Giao lưu văn hóa là một quy luật của thời đại, là hiện tượng phổ biến của xã
hội loài người. Không có một nền văn hóa nào, dù lớn và có ảnh hưởng sâu rộng
đến đâu, lại có thể phát triển trong khép kín, biệt lập, tách rời với các nền văn hóa
khác. Trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản”, Mác và Ănghen đã viết: “Những thành
quả hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân
tộc khác. Tính đơn phương và phiến diện dân tộc ngày càng không tồn tại được
nữa, và từ những nền văn học dân tộc và địa phương muôn hình muôn vẻ, đang nảy
nở một nền văn hóa chung toàn thế giới ” [58, tr.602]. Đặc biệt, ngày nay, khi mà
thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại cùng tồn tại hòa bình và tập trung mọi
nguồn lực cho sự tăng trưởng kinh tế bằng những phương tiện hiện đại của cuộc
cách mạng 4.0 thì việc giao lưu văn hóa trên thế giới càng được mở rộng hơn bao
giờ hết. Những trở ngại về không gian và thời gian đối với giao lưu văn hóa ngày
càng bị thu hẹp. Nhờ vậy, các dân tộc và những nền văn hóa khác nhau trên thế giới
càng có điều kiện thường xuyên tiếp xúc với nhau. Do đó, nếu như trước kia giao
lưu văn hóa chỉ mang tính đơn lẻ, bộ phận, nằm trong khuôn khổ tự phát, thẩm thấu
một cách tự nhiên, thì nay nó đã mang một tầm cao mới với tính toàn thể, phát triển
từ qui mô quốc gia đến qui mô khu vực và qui mô toàn cầu. Không một quốc gia
nào có thể phát triển trong sự biệt lập với thế giới bên ngoài, ngược lại, sự tùy thuộc
lẫn nhau ngày càng gia tăng và tác động trực tiếp đến từng quốc gia, từng khu vực
và toàn thế giới. Chính vì vậy, trong mọi hoạt động văn hóa, Ðảng và Nhà nước ta
bao giờ cũng nêu cao định đề biện chứng: kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc
và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng
cũng nhấn mạnh:
“Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa, xây dựng Việt Nam
thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế. Tiếp thu có chọn lọc
tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đồng thời
chủ động nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là
thanh, thiếu niên đối với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại; từng bước
đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới” [25, tr.147].
212 trang |
Chia sẻ: Đào Thiềm | Ngày: 13/01/2024 | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 9
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc từ năm 2008 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHI MINH
HOÀNG THỊ HƯƠNG TRÀ
GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2023
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHI MINH
HOÀNG THỊ HƯƠNG TRÀ
GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 9229040
Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. VŨ THỊ PHƯƠNG HẬU
HÀ NỘI - 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết
quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy
đủ theo quy định. Nghiên cứu sinh xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về những nội
dung trình bày trong luận án.
