1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong nền kinh tế nhiều thành phần được quản lý theo cơ chế thị trường, các nhà kinh doanh có nhiều mối quan hệ kinh tế, thương mại với nhau. Khi thực hiện các mối quan hệ đó, các nhà kinh doanh thường hợp tác chặt chẽ, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Tuy vậy, vì nhiều lý do chủ quan và khách quan khác nhau, giữa các nhà kinh doanh cũng có khi phát sinh mâu thuẫn về quyền lợi và tranh chấp về kinh tế, thương mại. Nhà nước, xã hội, nhất là các doanh nghiệp luôn luôn có một đòi hỏi bức xúc là những tranh chấp kinh tế này phải được giải quyết một cách nhanh gọn, có hiệu quả và ít tốn kém.
Xuất phát từ thực tiễn đã hình thành nhiều phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại, như: thương lượng, hòa giải, giải quyết theo thủ tục trọng tài, giải quyết theo thủ tục tư pháp. Trong đó, việc giải quyết tranh chấp theo phương thức hòa giải (hòa giải ngoài tố tụng cũng như hòa giải trong tố tụng) có nhiều ưu điểm và được áp dụng phổ biến trên thế giới.
Ở Việt Nam, chế định hòa giải đã được quy định trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh Giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996. Chế định hòa giải trong tố tụng kinh tế ra đời có một ý nghĩa rất quan trọng. Nó đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong lịch sử hình thành và tồn tại của chế định hòa giải trong tố tụng tư pháp nói chung.
Chế định hòa giải có ý nghĩa nhiều mặt, vì nó không những góp phần bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự đang có tranh chấp kinh tế, của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến tranh chấp, mà còn bảo đảm cả lợi ích của Nhà nước và của xã hội.
Hòa giải thành có tác dụng làm cho các bên tranh chấp tự nguyện, tự giác thi hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của họ, tránh việc phải sử dụng những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước trong quá trình thi hành án. Đồng thời, vụ việc tranh chấp cũng không phải xử đi xử lại nhiều lần, giảm bớt tốn kém về nhiều mặt của các bên.
Kết quả của việc tổng kết, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế cho thấy hầu hết các Tòa Kinh tế, từ khi được thành lập đến nay, đã đi vào hoạt động một cách có hiệu quả. Tòa án ở các địa phương đã vận dụng rộng rãi phương thức hòa giải trong giải quyết các tranh chấp kinh tế, giảm đáng kể số vụ tranh chấp phải đưa ra xét xử.
Tuy nhiên, trong quá trình hòa giải tranh chấp kinh tế, Tòa án ở một số địa phương còn mắc phải những sai sót đáng tiếc về nội dung và hình thức hòa giải. Do đó, một số quyết định công nhận hòa giải thành của một số Tòa án đã bị Tòa án hoặc Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị và bị sửa đổi hoặc bị hủy. Điều đó ảnh hưởng xấu đến việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự cũng như làm giảm uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng quát, toàn diện về mặt lý luận cũng như thực tiễn chế định hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại không những mang tính thời sự đối với ngành Tòa án mà còn đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết của đời sống kinh tế - xã hội, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng của Tòa án ở Việt Nam.
Hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền cũng đang soạn thảo Dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) dùng chung cho cả tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hôn nhân và gia đình.
Tuy có nhiều quy định cụ thể và đầy đủ hơn những quy định hiện hành về tố tụng dân sự, kinh tế và lao động. nhưng các quy định của Dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự cũng vẫn còn có những quy định chồng chéo, chưa đầy đủ và chưa cụ thể, cần phải được tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện thêm trước khi trình Quốc hội thông qua.
Tác giả luận án đã nghiên cứu kỹ các quy định của Dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự và trong luận án đã mạnh dạn nêu ra một số đánh giá, nhận xét về bản Dự thảo và đề xuất một số kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện bản Dự thảo Bộ luật tố tụng Dân sự này.
