉnh Lai Châu nói riêng.
3. Kết cấu của Luận án
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, nội dung Luận án kết cấu thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu về chất lượng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội
Chương 2: Cơ sở lý luận về chất lượng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương cấp tỉnh.
Chương 3: Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Lai Châu.
Chương 4: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lai Châu đến năm 2020, tầm nhìn 2025.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1 Tổng quan các nghiên cứu đã công bố ở trong, ngoài nước về chất lượng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1 Tổng quan các nghiên cứu ở nước ngoài về chất lượng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1.1 Tổng quan các nghiên cứu về yếu tố nhân lực và vai trò của nhân lực chất lượng cao trong tăng trưởng kinh tế
(1). Adam Smith (1776), “Sự thịnh vượng của các quốc gia”. Smith cho rằng, sự tăng trưởng của cải chủ yếu có hai con đường: 1) Thông qua phân công, nâng cao năng suất lao động; 2) Tăng số người lao động mang tính chất sản xuất, phân công dẫn đến việc sử dụng máy móc, sự gia tăng số người lao động có tính chất sản xuất đều cần đến đầu tư một lượng vốn lớn. Vì vây, tích lũy vốn là nhân tố quyết định sản xuất ra của cải vật chất.
(2). “Thuyết lao động lành nghề” của Leontief, nhà kinh tế học người Mỹ, được công bố trong bài viết “Sản xuất trong nước và thương mại quốc tế: Khảo sát lại tình hình tư bản Mỹ” (1953), và bài viết “Tỷ lệ yếu tố sản xuất với kết cấu thương mại quốc tế Mỹ: Phân tích lý luận và kiểm nghiệm” (1956). Sau đó, các nhà kinh tết học gọi hai bài viết này của Leontief là “Câu đố Leontief” và “Giải đáp câu đố của Leontief”. Để giải đáp câu đố của Leontief, bản thân Leontief và các nhà khoa học khác đã nêu ra rất nhiều nhân tố tương quan như năng suất lao động, lao động lành nghề, tư bản nhân lực (vốn con người), nghiên cứu và phát triển (R&D), tài nguyên thiên nhiên... Bản thân Leontief đã nêu ra thuyết lao động lành nghề trong quá trình giải thích “Câu đố Leontief”. Lý luận này xuất phát từ trình độ thành thạo lao động và lượng lao động thành thạo sẵn có tương đối để giải thích nguyên nhân hình thành kết cấu và phân bổ thương mại quốc tế hàng công nghiệp. Leontief cho rằng, trong điều kiện trang bị vốn như nhau, trình độ lao động lành nghề của công dân Mỹ cao, năng suất lao động bình quân của công dân Mỹ cao gấp 3 lần của công dân nước ngoài, vì vậy sức lao động hữu hiệu của Mỹ là 3 lần sức lao động hiện có. Do đó, trên thực tế Mỹ trở thành nước có sức lao động dồi dào nên Mỹ phải xuất khẩu sản phẩm loại hình lao động tập trung. Nói cách khác, sản phẩm mà Mỹ xuất khẩu là sản phẩm loại hình tập trung lao động, sản phẩm nhập khẩu là sản phẩm thuộc loại hình tập lao động không lành nghề của nước khác.
(3). Robert M.Solow (1956), “Đóng góp vào học thuyết về tăng trưởng kinh tế”, nhờ tác phẩm này mà năm 1987 Solow được tặng giải thưởng Nobel kinh tế. Trong đó, nhà kinh tế học người Mỹ này đã đưa vào mô hình tăng trưởng một nhân tố độc lập là “tiến bộ kỹ thuật” và lấy nó làm cơ sở phân biệt hai hiêu ứng của tăng trưởng kinh tế, là “hiệu ứng tăng trưởng” và “hiệu ứng mức độ”. Tác dụng của “hiệu ứng mức độ” là trong điều kiện không tăng thêm yếu tố đầu vào (như vốn, lao động), tiến bộ kỹ thuật thông qua thay đổi hàm số sản xuất, tức là nâng cao vị trí của con đường tăng trưởng (Growth path) để thực hiện lâu dài cân bằng tăng trưởng kinh tế (hay tính bền vững của tăng trưởng). Đồng thời, Solow còn phân tích thực chứng và dự ước đóng góp của nhân tố tiến bộ kỹ thuật đối với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Mỹ là 87,5%; Căn cứ vào đó xác lập quan điểm tiến bộ kỹ thuật quyết định tăng trưởng kinh tế [76].
