Ở bất kỳ lĩnh vực nào, chế độ nào nhân tố con người hết sức quan trọng,
đóng vai trò quyết định để đạt được mục tiêu. Chủ tịch Cay Sỏn PHÔM VI HAN
cho rằng: “Cán bộ là vốn quý báu nhất của Đảng, là người lãnh đạo nhân dân,
phục vụ nhân dân, tạo ra mối quan hệ giữa đảng với quần chúng” [14, tr.68].
Đảng nhân dân cách mạng Lào (NDCM Lào) luôn luôn nhấn mạnh rằng:
“Cán bộ có vai trò quyết định thành công hay thất bại của việc thực hiện
đường lối của Đảng” [84, tr.5]. Như vậy, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức (CB, CC) có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng nhân dân cách mạng Lào nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước là yêu cầu quan trọng của công cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
(CHDCND Lào) hiện nay. Đội ngũ CB,CC được đặt dưới sự lãnh đạo thống
nhất của Đảng Nhân Dân Cách mạng Lào và chịu sự điều chỉnh thực tiếp của
hệ thống pháp luật công vụ. Chế độ công chức, công vụ mới đang hình thành
và được thể chế hóa thông qua một số văn bản pháp luật do Nhà nước ban
hành trong thời gian gần đây. Nghị định số 82/NĐ-CP, ngày 19/5/2003 về
điều lệ công chức nước CHDCND Lào thay thế Nghị định số 171/NĐ-CP,
ngày 11/11/1993 đã tạo ra khuôn khổ pháp lý và chính sách phát triển đội ngũ
cán bộ, công chức nhà nước. Đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức là một trong nội dung cơ bản của công cuộc cải cách nền hành
chính nhà nước, nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch,
vững mạnh, chuyên nghiệp, đủ năng lực, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả.
Trong đội ngũ CB, CC thì lực lượng CCHC nhà nước đóng vai trò trực tiếp và
quan trọng, tác động đến quá trình đổi mới đất nước. Một nền hành chính hiện
đại luôn đòi hỏi đội ngũ CB, CC nhà nước nói chung và CCHC cấp tỉnh nói
riêng phải có trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức vững vàng, sự
2
tận tụy và khả năng giải quyết công việc nhạy bén. Việc xây dựng đội ngũ
CCHC nhà nước đặc biệt là CCHC cấp tỉnh luôn là yêu cầu cấp thiết đối với
nền hành chính nhà nước ở cấp tỉnh của mọi quốc gia và đặc biệt là nền hành
chính Lào đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền (NNPQ) của
dân, do dân, vì dân ở CHDCND Lào.
Sau hơn 26 năm thực hiện đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất
nước Lào đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Song,
cách mạng đất nước Lào cũng đang đứng trước nguy cơ và thách thức
không thể xem thường. Nhiệm vụ của thể kỳ mới còn rất nặng nề, còn
nhiều khó khăn, thử thách phải vượt qua, đòi hỏi Đảng và nhà nước Lào
phải xây dựng được đội ngũ CB, CC các cấp có đủ tiêu chuẩn ngang tầm
với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ ở
CHDCND Lào hiện nay. CCHC nhà nước nói chung, CCHC cấp tỉnh nói
riêng ở Lào đang lớn mạnh và không ngừng được hoàn thiện cùng với sự phát
triển của đất nước
213 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2174 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ công chức hành chính cấp tỉnh theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở bất kỳ lĩnh vực nào, chế độ nào nhân tố con người hết sức quan trọng,
đóng vai trò quyết định để đạt được mục tiêu. Chủ tịch Cay Sỏn PHÔM VI HAN
cho rằng: “Cán bộ là vốn quý báu nhất của Đảng, là người lãnh đạo nhân dân,
phục vụ nhân dân, tạo ra mối quan hệ giữa đảng với quần chúng” [14, tr.68].
