1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đối ngoại là một hoạt động không thể thiếu với bất kỳ quốc gia nào, trong
bất kỳ thời điểm nào. Bởi vậy, với tư cách là chính đảng lãnh đạo cách mạng giải
phóng dân tộc, ĐCSVN luôn phải đưa ra những đường lối đối ngoại cũng như tiến
hành hoạt động đối ngoại trong bối cảnh các mối quan hệ quốc tế đan xen, phức
tạp. Đặc biệt, đã có những thời điểm Đảng phải đối mặt với không chỉ một mà
nhiều đối tác, cũng như nhiều kẻ đối địch. Những lúc đó, một yêu cầu tất yếu đặt
ra cho Đảng là phải tìm được đường lối thích hợp và ứng biến linh hoạt nhằm tận
dụng mọi thời cơ, tranh thủ mọi lực lượng trên thế giới. Thời kỳ ĐCSĐD lãnh đạo
đất nước đi đến độc lập tự do 1930-1945 chính là thời kỳ mà yêu cầu đó càng bức
thiết để một chính đảng non trẻ có thể tranh thủ được mọi yếu tố có lợi cho cách
mạng Việt Nam, dẫn dắt nhân dân tiến hành thành công Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, mở ra thời kỳ mới cho dân tộc
201 trang |
Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 1800 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hoạt động đối ngoại của đảng từ năm 1930 đến năm 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG
TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG
TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 15
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. NGUYỄN MẠNH HÀ
2. TS. TRẦN THỊ NHẪN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi trên cơ sở sưu tầm, đọc và phân tích các tài liệu. Tất cả các
tài liệu tham khảo, các tư liệu, số liệu sử dụng trong Luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Thị Huyền Trang
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1
7
1.1. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài 7
1.2. Đánh giá kết quả của các công trình nghiên cứu 22
1.3. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết 23
Chương 2: ĐẢNG RA ĐỜI VÀ TRIỂN KHAI HOẠT ĐỘNG ĐỐI
NGOẠI TỪ NĂM 1930 ĐẾN THÁNG 8 NĂM 1939
25
2.1. Sự ra đời và hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến
năm 1935
25
2.2. Hoạt động nâng cao vị thế của Đảng, đoàn kết với các Đảng
Cộng sản, đấu tranh vì hòa bình dân chủ từ năm 1936 đến tháng
8 năm 1939
54
Chương 3: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TRONG
CAO TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TỪ THÁNG 9 NĂM 1939
ĐẾN THÁNG 8 NĂM 1945
71
3.1. Hoàn cảnh quốc tế và trong nước 71
3.2. Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và hoạt động đối ngoại
của Đảng từ tháng 9 năm 1939 đến tháng 8 năm 1945
77
Chương 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 121
4.1. Nhận xét chung 121
4.2. Một số kinh nghiệm 134
KẾT LUẬN 145
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 150
PHỤ LỤC 167
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BCH : Ban Chỉ huy
ĐCS : Đảng Cộng sản
ĐCSĐD : Đảng Cộng sản Đông Dương
ĐCSVN : Đảng Cộng sản Việt Nam
Nxb : Nhà xuất bản
QTCS : Quốc tế Cộng sản
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đối ngoại là một hoạt động không thể thiếu với bất kỳ quốc gia nào, trong
bất kỳ thời điểm nào. Bởi vậy, với tư cách là chính đảng lãnh đạo cách mạng giải
phóng dân tộc, ĐCSVN luôn phải đưa ra những đường lối đối ngoại cũng như tiến
hành hoạt động đối ngoại trong bối cảnh các mối quan hệ quốc tế đan xen, phức
tạp. Đặc biệt, đã có những thời điểm Đảng phải đối mặt với không chỉ một mà
nhiều đối tác, cũng như nhiều kẻ đối địch. Những lúc đó, một yêu cầu tất yếu đặt
ra cho Đảng là phải tìm được đường lối thích hợp và ứng biến linh hoạt nhằm tận
dụng mọi thời cơ, tranh thủ mọi lực lượng trên thế giới. Thời kỳ ĐCSĐD lãnh đạo
đất nước đi đến độc lập tự do 1930-1945 chính là thời kỳ mà yêu cầu đó càng bức
thiết để một chính đảng non trẻ có thể tranh thủ được mọi yếu tố có lợi cho cách
mạng Việt Nam, dẫn dắt nhân dân tiến hành thành công Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, mở ra thời kỳ mới cho dân tộc.