(4). D.B.Keesing (1966), “Kỹ năng lao động và lợi thế so sánh”. Trong tác phẩm này, Keesing phát triển một bước thuyết lao động lành nghề, nhấn mạnh hơn sự khác biệt của hiệu suất vật lý của lao động. Ông chia lao động theo trình độ thành thạo về kỹ thuật thành 8 loại, quy nạp thành hai nhóm lớn: Lao động thành thạo và lao động không thành thạo. Keesing đã tiến hành phân tích, so sánh đối với 14 nước công nghiệp, phát hiện nước có lao động hành thạo sẵn có tương đối phong phú, xuất khẩu sản phẩm loại hình tập trung lao động thành thạo. Chính sự khác biệt tương đối về lao động thành thạo sẵn có của các nước và sự hạn chế của di dân quốc tế tạo thành bố cục (cấu trúc và phân bổ) của thương mại quốc tế hàng công nghiệp. Keesing đã chỉ ra rằng, sức lao động thành thạo trong một nước công nghiệp là nhân tố sản xuất quan trọng nhất, nhưng thành thạo không phải là có thể đạt được trong thời gian ngắn [7;1326-1327].
(5). “Thuyết tư bản nhân lực” của các nhà kinh tế học người Mỹ là T.W.Schultz, O.S.Becker, R.Ebald.Win và Lucas đưa ra trong thập kỷ 70-80 của thế kỷ XX. Thuyết “tư bản nhân lực” ban đầu được đưa ra nhằm bổ sung và phát triển mô hình tăng tưởng kinh tế dựa trên “thuyết tiến bộ kỹ thuật quyết định tăng trưởng” của Slow. Schultz đã kế thừa, vận dụng khái niệm “Tư bản” của kinh tế học cố điển và thuyết lao động lành nghề của Leontief, chỉ rằng trên mình của người lao động có nhân tố tư bản (vốn), đồng thời chia “tư bản” (vốn) thành hai hình thức: Tư bản thông thường và tư bản nhân lực. Schultz cho rằng, thông qua đầu tư các mặt an ninh xã hội, giáo dục có thể tăng được năng lực kỹ thuật của con người, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, làm cho nguồn nhân lực thông thường trở thành “tư bản nhân lực” (vốn nhân lực). Tư bản nhân lực này có thể sản sinh ra “hiệu ứng tri thức” và “hiệu ứng phi tri thức” để trực tiếp hoặc gián tiếp thúc đẩy tăng trưởng sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, tư bản nhân lực có thể sản sinh ra “thu nhập tăng dần”, xóa bỏ ảnh hưởng của “thu nhập giảm dần” giới hạn của yếu tố tư bản và lao động (thông thường) để đảm bảo tăng trưởng kinh tế lâu dài.
Thuyết tiến bộ kỹ thuật của Slow và thuyết tư bản nhân lực của Schultz được coi là hai mặt “phần cứng” và “phần mềm” trong quá trình sản xuất xã hội, nhấn mạnh tác dụng quan trong của tiến bộ kỹ thuật và tư bản nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế hiện đại.
(6) Lucas (1986) “Mô hình tăng trưởng của tích lũy tư bản nhân lực chuyên môn hóa”. Trong tác phẩm này, nhà kinh tế học người Mỹ Lucas đã bổ sung, phát triển thuyết tư bản nhân lực, đưa ra hai mô hình tăng trưởng.