Trên cơ sở những điều vừa trình bày ở trên, nghiên cứu sinh đã chọn vấn đề "Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án ở Việt Nam" để làm đề tài luận án Tiến sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tuy hòa giải là một chế định quan trọng trong thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế tại Tòa án, nhưng từ trước đến nay, khoa học pháp lý ở Việt Nam còn có rất ít các công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Một số công trình nghiên cứu có đề cập chế định hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án là: Giáo trình Luật Kinh tế (2000) của Trường Đại học Luật Hà Nội; Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam (2001) của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; đề tài "Các phương pháp giải quyết tranh chấp kinh tế ở Việt Nam" thuộc Dự án VIE/94/003 của Bộ Tư pháp; Luận văn thạc sĩ của Đào Văn Hội (1996) về đề tài "Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Tòa án"; Luận văn thạc sĩ của Trương Kim Oanh nghiên cứu về hòa giải trong tố tụng dân sự Việt Nam. Bản thân tác giả luận án cũng đã hoàn thành luận văn cao học luật của mình với đề tài "Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế" năm 1997.
Tuy vậy, tất cả những công trình nêu trên chủ yếu tiếp cận chế định hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án từ góc độ luật thực định nên chưa nghiên cứu chế định này một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống. Các công trình đó cũng chưa có những đề xuất, kiến nghị một cách tổng thể, đầy đủ và cụ thể về việc hoàn thiện chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng kinh tế ở Việt Nam.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có sự nghiên cứu chế định hòa giải trong thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế tại Tòa án một cách toàn diện, đầy đủ, có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả của việc hòa giải, tránh để xảy ra những sai lầm, thiếu sót trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại tại Tòa án và làm phong phú thêm lý luận về giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là thông qua việc nghiên cứu, phân tích một cách có hệ thống các quy định về hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này tại Tòa án, làm rõ bản chất của thủ tục hòa giải trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh tế, luận giải những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong giải quyết các tranh chấp kinh tế ở nước ta.
Để đạt được mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng phương thức hòa giải tại Tòa án.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về hòa giải trong thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về hòa giải trong thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế.
- Nhận xét, đánh giá và nêu phương hướng cũng như một số biện pháp cụ thể nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế tại Tòa án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các quy định của pháp luật Việt Nam về hòa giải trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế và việc áp dụng các quy định này tại Tòa án nước ta.
Luận án có đề cập việc hòa giải có hòa giải viên (tức là hòa giải ngoài tố tụng) và hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế theo thủ tục trọng tài, nhưng không đi sâu vào vấn đề này.
Luận án cũng có đề cập việc hòa giải theo thủ tục trọng tài và theo thủ tục tư pháp ở một số nước trên thế giới, nhưng chỉ là để đối chiếu, so sánh khi cần thiết, chứ không đi sâu vào lĩnh vực này.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả luận án sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tác giả luận án cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phân tích, chứng minh, tổng hợp, diễn giải, hệ thống hóa, so sánh, đối chiếu. Chẳng hạn, phương pháp lịch sử đã được tác giả sử dụng để làm rõ quá trình hình thành và phát triển của chế định hòa giải trong pháp luật nước ta; phương pháp mô hình hóa cũng được tác giả luận án sử dụng để trình bày cơ chế giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng thủ tục hòa giải.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Có thể nói, luận án này là công trình khoa học pháp lý ở cấp độ tiến sĩ đầu tiên ở nước ta nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về chế định hòa giải trong thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế tại Tòa án.
Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án là:
- Luận giải những vấn đề lý luận về việc giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng phương thức hòa giải tại Tòa án ở Việt Nam.
- Làm sáng tỏ hình thức, điều kiện, thủ tục hòa giải và hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại Tòa án.
- Góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật nước ta về hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
Luận án này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hòa giải tranh chấp kinh tế tại Tòa án cũng như trong việc giảng dạy, nghiên cứu về chế định hòa giải các tranh chấp kinh tế theo thủ tục tư pháp ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 3 chương, 16 mục.
183 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3900 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong nền kinh tế nhiều thành phần được quản lý theo cơ chế thị trường, các nhà kinh doanh có nhiều mối quan hệ kinh tế, thương mại với nhau. Khi thực hiện các mối quan hệ đó, các nhà kinh doanh thường hợp tác chặt chẽ, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Tuy vậy, vì nhiều lý do chủ quan và khách quan khác nhau, giữa các nhà kinh doanh cũng có khi phát sinh mâu thuẫn về quyền lợi và tranh chấp về kinh tế, thương mại. Nhà nước, xã hội, nhất là các doanh nghiệp luôn luôn có một đòi hỏi bức xúc là những tranh chấp kinh tế này phải được giải quyết một cách nhanh gọn, có hiệu quả và ít tốn kém.