Từ đầu năm 1930, ĐCSVN ra đời, nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Với tổ chức chặt chẽ và Cương lĩnh Chính trị đúng đắn, Đảng đã quy tụ lực
lượng và sức mạnh toàn dân tộc bước vào một thời kỳ đấu tranh mới. Tháng 10-
1930, ĐCSVN đổi tên thành ĐCSĐD, tiếp tục lãnh đạo toàn dân thực hiện nhiệm
vụ cao cả: đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, thống trị của chủ nghĩa
thực dân, đem lại quyền lợi cho quần chúng cần lao. Thời kỳ này, Đảng đã
xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: lúc đầu là cuộc
cách mạng tư sản dân quyền, sau đó tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ
nghĩa, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, xác định những nhiệm vụ cụ
thể của cách mạng bao hàm hai nội dung: đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành
độc lập dân tộc và thực hiện người cày có ruộng có quan hệ khăng khít với nhau;
xác định hình thức, phương pháp đấu tranh và mối quan hệ giữa cách mạng Việt
Nam và cách mạng thế giới. Thời kỳ này, trong hoạt động đối ngoại, Đảng hướng
tới việc xây dựng, mở rộng quan hệ với QTCS và các ĐCS anh em, các lực lượng
2
tiến bộ trên thế giới để nâng cao vị thế của Đảng, xây dựng lực lượng, ổn định tổ
chức, lãnh đạo các phong trào cách mạng.
Đến thời kỳ 1936-1939, Đảng xác định nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt là
đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh,
đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình, kẻ thù trước mắt là thực dân
phản động Pháp và tay sai. Đảng hướng tới việc mở rộng quan hệ của Đảng sau
khi đã chính thức trở thành một phân bộ độc lập của QTCS. Việc đưa phong trào
đấu tranh dân chủ trở nên công khai, sát hợp với tình hình thế giới và trong nước
đã khiến cho mối quan hệ của ĐCSĐD với các ĐCS anh em có sự gắn kết hơn.
Thời kỳ 1939-1945, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm thay đổi cơ
bản tình hình thế giới. Tháng 9-1940, phát xít Nhật vào Đông Dương. ĐCSĐD
đã tiến hành hàng loạt các hành động cụ thể để lãnh đạo cách mạng Việt Nam
như tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương ĐCSĐD tháng 11-1939, đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; Thành lập Mặt trận thống nhất dân
tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương, nhằm tập
hợp mọi lực lượng dân tộc chống đế quốc; Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (tháng 5-1941) đề ra chủ trương, đặt nhiệm vụ giải phóng dân
tộc lên hàng đầu và nhấn mạnh đây là nhiệm vụ “bức thiết nhất”. Để thực hiện
chủ trương đó, Đảng đã lãnh đạo toàn dân, chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt, trong đó
có thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) để đoàn kết dân tộc Việt
Nam, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng. Chính
nhờ sự chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, toàn dân tộc Việt Nam đã tiến
hành thành công cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, đánh dấu một
mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc.
Để đi đến thắng lợi to lớn đó, hoạt động đối ngoại dưới sự lãnh đạo của
Đảng đóng một vai trò quan trọng. Những chủ trương, đường lối đối ngoại, các
đối sách của ĐCSĐD trong quan hệ đối ngoại thời kỳ này cho thấy sự tài tình,
nhạy bén của Đảng đối với mỗi một đối tượng riêng. Hoạt động đối ngoại của
Đảng từ năm 1930 đến năm 1945 hướng đến các nhóm đối tượng có tác động
3
trực tiếp và gián tiếp đến sự vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam:
QTCS và các ĐCS; các nước Đồng minh
Như chúng ta đã biết, những hoạt động đối ngoại của Đảng trong thời kỳ
1930-1945 được tiến hành trong bối cảnh Đảng chưa phải đảng cầm quyền. Điều
này gây trở ngại lớn trong việc tạo dựng mối quan hệ với các nước khác bởi
Đảng chưa thể chính thức đại diện cho quốc gia mà chỉ có tư cách là một đảng
phái chính trị (thậm chí là một đảng chính trị không được hoan nghênh ở các
nước tư bản). Để vượt qua trở ngại này, Đảng đã linh hoạt sử dụng nhiều danh
nghĩa khác nhau khi đặt mối quan hệ với các đối tượng: khi liên hệ với các tổ
chức cộng sản thì dùng chính danh ĐCSĐD, còn khi giao thiệp với các nước tư
bản trong khối Đồng minh thì dưới danh nghĩa tổ chức mặt trận chống phát xít.
Xét đến hoàn cảnh khó khăn mà Đảng phải đương đầu, những thành công trong
hoạt động đối ngoại mà Đảng đạt được thời kỳ này càng có ý nghĩa to lớn.