+ “Mô thức lưỡng tư bản”, trình bày hai loại tư bản ảnh hưởng đối với sản xuất. Trong mô thức này, Lucas chia tư bản thành hai loại “Tư bản hữu hình” và “Tư bản vô hình”; và căn cứ vào trình độ chia sức lao động thành hai loại “lao động nguyên thủy” thể lưu thuần túy và tư bản nhân lực biểu hiện là kỹ năng lao động”. Lucas cho rằng, chỉ có tư bản nhân lực mới có thể thúc đẩy tăng trưởng. Do vậy, có thể công thức hóa tỷ lệ tăng trưởng tư bản nhân lực:
h’(t)/h(t) = h(t), O’ [t = U(t)]/h(t).
Trong đó: h(t): tư bản nhân lực (lấy kỹ năng lao động của người lao động để hiển thị); O’: Tính co dãn sản xuất của tư bản nhân lực; U: Toàn bộ thời gian sản xuất; [t=U(t)]: thời gian học tập, đào tạo ở trường thoát ly sản xuất.
Ý nghĩa của mô thức này là: Phân biệt hai hình thức tư bản và hai loại lao động, từ đó cụ thể hóa tiến bộ kỹ thuật thành tư bản nhân lực thể hiện ở tri thức thông thường và biểu hiện ở đặc thù hóa trong kỹ năng của người lao động; đồng thời cũng chia tư bản nhân lực thông thường mà xã hội có và tư bản nhân lực đặc thù thể hiện ở kỹ năng của người lao động.
+ “Mô thức hai sản phẩm”. Đây là mô thức hình thành “hiệu ứng ngoại sinh” của “tư bản nhân lực”. Lucas cho rằng, hiệu ứng mà tư bản nhân lực sản sinh ra trong mô hình tăng trưởng của Schultz (túc là “Hiệu ứng tri thức” và “hiệu ứng phi tri thức”) chỉ là “hiệu ứng nội sinh” của tư bản nhân lực, còn hiệu ứng “vừa học vừa làm” là “hiệu ứng ngoại sinh” của tư bản nhân lực. Công thức tích lũy tư bản nhân lực ngoại sinh là:
Ci= hi (t) Ui(t) N(t); I = 1,2
Trong đó: Ci: sản xuất thành phẩm I = 1
Ui: Toàn bộ thời gian sản xuất hoặc sản xuất
i: Lương lao động mà hàng hóa sử dụng
hi(t): Tư bản nhân lực chuyên nghiệp hóa mà sản xuất I sản phẩm cần
N (t): Đầu vào lao động tính bằng người
Như thế, “Mô hình tăng trưởng của tính lũy tư bản nhân lực chuyên môn hóa” của Lucas có cống hiến quan trọng đối với lý luận tăng trưởng kinh tế, thương mại quốc tế và lý luận tiền tệ quốc tế. Lucas cho rằng, nước phát triển do trình độ vốn nhân lực cao làm cho tỷ lệ thu nhập vốn tăng dần, do vậy sản sinh ra lãi suất cao và thu hút lượng lớn vốn nước ngoài. Vì vậy, nước đang phát triển muốn thu hút vốn quốc tế phải thực hiện chính sách nâng cao tỷ lệ tích lũy tư bản (vốn) nhân lực, hay nói cách khác là nâng cao CLNNL. Về thương mại quốc tế, do tỷ lệ tăng trưởng vốn nhân lực quyết định tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, do đó một nước phải tập trung phát triển sản xuất sản phẩm với nguồn vốn có hạn nhưng có ưu thế về NNL.
(7) Romo (1989), “Mô hình tăng trưởng của loại hình thu nhập tăng dần”. Trong tác phẩm này, nhà kinh tế người Mỹ Romo đã sử dụng phương pháp mới là toán học hóa và vi mô hóa, kết hợp với những vấn đề mới trong tăng trưởng kinh tế, tiến hành công bố lý thuyết “tăng trưởng mới”. Năm trụ cột của lý thuyết “tăng trưởng mới của Romo là: (i) lấy nhân tố tri thức và tư bản nhập vào mô hình “tăng trưởng kinh tế”. Romo đã cụ thể hóa tiến bộ kỹ thuật thành tri thức chuyên nghiệp hóa