Các bản thần tích, thần sắc là tập hợp thông tin về tín ngưỡng thờ thần, thành hoàng, thờ vua Hùng và những danh tướng, công chúa thời Hùng Vương, những vị danh nhân, khoa bảng sau đó tại các làng xã vùng đất Tổ Lâm Thao. Những tư liệu này giúp khôi phục lại bức tranh về tín ngưỡng đang được thờ cúng tại các làng của huyện Lâm Thao.
- Về tư liệu bia ký, minh văn:
Bia chùa Thiên Quang - Đền Hùng, xã Hy Cương: Nhất bản xã tín thí bia bị mờ chỉ còn rõ một số chữ khắc tên ruộng cung tiến niên đại Gia Thái (1573), Triều vua Lê Thế Tông niên hiệu Duy Đường.
Bia đền Thượng - Đền Hùng, xã Hy Cương lập năm Duy Tân thứ 8 (1914), niên hiệu của vua Nguyễn Duy Tân. Bia ghi họ tên các quan viên trong hội đồng trùng tu.
Bia chùa Thiên Quang - Đền Hùng, xã Hy Cương ghi việc sửa đường lên núi Hùng Sơn lập năm Khải Định thứ 2 (1917), niên hiệu vua Nguyễn Hoằng Tông.
Bia chùa Vĩnh Ninh, thị trấn Lâm Thao: Cao Mại bi lập năm Bảo Đại thứ 3 (1927), niên hiệu vua Nguyễn Bảo Đại.
Bia đền Thượng - Đền Hùng nội dung khảo về đền Hùng Vương, ghi việc tôn tạo các ngôi đền. Bia khắc ngày 10/3 năm Canh Thìn niên đại Bảo Đại thứ 15 (1940).
Chuông chùa Kim Cương, xã Vĩnh Lại: Dương Trù hồng chung Kim Cương tự ký (đúc chuông lớn ghi công đức chùa Kim Cương) tạo năm Vĩnh Thịnh thứ 3 (1707), niên hiệu của vua Lê Dụ Tông.
Chuông chùa An Phúc (xã Sơn Dương): An Phúc tự chung, niên đại năm Minh Mạng thập thất niên (1836), khắc bài minh văn chữ Hán ca ngợi địa thế, cảnh đẹp của chùa và ghi tên những dòng họ, những người có tâm đức xây dựng, tu tạo chùa.
Chuông chùa Thiên Quang - Đền Hùng, xã Hy Cương, không có niên đại chỉ khắc ghi: “Đại Việt quốc, Sơn Tây đạo, Lâm Thao phủ, Sơn Vi huyện, Hy Cương xã, Cổ Tích thôn Cư Phụng”.
185 trang |
Chia sẻ: Đào Thiềm | Ngày: 07/01/2025 | Lượt xem: 34 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Kinh tế, văn hóa huyện Lâm Thao (tỉnh Phú Thọ) từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
-----@&?-----
NGUYỄN TRƯỜNG SƠN
KINH TẾ, VĂN HÓA HUYỆN LÂM THAO (TỈNH PHÚ THỌ)
TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1945
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2024
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
-----@&?-----
NGUYỄN TRƯỜNG SƠN
KINH TẾ, VĂN HÓA HUYỆN LÂM THAO (TỈNH PHÚ THỌ)
TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1945
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 9.22.90.13
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Cảnh Minh
2. PGS.TS. Phan Ngọc Huyền
HÀ NỘI - 2024
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu sử dụng trong Luận án hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Những kết quả của Luận án chưa được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Trường Sơn
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Viết đầy đủ
m, s, th, t, ph
Mẫu, sào, thước, tấc, phân.