Từ việc phân tích các chủ trương, chính sách đúng đắn, cách ứng xử phù
hợp của Đảng trong hoạt động đối ngoại từ năm 1930 đến năm 1945, để đạt
được mục tiêu giải phóng dân tộc, có thể hiểu rõ hơn hoạt động đối ngoại phong
phú để vượt qua khó khăn thử thách của Đảng trong thời kỳ lịch sử đầy biến
động và quan trọng nhưng còn ít được nghiên cứu, tìm hiểu này. Qua đó, có thể
thấy được bức tranh toàn cảnh của các mối liên hệ giữa cách mạng Việt Nam với
quốc tế trong giai đoạn 1930-1945, rút ra những kinh nghiệm cần thiết về đối
ngoại trong xu thế hội nhập toàn cầu của Việt Nam ngày nay.
Chính vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Hoạt động đối ngoại của
Đảng từ năm 1930 đến năm 1945”với mong muốn tập trung làm rõ sự thành
công của Đảng trong quá trình lãnh đạo hoạt động đối ngoại, tạo điều kiện cho
cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ và đi đến thắng lợi đúng với mong
muốn của toàn thể nhân dân. Đây là nhu cầu khách quan, cần thiết trong nghiên
cứu về lịch sử ĐCSVN, đồng thời làm rõ thêm những nội dung lịch sử đã diễn ra
trong giai đoạn này.
4
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu, làm rõ quá trình nhận thức và đường lối của ĐCSĐD về công
tác đối ngoại cũng như những tình huống đối ngoại tiêu biểu của Đảng từ 1930
đến 1945, trên cơ sở đó, luận án góp phần làm sáng tỏ hoạt động đối ngoại của
Đảng, rút ra những ưu điểm, hạn chế và kinh nghiệm về đối ngoại của Đảng từ
1930 đến 1945.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể:
Một là, phân tích, đánh giá bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam trong
thời kỳ 1930-1945.
Hai là, làm rõ những chủ trương, đường lối của ĐCSĐD về công tác đối
ngoại và hoạt động đối ngoại của Đảng từ 1930 đến tháng 8-1945.
Ba là, đưa ra một số nhận xét về quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo công tác
đối ngoại, đánh giá những thành tựu, hạn chế, đúc rút một số kinh nghiệm trong
quá trình Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại từ năm 1930 đến năm 1945.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động đối ngoại của Đảng từ
1930 đến 1945, bao gồm các hoạt động đối ngoại của Đảng trong các tình huống
đối ngoại cụ thể và cả nội dung các chủ trương đối ngoại quan trọng của Đảng.
Sở dĩ lựa chọn đối tượng nghiên cứu như vậy là do luận án đi sâu nghiên cứu
hoạt động đối ngoại, nhưng nhiều hoạt động đã tự thân toát lên tư tưởng chỉ đạo
của Đảng, nên luận án không hoàn toàn khu biệt hoạt động đối ngoại với đường
lối đối ngoại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Nghiên cứu hoạt động đối ngoại của Đảng với các đối
tượng: QTCS, một số ĐCS như Liên Xô, Trung Quốc, Pháp, một số ĐCS ở khu
5
vực Đông Nam Á và các lực lượng Đồng minh (Anh, Mỹ, Trung Hoa Dân quốc)
dưới danh nghĩa của ĐCSĐD hoặc dưới danh nghĩa các tổ chức khác. Đặc biệt,
Nguyễn Ái Quốc với vai trò một nhà hoạt động cách mạng Việt Nam, người
sáng lập ĐCSVN, là người có ảnh hưởng lớn đến ĐCSĐD và cách mạng Việt
Nam. Vì vậy, luận án cũng xem Nguyễn Ái Quốc như một chủ thể của hoạt động
đối ngoại của Đảng để nghiên cứu.
Phạm vi không gian: Luận án chủ yếu nghiên cứu hoạt động đối ngoại của
Đảng diễn ra ở Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô, một số sự kiện diễn ra ở Đông
Nam Á và một số nước khác
Phạm vi thời gian: từ đầu năm 1930 đến tháng 8-1945.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của ĐCSVN về công tác đối ngoại.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ yếu là phương pháp
lôgic, phương pháp lịch sử, và các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh...
4.3. Nguồn tài liệu
- Văn kiện Đảng là nguồn tài liệu quan trọng được khai thác khi nghiên
cứu lịch sử Đảng nói chung và lịch sử hoạt động đối ngoại của Đảng nói riêng.
- Các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh: Một số tác phẩm quan
trọng và tiêu biểu của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh về đường lối, chủ trương
của Đảng từ năm 1930 đến tháng 8-1945.