Đảng nhân dân cách mạng Lào (NDCM Lào) luôn luôn nhấn mạnh rằng:
“Cán bộ có vai trò quyết định thành công hay thất bại của việc thực hiện
đường lối của Đảng” [84, tr.5]. Như vậy, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức (CB, CC) có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng nhân dân cách mạng Lào nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước là yêu cầu quan trọng của công cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
(CHDCND Lào) hiện nay. Đội ngũ CB,CC được đặt dưới sự lãnh đạo thống
nhất của Đảng Nhân Dân Cách mạng Lào và chịu sự điều chỉnh thực tiếp của
hệ thống pháp luật công vụ. Chế độ công chức, công vụ mới đang hình thành
và được thể chế hóa thông qua một số văn bản pháp luật do Nhà nước ban
hành trong thời gian gần đây. Nghị định số 82/NĐ-CP, ngày 19/5/2003 về
điều lệ công chức nước CHDCND Lào thay thế Nghị định số 171/NĐ-CP,
ngày 11/11/1993 đã tạo ra khuôn khổ pháp lý và chính sách phát triển đội ngũ
cán bộ, công chức nhà nước. Đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức là một trong nội dung cơ bản của công cuộc cải cách nền hành
chính nhà nước, nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch,
vững mạnh, chuyên nghiệp, đủ năng lực, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả.
Trong đội ngũ CB, CC thì lực lượng CCHC nhà nước đóng vai trò trực tiếp và
quan trọng, tác động đến quá trình đổi mới đất nước. Một nền hành chính hiện
đại luôn đòi hỏi đội ngũ CB, CC nhà nước nói chung và CCHC cấp tỉnh nói
riêng phải có trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức vững vàng, sự
2tận tụy và khả năng giải quyết công việc nhạy bén. Việc xây dựng đội ngũ
CCHC nhà nước đặc biệt là CCHC cấp tỉnh luôn là yêu cầu cấp thiết đối với
nền hành chính nhà nước ở cấp tỉnh của mọi quốc gia và đặc biệt là nền hành
chính Lào đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền (NNPQ) của
dân, do dân, vì dân ở CHDCND Lào.
Sau hơn 26 năm thực hiện đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất
nước Lào đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Song,
cách mạng đất nước Lào cũng đang đứng trước nguy cơ và thách thức
không thể xem thường. Nhiệm vụ của thể kỳ mới còn rất nặng nề, còn
nhiều khó khăn, thử thách phải vượt qua, đòi hỏi Đảng và nhà nước Lào
phải xây dựng được đội ngũ CB, CC các cấp có đủ tiêu chuẩn ngang tầm
với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ ở
CHDCND Lào hiện nay. CCHC nhà nước nói chung, CCHC cấp tỉnh nói
riêng ở Lào đang lớn mạnh và không ngừng được hoàn thiện cùng với sự phát
triển của đất nước.
Xây dựng đội ngũ CB, CC nói chung, công chức hành chính cấp tỉnh
nói riêng là một chủ trương lớn của Đảng Nhân dân Cách mạng (NDCM) Lào
ngay từ khi giành được chính quyền đã góp phần cung cấp thế hệ CC nối tiếp
nhau gánh vác nhiệm vụ trong suốt các chặng đường cách mạng. Trong những
năm đổi mới vừa qua, Đảng NDCM Lào đã tiếp tục quan tâm lãnh đạo công
tác này. Việc quản lý và sử dụng CC ngày càng có hiệu quả, hệ thống chính
sách đãi ngộ đối với CC phù hợp hơn, đặc biệt là từ khi thực hiện Nghị định
số 171/NĐ-CP, ngày 11/11/1993 của chính phủ quy định về điều lệ công chức
nhà nước CC của CHDCND Lào. Nội duy quan trọng của Nghị định này là
quy định về quyền, nhiệm vụ, lợi ích, trách nhiệm, việc tuyển dụng, việc tập
sự việc, quản lý CC v.v… Nghị định số 172/NĐ-CP, ngày 11/11/1993 của
chính phủ quy định về ngạch, bậc của CC, cùng với các quy định khác có liên
quan đang dần được hoàn thiện, nhất là việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ đội
3ngũ CB, CC ngày càng có chất lượng. Tuy nhiên cũng trong những năm vừa
qua, do cơ chế chính sách còn có một số bất cập cùng với một số nguyên nhân
do lịch sử để lại làm cho việc quản lý, sử dụng đội ngũ CCHC chưa đáp ứng
yêu cầu đặt ra, dẫn đến tình trạng thiếu hụt CC thông thạo về hành chính,
pháp luật, CC hoạch định chính sách và CC chuyên môn nghiệp vụ giỏi, nhất
là ở cấp tỉnh. Bên cạnh đó những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế
hiện nay, nhất là trước những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường
(KTTT); sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đã làm cho một bộ
phận CCHC, đảng viên, nhất là những người có chức quyền, suy thoái về đạo