Xuất phát từ thực tiễn đã hình thành nhiều phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại, như: thương lượng, hòa giải, giải quyết theo thủ tục trọng tài, giải quyết theo thủ tục tư pháp. Trong đó, việc giải quyết tranh chấp theo phương thức hòa giải (hòa giải ngoài tố tụng cũng như hòa giải trong tố tụng) có nhiều ưu điểm và được áp dụng phổ biến trên thế giới.
Ở Việt Nam, chế định hòa giải đã được quy định trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh Giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996. Chế định hòa giải trong tố tụng kinh tế ra đời có một ý nghĩa rất quan trọng. Nó đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong lịch sử hình thành và tồn tại của chế định hòa giải trong tố tụng tư pháp nói chung.
Chế định hòa giải có ý nghĩa nhiều mặt, vì nó không những góp phần bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự đang có tranh chấp kinh tế, của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến tranh chấp, mà còn bảo đảm cả lợi ích của Nhà nước và của xã hội.
Hòa giải thành có tác dụng làm cho các bên tranh chấp tự nguyện, tự giác thi hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của họ, tránh việc phải sử dụng những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước trong quá trình thi hành án. Đồng thời, vụ việc tranh chấp cũng không phải xử đi xử lại nhiều lần, giảm bớt tốn kém về nhiều mặt của các bên.
Kết quả của việc tổng kết, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế cho thấy hầu hết các Tòa Kinh tế, từ khi được thành lập đến nay, đã đi vào hoạt động một cách có hiệu quả. Tòa án ở các địa phương đã vận dụng rộng rãi phương thức hòa giải trong giải quyết các tranh chấp kinh tế, giảm đáng kể số vụ tranh chấp phải đưa ra xét xử.
Tuy nhiên, trong quá trình hòa giải tranh chấp kinh tế, Tòa án ở một số địa phương còn mắc phải những sai sót đáng tiếc về nội dung và hình thức hòa giải. Do đó, một số quyết định công nhận hòa giải thành của một số Tòa án đã bị Tòa án hoặc Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị và bị sửa đổi hoặc bị hủy. Điều đó ảnh hưởng xấu đến việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự cũng như làm giảm uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng quát, toàn diện về mặt lý luận cũng như thực tiễn chế định hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại không những mang tính thời sự đối với ngành Tòa án mà còn đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết của đời sống kinh tế - xã hội, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng của Tòa án ở Việt Nam.
Hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền cũng đang soạn thảo Dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) dùng chung cho cả tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hôn nhân và gia đình.
Tuy có nhiều quy định cụ thể và đầy đủ hơn những quy định hiện hành về tố tụng dân sự, kinh tế và lao động... nhưng các quy định của Dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự cũng vẫn còn có những quy định chồng chéo, chưa đầy đủ và chưa cụ thể, cần phải được tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện thêm trước khi trình Quốc hội thông qua.
Tác giả luận án đã nghiên cứu kỹ các quy định của Dự thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự và trong luận án đã mạnh dạn nêu ra một số đánh giá, nhận xét về bản Dự thảo và đề xuất một số kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện bản Dự thảo Bộ luật tố tụng Dân sự này.
Trên cơ sở những điều vừa trình bày ở trên, nghiên cứu sinh đã chọn vấn đề "Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án ở Việt Nam" để làm đề tài luận án Tiến sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tuy hòa giải là một chế định quan trọng trong thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế tại Tòa án, nhưng từ trước đến nay, khoa học pháp lý ở Việt Nam còn có rất ít các công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Một số công trình nghiên cứu có đề cập chế định hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án là: Giáo trình Luật Kinh tế (2000) của Trường Đại học Luật Hà Nội; Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam (2001) của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; đề tài "Các phương pháp giải quyết tranh chấp kinh tế ở Việt Nam" thuộc Dự án VIE/94/003 của Bộ Tư pháp; Luận văn thạc sĩ của Đào Văn Hội (1996) về đề tài "Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Tòa án"; Luận văn thạc sĩ của Trương Kim Oanh nghiên cứu về hòa giải trong tố tụng dân sự Việt Nam. Bản thân tác giả luận án cũng đã hoàn thành luận văn cao học luật của mình với đề tài "Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế" năm 1997.