Tác giả
Hoàng Thị Hương Trà
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
CỦA ĐỀ TÀI 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 9
1.2. Cơ sở lý luận của đề tài 23
Chương 2: KHÁI LƯỢC TÌNH HÌNH GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM -
TRUNG QUỐC TRONG LỊCH SỬ VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM - TRUNG QUỐC TỪ NĂM 2008
ĐẾN NAY 46
2.1. Khái lược tình hình giao lưu văn hoá Việt Nam - Trung Quốc trong
lịch sử 46
2.2. Những yếu tố tác động đến giao lưu văn hoá Việt Nam - Trung Quốc từ
năm 2008 đến nay 61
Chương 3: THỰC TRẠNG GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY 76
3.1. Giao lưu trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo 76
3.2. Giao lưu trên lĩnh vực văn học - nghệ thuật 88
3.3. Giao lưu trên lĩnh vực phát thanh - truyền hình 106
3.4. Giao lưu trên lĩnh vực du lịch 115
Chương 4: XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG
GIAO LƯU VĂN HOÁ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC THỜI GIAN TỚI 128
4.1. Tác động của giao lưu văn hoá Việt Nam - Trung Quốc đối với sự phát
triển của hai quốc gia từ năm 2008 đến nay 128
4.2. Xu hướng vận động và những vấn đề đặt ra trong quan hệ giao lưu văn
hoá hai nước trong thời gian tới 140
4.3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam
trong giao lưu văn hoá Việt Nam - Trung Quốc hiện nay 146
KẾT LUẬN 160
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 164
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 165
PHỤ LỤC 180
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA : Khu vực thương mại tự do ASEAN
APEC : Diễn đàn hợp tác Kinh tế châu Á- Thái Bình Dương
ASEAN : Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
ASEM : Hội nghị các nguyên thủ quốc gia về Hợp tác Á- Âu
Bộ VHTTDL: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CHND : Cộng hòa nhân dân
EU : Liên minh châu Âu
NCS : Nghiên cứu sinh
UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hiệp quốc
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Số lượng khách du lịch Trung Quốc đến Việt Nam giai đoạn
2012 - 2019 122
Bảng 3.2: Top 10 nước đứng đầu về số lượng khách quốc tế đến của
Trung Quốc giai đoạn 2016-2019 123
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ thích đọc tác phẩm văn hóa Trung Quốc 93
Biểu đồ 3.2: Thể loại tác phẩm văn hóa Trung Quốc yêu thích 95
Biểu đồ 3.3: Đọc tác phẩm văn học Trung Quốc qua kênh nào? 95
Biểu đồ 3.4: Lý do thích xem phim Trung Quốc 104
Biểu đồ 3.5: Tham gia các diễn đàn trên mạng xã hội để bàn luận về
những bộ phim Trung Quốc yêu thích 105
Biểu đồ 3.6: Xem phim Trung Quốc ở đâu? 105
Biểu đồ 3.7: Số lượng và tỉ lệ tăng trưởng khách quốc tế của Việt Nam
năm 2019 122
Biểu đồ 3.8: Xu hướng thay đổi số lượng khách du lịch song phương
giữa Việt Nam và Trung Quốc 124
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giao lưu văn hóa là một quy luật của thời đại, là hiện tượng phổ biến của xã
hội loài người. Không có một nền văn hóa nào, dù lớn và có ảnh hưởng sâu rộng
đến đâu, lại có thể phát triển trong khép kín, biệt lập, tách rời với các nền văn hóa
khác. Trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản”, Mác và Ănghen đã viết: “Những thành
quả hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân
tộc khác. Tính đơn phương và phiến diện dân tộc ngày càng không tồn tại được
nữa, và từ những nền văn học dân tộc và địa phương muôn hình muôn vẻ, đang nảy
nở một nền văn hóa chung toàn thế giới” [58, tr.602]. Đặc biệt, ngày nay, khi mà
thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại cùng tồn tại hòa bình và tập trung mọi
nguồn lực cho sự tăng trưởng kinh tế bằng những phương tiện hiện đại của cuộc
cách mạng 4.0 thì việc giao lưu văn hóa trên thế giới càng được mở rộng hơn bao
giờ hết. Những trở ngại về không gian và thời gian đối với giao lưu văn hóa ngày
càng bị thu hẹp. Nhờ vậy, các dân tộc và những nền văn hóa khác nhau trên thế giới
càng có điều kiện thường xuyên tiếp xúc với nhau. Do đó, nếu như trước kia giao
lưu văn hóa chỉ mang tính đơn lẻ, bộ phận, nằm trong khuôn khổ tự phát, thẩm thấu
một cách tự nhiên, thì nay nó đã mang một tầm cao mới với tính toàn thể, phát triển
từ qui mô quốc gia đến qui mô khu vực và qui mô toàn cầu. Không một quốc gia
nào có thể phát triển trong sự biệt lập với thế giới bên ngoài, ngược lại, sự tùy thuộc
lẫn nhau ngày càng gia tăng và tác động trực tiếp đến từng quốc gia, từng khu vực
và toàn thế giới. Chính vì vậy, trong mọi hoạt động văn hóa, Ðảng và Nhà nước ta
bao giờ cũng nêu cao định đề biện chứng: kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc
và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng
cũng nhấn mạnh:
“Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa, xây dựng Việt Nam
thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế. Tiếp thu có chọn lọc
tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đồng thời
chủ động nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là
thanh, thiếu niên đối với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại; từng bước
đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới” [25, tr.147].