đức cách mạng, coi nhẹ rèn luyện, tu dưỡng bản thân. Đội ngũ CB, CC nói
chung, CB chủ chốt nói riêng chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ
mới. Công tác cán bộ, nhất là đội ngũ CCHC cấp tỉnh còn nhiều bất cập, các
khâu của công tác cán bộ như tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng
CB,CC chưa phối hợp chặt chẽ với nhau. Ở một số nơi chưa tổ chức quán triệt
kỹ và làm đúng theo quy trình, chưa đồng bộ cả về cơ cấu, số lượng và chất
lượng, đồng thời còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập, đội ngũ CCHC vừa thừa,
vừa thiếu, lực lượng thay thế trước mắt và lâu dài luôn bị hẫng hụt, do đó cần
phải tiếp tục được giải quyết.
Để xây dựng NNPQ của dân, do dân, vì dân, cần phải xây dựng đội ngũ
CCHC nhà nước có năng lực, phẩm chất, trung thành với Đảng, nhà nước và
tận tụy phục vụ nhân dân. Việc nghiên cứu, tổng kết, đánh giá đúng thực
trạng, rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm từ đó đề ra phương hướng
và giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào hiện
nay là một yêu cầu rất quan trọng và là một nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa
đột phá để đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào hiện nay.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn, thì việc thực hiện đề tài: "Cơ sở lý luận
và thực tiễn xây dựng đội ngũ công chức hành chính cấp tỉnh theo yêu cầu
xây dựng nhà nước pháp quyền ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào" là yêu
4cầu khách quan, cấp thiết. Tác giả luận án mong muốn đề ra những quan
điểm và giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng đội ngũ công chức hành chính
cấp tỉnh đủ năng lực, phẩm chất, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
quyền lực nhà nước của chính quyền cấp tỉnh, đáp ứng yêu cầu của công
cuộc đổi mới đất nước Lào hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Luận án nhằm đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm xây dựng đội
ngũ CCHC cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào
hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án: Thực hiện mục đích trên, luận án có
các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa, phân tích, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về xây dựng
đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào.
- Nghiên cứu hệ thống tư tưởng, quan điểm và đặc trưng về NNPQ,
xác định những yêu cầu của NNPQ đối với công tác xây dựng đội ngũ
CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào.
- Phân tích quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ CCHC
cấp tỉnh ở CHDCND Lào và đánh giá thực trạng xây dựng và phát triển
đội ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu của NNPQ.
- Đề xuất các quan điểm giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ CCHC
cấp tỉnh theo yêu cầu xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào.
- Phạm vi nghiên cứu: Xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh đáp ứng yêu
cầu xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào có phạm vi rộng, với nhiều vấn đề liên
quan chặt chẽ với nhau. Về thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ CCHC
5cấp tỉnh ở Lào, luận án chỉ đề cập thực trạng đội ngũ CCHC và xây dựng đội
ngũ CCHC cấp tỉnh từ khi giải phóng đất nước tức là từ năm 1975 đến nay và
các giải pháp xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào đến 2020.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Về cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng NDCM Lào và Đảng Cộng sản
Việt Nam về nhà nước pháp quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền, về xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
4.2. Về phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của triết học duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử mác xít nghiên cứu các nội dung của luận án trên quan điểm
hệ thống, toàn diện, khách quan, lịch sử cụ thể gắn với các quan hệ khách
quan - chủ quan, nguyên nhân - kết quả.
Luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân
tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, kết hợp lý luận và thực tiễn
v.v.. để nghiên cứu nội dung của từng chương trong luận án.