Tuy vậy, tất cả những công trình nêu trên chủ yếu tiếp cận chế định hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án từ góc độ luật thực định nên chưa nghiên cứu chế định này một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống. Các công trình đó cũng chưa có những đề xuất, kiến nghị một cách tổng thể, đầy đủ và cụ thể về việc hoàn thiện chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng kinh tế ở Việt Nam.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có sự nghiên cứu chế định hòa giải trong thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế tại Tòa án một cách toàn diện, đầy đủ, có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả của việc hòa giải, tránh để xảy ra những sai lầm, thiếu sót trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại tại Tòa án và làm phong phú thêm lý luận về giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là thông qua việc nghiên cứu, phân tích một cách có hệ thống các quy định về hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này tại Tòa án, làm rõ bản chất của thủ tục hòa giải trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh tế, luận giải những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong giải quyết các tranh chấp kinh tế ở nước ta.
Để đạt được mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng phương thức hòa giải tại Tòa án.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về hòa giải trong thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về hòa giải trong thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế.
- Nhận xét, đánh giá và nêu phương hướng cũng như một số biện pháp cụ thể nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế tại Tòa án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các quy định của pháp luật Việt Nam về hòa giải trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế và việc áp dụng các quy định này tại Tòa án nước ta.
Luận án có đề cập việc hòa giải có hòa giải viên (tức là hòa giải ngoài tố tụng) và hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế theo thủ tục trọng tài, nhưng không đi sâu vào vấn đề này.
Luận án cũng có đề cập việc hòa giải theo thủ tục trọng tài và theo thủ tục tư pháp ở một số nước trên thế giới, nhưng chỉ là để đối chiếu, so sánh khi cần thiết, chứ không đi sâu vào lĩnh vực này.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả luận án sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tác giả luận án cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phân tích, chứng minh, tổng hợp, diễn giải, hệ thống hóa, so sánh, đối chiếu. Chẳng hạn, phương pháp lịch sử đã được tác giả sử dụng để làm rõ quá trình hình thành và phát triển của chế định hòa giải trong pháp luật nước ta; phương pháp mô hình hóa cũng được tác giả luận án sử dụng để trình bày cơ chế giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng thủ tục hòa giải.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Có thể nói, luận án này là công trình khoa học pháp lý ở cấp độ tiến sĩ đầu tiên ở nước ta nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về chế định hòa giải trong thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế tại Tòa án.
Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án là:
- Luận giải những vấn đề lý luận về việc giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng phương thức hòa giải tại Tòa án ở Việt Nam.
- Làm sáng tỏ hình thức, điều kiện, thủ tục hòa giải và hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại Tòa án.
- Góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật nước ta về hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
Luận án này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hòa giải tranh chấp kinh tế tại Tòa án cũng như trong việc giảng dạy, nghiên cứu về chế định hòa giải các tranh chấp kinh tế theo thủ tục tư pháp ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 3 chương, 16 mục.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ TẠI TÒA ÁN Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ
Khái niệm "Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án" là một khái niệm phức hợp, đa tầng. Bản thân khái niệm bao gồm trong mình nhiều yếu tố cấu thành, mà mỗi yếu tố đó tự mình đã là một thuật ngữ độc lập có bản chất pháp lý riêng biệt và khi tích hợp chúng vào trong một khái niệm thì mối liên kết giữa các yếu tố (thuật ngữ cấu thành đó) lại tạo nên một bản chất pháp lý mới của hiện tượng. Trong các từ điển pháp luật, từ điển kinh tế cũng như trong sách báo khoa học pháp lý, bao gồm cả các giáo trình luật chuyên ngành, theo tác giả luận án, cho đến nay đều chưa có sự giải thích chính thức, đầy đủ, thỏa đáng về khái niệm này.
Để đi đến sự nhận diện đầy đủ về khái niệm "Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án", trước tiên cần làm rõ nội hàm của từng yếu tố cấu thành. Đó là: Tranh chấp kinh tế, giải quyết tranh chấp kinh tế, hòa giải tranh chấp kinh tế, giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án và cuối cùng là sự tích hợp thành một khái niệm chung "hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án".
1.1.1. Khái niệm tranh chấp kinh tế
Tranh chấp, theo Từ điển Tiếng Việt (1992), là sự tranh đấu, giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên. Dưới góc độ pháp lý, tranh chấp được hiểu là những xung đột, bất đồng về quyền, quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. Căn cứ vào tính chất của các quan hệ pháp luật, có thể phân loại tranh chấp thành tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế, tranh chấp lao động...