2
Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 do Thủ tướng ký quyết định
ban hành ngày 12 tháng 11 năm 2021 đã xác định: “Chủ động hợp tác và quảng bá
các giá trị văn hóa của Việt Nam ra thế giới, phát huy sức mạnh mềm văn hóa, góp
phần quan trọng vào sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để nâng cao vị thế
đất nước trên trường quốc tế, tạo dựng môi trường hoà bình, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, bảo đảm sự phát triển bền vững và hội nhập quốc tế” [103].
Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng gần gũi “núi liền núi,
sông liền sông”, có quan hệ lâu đời. Mặc dù, trong quá khứ và hiện tại, xét dưới góc
độ chính trị, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã trải qua nhiều bước thăng trầm, tuy
nhiên dưới góc độ văn hóa, cả hai đều có sự giao lưu văn hóa liên tục suốt hàng
ngàn năm lịch sử. Quá trình giao lưu văn hóa đã để lại dấu ấn rõ nét trên tất cả các
phương diện kiến trúc, văn học, ngôn ngữ đối với cả hai nước. Đặc biệt, trong
giai đoạn hiện nay, nhất là từ năm 2008, sau khi Việt Nam và Trung Quốc xác định
khuôn khổ hợp tác “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” dưới sự lãnh đạo của hai
Đảng Cộng sản, hoạt động giao lưu văn hóa giữa hai nước đã có những bước tiến
đáng kể, trở thành điển hình trong hoạt động giao lưu văn hóa nói chung của Việt
Nam. Qua đó đã giúp cho văn hóa Việt Nam cũng như Trung Quốc phát triển, tiếp
nhận được những giá trị tiến bộ của văn hóa của nước bạn, làm giàu thêm cho văn
hóa của dân tộc mình, quảng bá được văn hóa của mình.
Tuy nhiên, trong quá trình giao lưu văn hóa nói chung, giao lưu văn
hóa Việt Nam - Trung Quốc nói riêng cũng đặt ra những vấn đề cần phải suy
ngẫm. Đó là sự mất cân bằng trong giao lưu, hợp tác văn hóa, thậm chí là sự
xâm lăng văn hóa, điều này đe dọa đến sự phong phú, khả năng sáng tạo của
các nền văn hóa dân tộc. Do đó, hoạt động giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung
Quốc cần phải được nhìn nhận lại một cách toàn diện hơn cả về phương diện
lý luận và thực tiễn, đặc biệt là cần chú ý tới những giải pháp căn cơ, những
bước đi đúng đắn và phù hợp với thực tế hiện nay cũng như những xu hướng
vận động và phát triển của quan hệ giao lưu hai nước.
Về mặt lý luận, giao lưu văn hóa là vấn đề không mới, đã được rất nhiều nhà
khoa học trong nước và nước ngoài quan tâm với nhiều công trình nghiên cứu có
giá trị, tuy nhiên không phải nội hàm và những nội dung liên quan đến vấn đề này
3
đều đã được giải quyết một cách thấu đáo. Bản chất của giao lưu văn hóa là gì, nó
có gì giống và khác với các khái niệm liên quan như tiếp xúc, trao đổi, tiếp biến văn
hóa? Nội dung, hình thức, vai trò của giao lưu văn hóa với sự vận động và phát
triển của mỗi nền văn hóa khi tham gia giao lưu? Đó là những câu hỏi cần được tiếp
tục lý giải và minh định.
Mặt khác, cho đến nay, đã có khá nhiều công trình đề cập đến hoạt động giao
lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc, tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu về hoạt động giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc từ năm 2008 đến
nay, nhất là việc nghiên cứu vấn đề này như một hệ thống chuyên biệt nhìn dưới
góc độ văn hóa học.