- Các tư liệu khác liên quan đến đề tài:
+ Các công trình luận án, luận văn, bài báo đã công bố về đề tài.
+ Tư liệu về các hội nghị quốc tế, quan điểm của chính trị gia các nước,
văn kiện của chính phủ các nước.
6
+ Khối báo chí đương thời phát hành từ năm 1941 đến năm 1945, gồm
báo chí bí mật như Cờ giải phóng, Việt Nam độc lập, Cứu quốc
+ Các tài liệu nghiên cứu: ảnh, bưu thiếp, thẻ tham dự hội nghị (một số
được đưa vào phụ lục luận án).
5. Đóng góp mới của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học về
quá trình định hình đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn 1930-1945. Từ
đó, thấy rõ sự phát triển, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo thực hiện công tác
đối ngoại của Đảng.
- Phân tích, góp phần làm sáng tỏ những hoạt động đối ngoại của ĐCSĐD
với cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945. Góp phần khẳng định
đường lối và hoạt động đối ngoại đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong giai đoạn
lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền.
- Góp phần đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong hoạt động đối ngoại
của Đảng giai đoạn này, đúc rút những kinh nghiệm lịch sử bổ ích có thể áp
dụng trong quá trình lãnh đạo của Đảng về đối ngoại sau này.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
án bao gồm 4 chương; 9 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
“Đối ngoại”, theo định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn
ngữ học [163] là đối với nước ngoài, bên ngoài, nói về đường lối, chính sách, sự
giao thiệp của nhà nước, của một tổ chức; để phân biệt với đối nội. Đối ngoại
luôn là nội dung quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn đối với đường lối, chính sách
của bất kỳ nhà nước hay tổ chức nào. Còn “ngoại giao” là việc thực hiện các mối
quan hệ giữa các quốc gia có chủ quyền thông qua liên lạc, thương lượng, gây
ảnh hưởng cũng như điều chỉnh những khác biệt. Do thời kỳ luận án đề cập đến
Đảng chưa phải là Đảng cầm quyền, Nhà nước Việt Nam chưa được thành lập,
nên nghiên cứu sinh sử dụng thuật ngữ “đối ngoại” để nói đến các hoạt động của
Đảng đối với các Đảng, các lực lượng quốc tế thời kỳ này.
Đây là thời điểm mà đường lối đối ngoại cùng các hoạt động đối ngoại
của Đảng có tác động đến đường lối chung của Đảng trong quá trình lãnh đạo
toàn dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng của dân tộc,
tránh được những tổn thất lớn lao, là một nội dung quan trọng trong quá trình
nghiên cứu lịch sử Đảng nói riêng, lịch sử dân tộc nói chung.
Các nội dung về vấn đề này được thể hiện trong nhiều công trình nghiên
cứu khoa học, xã hội, các luận án, luận văn, sách, báo về lịch sử Việt Nam nói
chung, lịch sử Đảng nói riêng.
Có thể phân chia thành ba nhóm chính sau đây:
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, lịch sử
Đảng liên quan đến đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề chung của lịch sử ĐCS mà
trong đó có đề cập đến hoạt động đối ngoại ở các khía cạnh khác nhau. Đáng chú
ý là các công trình:
8
“Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng
Trung ương [7]. Cuốn sách đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng qua các giai đoạn
lịch sử, cung cấp những nội dung cơ bản của lịch sử Đảng trong đó nêu lên
những quan điểm, chủ trương của Đảng về hoạt động đối ngoại.
Các sách lịch sử do các đồng chí lãnh đạo của Đảng viết như:
Trường Chinh, “Tiến lên dưới lá cờ của Đảng” [23]; Trường Chinh,
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”, tập I [24]; tập II [25];
Trường Chinh, “Cách mạng Tháng Tám” [26]; Lê Duẩn, “Một vài đặc điểm của
cách mạng Việt Nam” [30]; Lê Duẩn, “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập
tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành thắng lợi mới” [32] đã chỉ ra những
nội dung cụ thể, trong đó có hoạt động đối ngoại, có tính chất tổng kết lý luận và
thực tiễn rất cơ bản, hướng dẫn toàn Đảng, toàn dân ta vươn lên đạt những thắng
lợi mới cho sự nghiệp cách mạng.
“Cách mạng Tháng Mười với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam” của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN Lê Duẩn [31].
Cuốn sách đã tập trung khẳng định ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga
đối với thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, thể hiện sự tiếp thu của Đảng
từ thành công của cuộc Cách mạng Tháng Mười, để lãnh đạo nhân dân
nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giành thắng lợi
về mọi mặt, trong đó có mặt trận đối ngoại.