Tranh chấp kinh tế là một khái niệm kinh tế - pháp lý. Hiểu một cách khái quát, đó là những bất đồng về quyền, quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, với sự cạnh tranh của các chủ thể thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau, thì các xung đột về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể là điều khó tránh khỏi. Phụ thuộc vào các đặc trưng của từng chủ thể kinh tế ở từng giai đoạn phát triển mà nội hàm, phạm vi của khái niệm tranh chấp kinh tế cũng rất khác nhau.
Hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều không sử dụng khái niệm "tranh chấp kinh tế" mà thường dùng khái niệm "tranh chấp kinh doanh" để chỉ những tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể trong quan hệ kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. Tại các nước này, đặc biệt là các nước theo truyền thống thông luật, không có sự phân biệt "tranh chấp kinh doanh" với "tranh chấp dân sự". Nhưng ở một số nước theo truyền thống luật Châu Âu lục địa có Bộ luật thương mại riêng (như Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Pháp) thì có sự phân biệt "tranh chấp thương mại" (theo nghĩa là tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa các thương gia) và "tranh chấp dân sự".
Tuy nhiên, cần lưu ý một điểm nhỏ để tránh sự lẫn lộn trong khi dùng các thuật ngữ: Ở phần lớn các nước này, "tranh chấp kinh doanh" được hiểu và sử dụng phù hợp với khái niệm "thương mại" theo nghĩa rộng do Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) hay Luật mẫu UNCITRAL về Trọng tài Thương mại đưa ra. "Thương mại" theo nghĩa này bao gồm tất cả các quan hệ giao dịch mang bản chất thương mại, như: cung cấp hàng hóa, dịch vụ, thỏa thuận về đại diện thương mại, hóa đơn, chứng từ, các dịch vụ tư vấn, đề án thiết kế, giấy phép đầu tư, giao dịch ngân hàng, bảo hiểm; vận chuyển hàng hóa hay hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt hay đường bộ...
Nhiều nước xã hội chủ nghĩa (trước đây), trong đó có Việt Nam, theo trường phái Liên Xô (cũ) coi luật kinh tế là một ngành luật độc lập, có đối tượng điều chỉnh riêng. Một trong những chế định của ngành luật này là hợp đồng kinh tế.
Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bản thân khái niệm "hợp đồng kinh tế" được hiểu theo nghĩa khá hẹp và cứng nhắc. Đó là những hợp đồng được ký kết theo chỉ tiêu pháp lệnh do Nhà nước giao cho các chủ thể kinh tế (chủ yếu là các xí nghiệp quốc doanh) và được thực hiện dưới sự giám sát, kiểm tra chặt chẽ, định kỳ của Nhà nước.
"Tranh chấp hợp đồng kinh tế" là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng kinh tế. Việc giải quyết tranh chấp kinh tế được thực hiện bởi Trọng tài kinh tế nhà nước - một mô hình cơ quan hành chính - tài phán nhà nước khá điển hình ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây.
"Tranh chấp hợp đồng kinh tế" lẽ tất nhiên chỉ là một bộ phận của khái niệm rộng hơn là tranh chấp kinh tế. Theo lôgic hình thức, thì "tranh chấp kinh tế" phải được hiểu là tất cả các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ xã hội do pháp luật kinh tế điều chỉnh. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, bản thân quan niệm về luật kinh tế và đối tượng điều chỉnh của nó là các quan hệ pháp luật kinh tế đang đứng trước những thách thức lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Bên cạnh những quan hệ hợp đồng rất đa dạng đã xuất hiện ngày càng nhiều mối quan hệ tài sản khác giữa các chủ thể thuộc nhiều thành phần kinh tế liên quan đến việc đầu tư vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các quan hệ này được xây dựng không phải theo mệnh lệnh, chỉ tiêu của Nhà nước, mà theo các quy luật khách quan của thị trường, trên cơ sở quyền tự do kinh doanh, bình đẳng và cộng đồng lợi ích, cộng đồng trách nhiệm của các chủ thể.
Trước những thay đổi sâu sắc đó, cho đến nay, khó có thể tìm được trong luật thực định cũng như trong các tài liệu, sách báo khoa học pháp lý của Việt Nam một định nghĩa, một sự lý giải nào thỏa đáng, đầy đủ, rõ ràng về pháp luật kinh tế và từ đó là về "tranh chấp kinh tế".