Chính vì vậy, đặt vấn đề nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, đưa ra các
giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động giao lưu văn hóa của Việt Nam và Trung Quốc
là đòi hỏi cấp bách trong tình hình hiện nay. Do đó, việc lựa chọn đề tài: “Giao lưu
văn hóa Việt Nam - Trung Quốc từ năm 2008 đến nay” làm luận án tiến sĩ là
mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án tập trung phân tích thực trạng giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung
Quốc từ năm 2008 đến nay để thấy được tác động của giao lưu văn hóa đối với sự
phát triển của hai quốc gia cũng như những vấn đề hiện đang đặt ra, từ đó khuyến
nghị cách thức để nâng cao sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam trong giao lưu văn
hóa giữa hai nước thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về giao lưu văn hóa Việt Nam -
Trung Quốc;
- Làm rõ những vấn đề lý luận về giao lưu văn hóa (giới thuyết các khái
niệm then chốt liên quan đến đề tài, làm rõ vai trò, nội dung và hình thức của giao
lưu văn hóa);
- Khái quát về lịch sử giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc; Phân tích
những yếu tố tác động đến giao lưu văn hóa văn hóa Việt Nam - Trung Quốc;
4
- Phân tích thực trạng giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc từ năm 2008
đến nay (2020);
- Phân tích vai trò của giao lưu văn hóa đối với sự phát triển của hai nước
Việt Nam - Trung Quốc; Dự báo xu hướng vận động và những vấn đề đặt ra trong
giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc từ năm 2008 đến nay
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc bao
gồm nhiều hình thức, nội dung khác nhau. Trong khuôn khổ của luận án này,
nghiên cứu sinh (NCS) tập trung vào phân tích những hoạt động giao lưu văn hóa
quan phương, do Chính phủ, các bộ và chính quyền địa phương hai bên chủ trì
tiến hành, còn các hình thức giao lưu văn hóa khác chỉ đề cập đến nhằm liên hệ,
bổ sung làm rõ vấn đề. Mặt khác, luận án cũng chỉ lựa chọn 4 nội dung: giao lưu
về giáo dục - đào tạo, giao lưu về văn học - nghệ thuật, giao lưu về phát thanh -
truyền hình và giao lưu về du lịch để khảo sát và làm cơ sở tham chiếu cơ bản cho
việc đưa ra nhận định chung về giao lưu văn hoá Việt Nam - Trung Quốc. Sở dĩ
NCS lựa chọn 4 nội dung/ 4 lĩnh vực này để tập trung khảo sát, nghiên cứu vì đây
là 4 lĩnh vực quan trọng của văn hóa, đây cũng là những lĩnh vực mà quá trình
giao lưu diễn ra mạnh mẽ và đặt ra nhiều vấn đề phải quan tâm giải quyết. Trong
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam Về xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1998) thì 4 lĩnh vực trên
được xác định là những nhiệm vụ quan trọng để xây dựng, phát triển nền văn hóa
Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi thời gian: Luận án nghiên cứu thực trạng giao lưu văn hóa Việt
Nam - Trung Quốc trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến nay (2022), tức là kể từ
khi hai nước thiết lập quan hệ “hợp tác đối tác chiến lược toàn diện”; tuy nhiên, để
cung cấp một cái nhìn toàn diện hơn và có điều kiện so sánh, một số nội dung, số
liệu của luận án mở rộng đến năm 1991, từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ
ngoại giao.
5
- Phạm vi không gian: do các điều kiện chủ quan, khách quan (năng lực của
nghiên cứu sinh, về thời gian, tài liệu, ) quá trình khảo cứu của luận án chủ yếu
diễn ra trên phạm vi Việt Nam và chủ yếu từ chiều ảnh hưởng của giao lưu văn hoá
Trung Quốc sang Việt Nam. Chiều ngược lại, luận án có đề cập đến nhưng ở mức
độ tương đối.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của học thuyết mác xít.