“Lịch sử Cách mạng Tháng Tám” của Viện Lịch sử Đảng [161].
Cuốn sách cung cấp một cái nhìn tổng quan về diễn trình của Cách mạng
Tháng Tám, trong đó có đan xen những chủ trương và hoạt động đối ngoại của
Đảng và Hồ Chí Minh.
“Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội” của tác giả Nguyễn Duy Quý
[137]. Cuốn sách đề cập đến việc phát triển một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của tiến trình cách mạng Việt Nam và thế giới, phân tích những vấn đề lớn của
dân tộc và những sự kiện lớn của thế giới, trong đó có đề cập đến các hoạt động
9
đối ngoại, vấn đề hợp tác quốc tế... nhưng phân tích ở nhiều thời kỳ, nhiều
khía cạnh khác nhau.
Những công trình trên đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về
lịch sử Đảng, về quá trình Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập
dân tộc, trong đó có các hoạt động đối ngoại. Qua đó, các tác giả đều
khẳng định: những quan điểm, đường lối của Đảng nói chung, đường lối
đối ngoại nói riêng đã có giá trị lớn, góp phần vào thành công của cách mạng
Việt Nam. Đồng thời, chỉ ra những hạn chế, và bước đầu đúc kết một số
kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh đạo hoạt động đối ngoại. Đây là
những công trình khoa học cung cấp những vấn đề lý luận chung, phương pháp
nghiên cứu đề tài; những luận điểm khoa học và là tài liệu quý cho nghiên cứu
sinh trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ mà luận án đặt ra.
1.1.2. Những công trình khoa học nghiên cứu quan hệ đối ngoại và
hoạt động đối ngoại của Đảng liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về hoạt động đối ngoại của Đảng, cách mạng Việt Nam từ
năm 1930 đến năm 1945 là một vấn đề mới. Nhìn chung, các công trình nghiên
cứu về ngoại giao Việt Nam thường bắt đầu từ thời điểm nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa chính thức thành lập (2-9-1945). Các hoạt động đối ngoại của Đảng từ
năm 1930 đến năm 1945 chưa được nghiên cứu thành công trình chuyên khảo
riêng biệt. Dù thời kỳ này, các hoạt động đối ngoại của Đảng có vai trò, ý nghĩa
quan trọng đối với quá trình đấu tranh cách mạng, giành chính quyền về tay
nhân dân. Từ những ngày đầu mới thành lập, Đảng cần có sự ủng hộ mạnh mẽ từ
QTCS và các ĐCS anh em để khẳng định vai trò cũng như có tiếng nói uy tín trên
mặt trận đấu tranh quốc tế. Từng bước, cùng với sự phát triển của cách mạng,
Đảng cũng phải đối mặt với nhiều kẻ thù trực tiếp, gián tiếp. Các công trình
nghiên cứu đã đưa ra đánh giá về đường lối đối ngoại của Đảng, của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh, của cách mạng Việt Nam... Đối với việc
nghiên cứu về đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng, có các công trình tiêu
biểu như:
10
“Ý nghĩa của việc đánh bại chủ nghĩa quân phiệt Nhật đối với thắng lợi
của cuộc cách mạng nhân dân ở Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam” của tác giả
M. L. Titapenco [151]. Tác giả tập trung vào phong trào giải phóng dân tộc ở
Viễn Đông và Đông Nam Á sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong đó có
đề cập đến quan hệ đối ngoại, thời cơ cách mạng dẫn đến sự ra đời của ĐCSVN
để lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
“Cách mạng Việt Nam 1945-Rudơven, Hồ Chí Minh và Đờ Gôn trong
thế giới có chiến tranh” của tác giả Stein Tønnesson [154]. Trong cuốn sách,
tác giả phân tích tình hình quốc tế và Việt Nam; nhấn mạnh các nguyên nhân
dẫn tới thành công của cách mạng Việt Nam năm 1945.
“Paris-Sài Gòn-Hà Nội-Tài liệu lưu trữ của cuộc chiến tranh 1944-1947
của tác giả Philippe Deviller [29]. Cuốn sách đã nêu lên những nhận định của
một nhà sử học người Pháp về cuộc chiến tranh ở Việt Nam thông qua khối
tài liệu lưu trữ từ phía Pháp.
“Tại sao Việt Nam?” của tác giả A. Patti [128]. Một thiếu tá tình báo OSS
được trực tiếp gặp Nguyễn Ái Quốc thời điểm năm 1945, đã kể về những sự kiện
lịch sử, quan điểm của ông về các mối qu