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong tất cả các chương
của luận án khi đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu; nghiên cứu cơ sở lý
luận, đánh giá thực trạng và đề xuất các quan điểm, giải pháp xây dựng đội
ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào hiện nay.
Trong chương 3 khi đánh giá thực trạng đội ngũ CCHC cấp tỉnh còn
thực trạng xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ngoài phương pháp phân tích,
tổng hợp tác giả chú ý sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tài
liệu thứ cấp, tham chiếu các tài liệu thống kê, đánh giá của các cơ quan Đảng,
Nhà nước Lào.
Trong chương 4 khi nghiên cứu đề xuất các quan điểm, giải pháp xây
dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
6tác giả chú trọng sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp; lý luận gắn với
thực tiễn nhằm đề xuất được các quan điểm, giải pháp sát với đề tài, phù hợp
với thực tiễn, có tính khả thi và khái quát cao về mặt lý luận.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Nghiên cứu về xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu xây
dựng NNPQ ở CHDCND Lào là một vấn đề rộng lớn, phức tạp, đòi hỏi phải
giải quyết nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn. Trong phạm vi nghiên cứu nhất
định, luận án có những đóng góp mới sau đây:
- Luận án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận dưới góc độ
chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật về xây dựng đội ngũ
CCHC cấp tính theo yêu cầu xây dựng nhà NNPQ của dân, do dân, vì dân.
Từ khái niệm, đặc điểm, vai trò của CCHC cấp tỉnh tác giả xác định
xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh là toàn bộ các hoạt động nhằm hình
thành được đội ngũ CCHC trung thành với Đảng, nhà nước, với nhân dân;
thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ; tận tụy và có trách nhiệm với công vụ
bảo đảm thực thi quyền hành pháp và các nhiệm vụ quản lý nhà nước trên
các lĩnh vực đời sống xã hội ở cấp tỉnh.
Từ khái niệm trên tác giả đã đề xuất 4 nguyên tác và 6 nội dung xây
dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh CHDCND Lào.
Trên cơ sở khái quát những đặc trưng của NNPQ XHCN ở CHDCND
Lào tác giả đã xác định những yêu cầu của NNPQ đối với công tác xây
dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào bao gồm yêu cầu về phẩm
chất chính trị; về đạo đức, lối sống; về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; về
yêu cầu chuyên môn hóa, hiện đại hóa đội ngũ CB, CCHC cấp tỉnh.
- Đánh giá thực trạng đội ngũ CCHC cấp tỉnh và xây dựng đội ngũ
công chức hành chính cấp tỉnh ở CHDCND Lào từ đổi mới đến nay, chỉ ra
những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trên cơ sở những
yêu cầu của NNPQ.
7- Đề xuất các quan điểm, giải pháp phù hợp với thực tiễn, khả thi nhằm,
xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu xây dựng NNPQ ở CHDCND
Lào hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần hoàn thiện lý
luận về xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu của NNPQ ở
CHDCND Lào. Luận án sẽ là tài liệu tham khảo về xây dựng ngũ CCHC cấp
tỉnh theo yêu cầu xây dựng NNPQ cũng như nghiên cứu, giảng dạy về xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, về lý luận Nhà nước và pháp luật trong các
cơ sở đào tạo.
- Về thực tiễn: Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc tổng kết
thực tiễn về xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh, nghiên cứu, sửa đổi về công
tác cán bộ, hoàn thiện các văn bản pháp luật về cán bộ, công chức nói chung,
CCHC cấp tỉnh nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
công trình có liên quan của tác giả đã công bố, nội dung của luận án gồm có 4
chương, 11 tiết.
8Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Các công trình liên quan đến đội ngũ công chức hành chính
Ở nhiều nước đã có những công trình nghiên cứu và phát triển mạnh cả
về lý luận và thực tiễn đối với CC và xây dựng đội ngũ CC, vấn đề mà đề tài
luận án đề cập tới. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
được tiến hành trên nhiều giác độ khác nhau. Ở các nước phát triển, hệ thống
công vụ và đội ngũ CC đã được hình thành từ rất lâu và có tính ổn định cao,
nhất là các văn bản pháp luật liên quan đến đội ngũ CC cũng đã được ban
hành sớm như: Luật nghỉ hưu năm 1859 của Vương quốc Anh, Luật quan
chức quốc gia năm 1873 của Cộng hòa Liên bang Đức, Luật chế độ công
chức năm 1883 của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, Luật chung về CC năm 1946,
1959 của Cộng hòa Pháp, Điều lệ tạm thời về CC Nhà nước năm 1993 của
Trung Quốc… Trong một thế giới chuyển đổi hiện nay, các công trình tập trung
nghiên cứu tính xã hội, sự uyển chuyển của hệ thống công vụ để đảm bảo “công
dân là khách hàng”.
Ở Việt Nam, cũng có nhiều công trình nghiên cứu phong phú với nhiều
tác giả viết liên quan trực tiếp đến chủ đề xây dựng CCHC, xây dựng NNPQ
của dân, do dân, vì dân. Xây dựng đội ngũ CC nói chung, đội ngũ CCHC nói
riêng, đặc biệt là đội ngũ CCHC cấp tỉnh, có chất lượng cao, hiện đại và
chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu NNPQ của dân, do dân, vì dân đang là vấn
đề cấp thiết được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm và cũng đã có nhiều
công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này trên các phương diện khác nhau.
- Cuốn sách, “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức” do TS. Thang Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
9Trong cuốn sách này, các tác giả đã nêu ra những cơ sở lý luận về xây
dựng CB, CC theo yêu cầu xây dựng NNPQ của dân, do dân, vì dân. Phân
tích sâu sắc về khái niệm của CB, CC; nêu ra các văn bản pháp luật về CB,
CC đã được ban hành trong từng các giai đoạn khác nhau từ trước đến nay;
phân loại CB, CC; thể chế quản lý CB, CC; phân tích tính tất yếu khách quan
của việc xây dựng đội ngũ CB, CC đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ xã hội
chủ nghĩa; phân tích vị trí, vai trò của đội ngũ CC trong xây dựng NNPQ
XHCN của dân, do dân, vì dân và sự cần thiết phải xây dựng đội ngũ CB, CC
trong sạch, vững mạnh; những khó khăn, thách thức đối với việc xây dựng đội
ngũ CB, CC. Ngoài ra, trong cuốn sách này các tác giả còn nêu ra thực trạng
đội ngũ CB, CC và thể chế quản lý CB, CC ở Việt Nam hiện nay. Trong phần
thực trạng đã đề cập đến quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ CB,
CC ở Việt Nam qua các giai đoạn như:
- Giai đoạn từ năm 1945 - 1954.
- Giai đoạn từ năm 1954 - 1975.
- Giai đoạn từ năm 1975 - 1986.
- Giai đoạn từ năm 1986 - hiện nay.
Sau khi đánh giá chung những ưu điểm chủ yếu, những hạn chế và
nguyên nhân về thực trạng đội ngũ CB, CC ở Việt Nam hiện nay các tác giả
còn đưa ra những kinh nghiệm xây dựng CC của một số nước trên thế giới để
vận dụng kinh nghiệm các nước vào việc xây dựng đội ngũ CC ở Việt Nam.
- Đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số ĐTĐL-2004/25 do PGS.TS
Nguyễn Trọng Điều làm chủ nhiệm: “Nghiên cứu cơ sở khoa học nhằm hoàn
thiện chế độ công vụ ở Việt Nam”, đã đi sâu nghiên cứu cơ sở khoa học nhằm
hoàn thiện chế độ công vụ, làm cơ sở khoa học để xây dựng luật công vụ ở
Việt Nam hiện nay. Đây là đề tài cấp nhà nước, vấn đề được nghiên cứu ở đây
là rất rộng, dung lượng nghiên cứu với quy mô rất lớn, tuy nhiên nội dung chủ
yếu là nghiên cứu chế độ công vụ nhằm xây dựng luật công vụ. Các nhà
nghiên cứu đã đưa ra những cơ sở khoa học về công vụ và CC, cơ sở của nền
10
công vụ và công vụ trong mối quan hệ với các thiết chế và lĩnh vực khác,
những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và của Đảng về công vụ.