4.2. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
- Cách tiếp cận liên ngành
Văn hoá học là khoa học nằm ở giao điểm của các ngành khoa học xã hội
và khoa học nhân văn. Giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc lại là đối tượng
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như văn hóa học, sử học, xã hội học, ngoại
giao học, chính trị học Chính vì vậy, các thao tác nghiên cứu của luận án được
thực hiện thông qua sự kết hợp linh hoạt các lý thuyết, phương pháp nghiên cứu
cũng như tích hợp tri thức, sử dụng những khái niệm, phạm trù, thành quả
nghiên cứu của các chuyên ngành nói trên từ đó có nhận thức đa chiều, tổng thể
về vấn đề nghiên cứu.
Sử dụng cách tiếp cận liên ngành, đa ngành vào đề tài luận án cũng giúp
cho việc khai thác và xử lý hiệu quả các nguồn tư liệu khác nhau trong vấn đề
nghiên cứu. Cách tiếp cận liên ngành còn cho phép NCS luận giải thấu đáo vai
trò của giao lưu văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - chính trị - xã hội của hai
quốc gia.
- Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu
Phương pháp này được sử dụng để phân tích tài liệu thứ cấp liên quan đến
vấn đề nghiên cứu (các tài liệu lịch sử, văn hóa liên quan đến lịch sử giao lưu văn
hoá hai nước). Phương pháp phân tích tài liệu giúp NCS đánh giá, phân loại tài liệu
trong quá trình nghiên cứu nhằm phân tích, luận giải cơ sở lý luận liên quan đến
6
giao lưu văn hóa, đồng thời làm sáng tỏ thực trạng hoạt động giao lưu văn hóa Việt
Nam - Trung Quốc từ năm 2008 đến nay.
- Phương pháp chuyên gia
Trên cơ sở nội dung của luận án, NCS lựa chọn 10 chuyên gia - những
người am hiểu về lý luận và thực tiễn về giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc
làm việc tại các cơ quan nghiên cứu và các cục, vụ chức năng của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch (Bộ VHTT&DL), Bộ Giáo dục và Đào tạo, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam để trao
đổi, tham khảo những quan điểm, ý kiến đối với vấn đề nghiên cứu. NCS cũng
phỏng vấn ngài tham tán văn hóa Trung Quốc tại Việt Nam. Nội dung phỏng vấn
chủ yếu là quan điểm của các chuyên gia về các vấn đề liên quan đến hoạt động
giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc như: đánh giá về thành công và
hạn chế của hoạt động giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc, đánh giá về vai
trò của giao lưu văn hóa đối với việc thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia
cũng như đối với sự phát triển của từng nước.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: NCS tiến hành phỏng vấn sâu 6 lưu học sinh
người Việt đã từng du học tại Trung Quốc và một số lưu học sinh người Trung
Quốc đang theo học tại các cơ sở đào tạo ở Việt Nam - những chủ thể đã có quá
trình trải nghiệm thực tế giao lưu và thụ hưởng nền giáo dục, văn hóa của hai nước,
từ đó cung cấp những thông tin cần thiết và những đánh giá chân thực, khách quan
cho luận án. Đối với người được phỏng vấn là người Trung Quốc đã từng học tại
Việt Nam, NCS kết nối và phỏng vấn qua email.
- Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi
Như đã trình bày trong phần phạm vi nghiên cứu, luận án tập trung nghiên
cứu thực trạng giao lưu văn hóa quan phương giữa nhà nước Việt Nam - Trung
Quốc thể hiện ở các cấp độ trung ương, địa phương, Tuy nhiên, để nhận diện rõ
hơn tác động của quá trình giao lưu đó đối với xã hội, đặc biệt là sự tác động, ảnh
hưởng của văn hóa Trung Quốc đối với giới trẻ ở Việt Nam, luận án đã xây dựng
một bảng hỏi với các câu hỏi đóng và mở, tập trung tìm hiểu sự quan tâm của các
7
bạn sinh viên đối với điện ảnh và tác phẩm văn chương của Trung Quốc. Trong quá
trình triển khai luận án, do tình hình covid - 19 diễn biến phức tạp, NCS đã tiến
hành điều tra xã hội học bằng hình thức trực tuyến qua google form. Đường link
của phiếu hỏi được gửi tới 210 sinh viên (trong đó 127 là sinh viên nữ, 83 là sinh
viên nam) của trường Đại học Giao thông vận tải, Trường Đại học khoa học xã hội
và nhân văn, trường Đại học Sư phạm, Học viện báo chí và tuyên truyền. Nếu
trường Đại học Giao thông vận tải đại diện cho khối trường kĩ thuật thì 3 trường còn
lại là các trường thuộc khối khoa học xã hội, nhân văn. Kết quả thu về được xử lý
trên hệ thống phần mềm google form. Thời gian điều tra trực tuyến diễn ra vào
tháng 3 năm 2022. Đây là một hình thức điều tra xã hội học trực tuyến được sử
dụng khá phổ biến gần đây, đặc biệt là trong bối cảnh dịch bệnh covid 19. Mặc dù
phiếu hỏi này không bao quát toàn bộ nội dung luận án nhưng nó cung cấp thêm
một cái nhìn thực chứng về giao lưu văn chương nghệ thuật, đặc biệt là ảnh hưởng
của văn chương nghệ thuật Trung Quốc đến giới trẻ Việt Nam hiện nay.
Trong suốt quá trình triển khai luận án, NCS còn sử dụng các phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu để phân tích số liệu, phân tích các hoạt động,
so sánh giữa các mốc thời gian, các lĩnh vực giao lưu văn hóa, từ đó rút ra các nhận
định, các luận điểm khoa học cần thiết.
5. Đóng góp của luận án
- Về phương diện lý luận: Trên cơ sở vận dụng lý thuyết giao lưu - tiếp biến
văn hóa, lý thuyết sức mạnh mềm văn hóa, Luận án góp phần làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận về giao lưu văn hóa như: khái niệm, cơ sở, nội dung, hình thức, vai
trò của giao lưu văn hóa.
- Về phương diện thực tiễn: Thông qua các luận cứ, luận chứng khoa học,
luận án phân tích, nhận diện thực trạng giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Trung
Quốc từ năm 2008 đến nay, chỉ ra những mặt mạnh và những vấn đề cần được tiếp
tục quan tâm; trên cơ sở đó có định hướng phát huy những điểm mạnh, hạn chế
những điểm yếu, thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa hai quốc gia, góp phần vào quá
trình ổn định, phát triển, hòa bình, thịnh vượng của hai nước và của khu vực.
8
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác
giả liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án có kết
cấu làm 4 chương, 11 tiết.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Khái lược tình hình giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc
trong lịch sử và những yếu tố tác động đến giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc
từ năm 2008 đến nay
Chương 3: Thực trạng giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc từ năm
2008 đến nay
Chương 4: Xu hướng vận động và những vấn đề đặt ra trong giao lưu văn
hoá Việt Nam - Trung Quốc thời gian tới
9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
CỦA ĐỀ TÀI
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về giao lưu văn hóa
Những thập kỷ gần đây, các xu hướng lớn của giao lưu, tiếp xúc văn hóa đã
giành được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế, trong đó
có nhiều tài liệu bàn về những vấn đề lý luận, lý thuyết giao lưu văn hóa.
Từ giao lưu văn hóa có lẽ do nhà nhân học Mỹ J. W. Powell, sử dụng từ
năm 1889 khi đề cập đến sự biến đổi của lối sống và lối suy nghĩ của người di dân
khi tiếp xúc với xã hội Mỹ. Tuy nhiên, phải đợi đến những năm 1930 mới có tư
tưởng hệ thống về hiện tượng gặp gỡ giữa các nền văn hóa và có định nghĩa về
mặt khái niệm.
Khái niệm giao lưu - tiếp biến văn