Để khắc phục khoảng trống lý luận này, một số nhà nghiên cứu đã tiếp cận tới khái niệm "tranh chấp kinh tế" bằng luật thực định, hoặc là luật nội dung hoặc là luật tố tụng [3, tr. 5].
Phù hợp với mục đích và phạm vi đề tài luận án, tác giả luận án lựa chọn cách xem xét khái niệm "tranh chấp kinh tế" từ góc độ pháp luật tố tụng thực định của Việt Nam, bao gồm cả tố tụng tư pháp kinh tế và tố tụng trọng tài kinh tế. Bằng phương pháp liệt kê, theo Điều 12 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (1994) có thể thấy các tranh chấp (vụ án) kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa Kinh tế bao gồm:
1- Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh;
2- Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty;
3- Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu;
4- Các tranh chấp khác theo quy định của pháp luật.
Cũng tương tự như vậy, các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài Kinh tế theo Nghị định 116/CP (1994) bao gồm:
1) Các tranh chấp hợp đồng kinh tế;
2) Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu (Pháp lệnh Trọng tài Thương mại ngày 25/02/2003 quy định Trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết mọi tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại theo sự thỏa thuận của các bên (Điều 1). Hoạt động thương mại theo Pháp lệnh này là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện. đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật (khoản 3 Điều 2)).
Riêng phạm vi các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam được mở rộng hơn rất nhiều. Theo Quyết định số 204/TTg ngày 16-2-1996, các tranh chấp đó bao gồm:
1- Các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh tế quốc tế được liệt kê trong Điều lệ và Quy tắc tố tụng của Trung tâm (hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng đầu tư, du lịch, vận tải và bảo hiểm quốc tế, chuyển giao công nghệ và thanh toán quốc tế...) với ít nhất một bên là pháp nhân hoặc cá nhân nước ngoài;
2- Các tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh doanh trong nước, mà kinh doanh, nếu được hiểu theo nghĩa rộng như trong Luật Công ty (Điều 3) bao gồm "một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi".
Đồng thời, từ khi Luật Thương mại có hiệu lực (1-1-1998) thì trong luật thực định của Việt Nam còn có thêm khái niệm "tranh chấp thương mại". Đó là các tranh chấp phát sinh trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng thương mại. Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu [15, tr. 5] thì hợp đồng thương mại là một bộ phận của hợp đồng kinh tế, nếu đáp ứng các điều kiện về chủ thể, mục đích và hình thức hợp đồng. Trong các trường hợp đó, "tranh chấp thương mại" cũng sẽ là một dạng của "tranh chấp kinh tế".
Mặc dù cách tiếp cận theo pháp luật tố tụng chưa bao quát được hết tất cả các loại "tranh chấp kinh tế" phát sinh trong thực tiễn hoạt động kinh tế, nhưng từ những liệt kê trên, có thể rút ra một số nét đặc trưng của "tranh chấp kinh tế" như sau:
1- Chủ thể của tranh chấp kinh tế (cũng là chủ thể của các hoạt động kinh tế) là những tổ chức, cá nhân được Nhà nước công nhận có quyền và có đủ điều kiện kinh doanh tại Việt Nam. Các chủ thể này có các quyền và nghĩa vụ cụ thể trong khi họ tiến hành các hoạt động kinh doanh, trong đó, quyền nổi trội, đặc thù phù hợp với nhu cầu của kinh tế thị trường là quyền bình đẳng và quyền tự định đoạt: tự định đoạt phương án, hình thức, quy mô và cách thức kinh doanh cũng như phương thức giải quyết các tranh chấp phát sinh sao cho không trái với quy định của pháp luật để đạt được các mục đích kinh doanh (lợi nhuận và phi lợi nhuận).
2- Khách thể của tranh chấp kinh tế là các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ kinh doanh. Đối tượng của "tranh chấp kinh tế" thường là những lợi ích kinh tế mà trực tiếp hơn là những yếu tố tài sản có giá trị lớn. Những xung đột lợi ích kinh tế, những thua thiệt hay khả năng thua thiệt với giá trị lớn, thậm chí là rất lớn ảnh hưởng đến sự sống còn trên thị trường của các chủ thể và kéo theo đó là lợi ích của nhiều đối tượng liên quan, đòi hỏi bản thân họ phải cân nhắc kỹ những được,