- Đề tài khoa học cấp bộ (Học viện hành chính quốc gia, Hà Nội) “Cải
cách hệ thống tổ chức, hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước, xây dựng và
nâng cao chất lượng đội ngũ CCHC nhà nước” (1990), do Nguyễn Duy Gia
(1990), và “Xây dựng và đổi mới đội ngũ CCHC nhà nước” (1993) do Lương
Trọng Yêm làm chủ nhiệm. Các công trình trên đều đề cập đến cơ sở lý luận
về việc xây dựng, đổi mới và nâng cao chất lượng của đội ngũ công CCHC
nhà nước ở Việt Nam sau khi đổi mới và đánh giá thực trạng đội ngũ CCHC,
những bất cập và đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện, đổi mới
về việc xây dựng đội ngũ CCHC nhà nước ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu đổi
mới đất nước hiện nay.
- PGS, TS Nguyễn Phú Trọng, PGS, TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ
biên) (2003), "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
Cuốn sách này đã luận chứng sâu sắc về vị trí, vai trò và yêu cầu khách
quan cấp bách của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
Mỗi chế độ xã hội muốn đứng vững và phát triển đều phải được xây
dựng nên bởi những con người hết lòng trung thành với chế độ, có trí tuệ và
năng lực. Trong xã hội ngày nay, đó là những CC, những người trực tiếp phục
vụ chế độ của dân, do dân và vì dân. Họ là người đại diện cho nhà nước để
xây dựng và thực thi các chủ trương, chính sách. Họ là nhân tố có tính quyết
định đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Việt Nam giờ đây đang trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, những thay đổi về kinh tế - xã hội đang đặt ra
nhiều vấn đề cần giải quyết. Một mặt, phải huy động mọi tiềm năng để đưa
đất nước trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có nền kinh tế
11
phát triển, đời sống của nhân dân được nâng cao, mặt khác, lại phải luôn tỉnh
táo, cảnh giác để hướng sự phát triển này không đi chệch mục tiêu xã hội chủ
nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa". Cán bộ, công nhân viên chức
là những người gánh trên vai trọng trách nặng nề của đất nước, vì vậy họ phải
thực sự là những "con người xã hội chủ nghĩa".
Ngay từ khi Đảng ta ra đời, vấn đề CB, CC đã được coi là mối quan
tâm hàng đầu và ngày càng được chú ý. Mấy năm gần đây, Đảng và Nhà nước
ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về vấn đề CB, CC nhằm củng cố,
đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng của đội ngũ này. Tuy nhiên, muốn
đưa ra được những chủ trương, chính sách đúng đắn và thực hiện một cách có
hiệu quả, thì cùng với việc tăng cường công tác tổng kết thực tiễn cần nắm
thật vững lý luận, đi sâu vào bản chất của khái niệm, thấy được những nét đặc
thù và vai trò của cán bộ, công chức Việt Nam qua từng giai đoạn cách mạng,
đồng thời nhận rõ những thuận lợi cũng như khó khăn mà giai đoạn phát triển
mới đang đặt ra, cũng như yêu cầu cấp bách về việc nâng cao chất lượng đối
với đội ngũ CB, CC hiện nay…
Cuốn sách này đã góp phần lý giải, hệ thống hóa các căn cứ khoa học
của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo chủ
chốt các cấp, từ đó đưa ra những kiến nghị về phương hướng, giải pháp nhằm
củng cố, phát triển đội ngũ này cả về chất lượng, số lượng và cơ cấu cho phù
hợp với yêu cầu hiện nay.
- PGS,TS Trần Đình Hoan (chủ biên) (2009): "Đánh giá, quy hoạch,
luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cuốn sách đã phân tích và khẳng định dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, gần 80 năm
qua, cách mạng Việt Nam đã liên tiếp giành được những thắng lợi vẻ vang.
12
Từ một nước nô lệ, Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập, là ngọn cờ
tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc. Trong hơn 25 năm qua, công
cuộc đổi mới đã giành được những thành tựu vô cùng quan trọng, tạo điều
kiện, cơ sở vững chắc cho quá trình phát triển đất nước trong những năm tiếp
theo. Có được những thắng lợi đó là nhờ đường lối chính trị đúng đắn, là do
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đ