(1 mẫu = 10 sào; 1 sào = 15 thước; 1 thước = 10 tấc; 1 tấc = 10 phân)
Nxb
Nhà xuất bản
KHXH
Khoa học xã hội
ĐHQGHN
Đại học Quốc gia Hà Nội
Tp
Thành phố
VHTT
Văn hóa thông tin
KHXH
Khoa học xã hội
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Diện tích công điền các làng ở huyện Lâm Thao đầu thế kỷ XIX và cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 53
Bảng 3.2: Diện tích và sản lượng sơn của tỉnh Phú Thọ từ năm 1931 đến năm 1939 68
Bảng 3.3: Trứng tằm giống được bán trong tỉnh Phú Thọ từ năm 1930-1939 74
Bảng 3.4: Nghề thủ công tại một số làng ở huyện Lâm Thao năm 1942-1943 78
Bảng 3.5: Giá cả một số mặt hàng tại các chợ tỉnh Phú Thọ năm 1931 đến năm 1939 82
Bảng 3.6: Giá cả những mặt hàng thường bán ở các chợ trong tỉnh Hưng Hóa năm 1899 83
Bảng 4.1: Một số kiến trúc và tượng tự khí tại một số đền ở Lâm Thao năm 1942 - 1943 110
Bảng 4.2: Kiến trúc và tượng tự khí một số miếu ở Lâm Thao năm 1942 - 1943 113
Bảng 4.3: Quy định tiền cheo một số làng theo hương ước cải lương của huyện Lâm Thao 120
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kinh tế, văn hóa là những vấn đề cơ bản gắn liền với tiến trình phát triển của một quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng là thước đo về trình độ văn minh. Sự khác biệt về kinh tế, văn hóa ở những giai đoạn khác nhau của một cộng đồng người trong lịch sử thường mang dấu ấn thời đại; phản ánh những đặc điểm hết sức đa dạng và phong phú.
Từ trước đến nay, việc nghiên cứu về kinh tế, xã hội Việt Nam trên phạm vi một quốc gia, một địa phương, một khu vực ở các thời kỳ khác nhau đã trở thành mảng đề tài được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm tìm hiểu. Đã có nhiều công trình đề cập đến vấn đề này dưới những góc độ, dạng thức, phản ánh khác nhau trong một tập hợp công trình, một chuyên khảo, chuyên luận hay một luận văn, luận án...
Cuối thế kỷ XIX, công cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp hoàn thành và Việt Nam chính thức trở thành thuộc địa của Pháp cho đến năm 1945. Trong suốt thời kỳ thuộc địa thì kinh tế, văn hóa có nhiều biến đổi do xuất hiện những yếu tố mới du nhập vào. Tuy nhiên, tùy theo đặc điểm của từng vùng, từng địa phương mà sự biến đổi đó có phần đậm, nhạt khác nhau. Nếu như ở các trung tâm đô thị hay trung tâm kinh tế lớn thì sự biến đổi rất rõ nét và sâu sắc; nhưng ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng đất cổ thì sự biến đổi có phần chậm chạp hơn, và nhiều yếu tố truyền thống có xu hướng được bảo tồn khá nguyên vẹn.
Huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ (dưới thời Pháp thuộc có tên gọi là huyện Sơn Vi, sau là phủ Lâm Thao) là một vùng đất cổ. Có thể nói vùng đất này có bề dày lịch sử và mang tính chất trung tâm, phát triển nhất của tỉnh Phú Thọ từ xưa đến nay. Hiếm có một địa vực nào có cả văn hóa Tiền - Sơ sử, đều là những di chỉ khảo cổ tiêu biểu, quan trọng mang tính chất đại diện của đất nước như: Văn hóa Sơn Vi (thuộc hậu kỳ đá cũ), Văn hóa Phùng Nguyên (thuộc sơ kỳ đồng thau), Văn hóa Gò Mun (thuộc hậu kỳ đồng thau); đây cũng là địa bàn có nhiều liên quan đến Văn hóa Đông Sơn và vùng không gian trung tâm nhà nước sơ khai đầu tiên mang tên Văn Lang thời Hùng Vương. Trong suốt thời kỳ quân chủ, đây cũng là khu vực phát triển nhất về các mặt của đất Phú Thọ xưa (gồm phần Thượng của đạo/trấn/tỉnh Sơn Tây, phần Hạ của đạo/trấn Hưng Hóa) so với các huyện khác của tỉnh. Vì vậy, các làng xã ở vùng đất Lâm Thao mang đậm nét lịch sử, văn hóa của nền văn minh sông Hồng với rất nhiều giá trị vật chất, tinh thần và những đặc trưng riêng của cư dân Việt cổ. Dưới thời Pháp thuộc, đất Sơn Vi - Lâm Thao cũng chịu sự tác động của những biến chuyển trong lịch sử dân tộc, đặt trong bối cảnh của thời kỳ thuộc địa, và các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
Từ những nghiên cứu về vùng đất Lâm Thao, chúng ta có thể tìm thấy nhiều nét riêng biệt, đặc trưng về kinh tế, văn hoá của một vùng đất cổ ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc. Vậy, những nét đặc trưng đó là gì? Dưới thời Pháp thuộc, với chính sách thuộc địa của thực dân Pháp thì kinh tế và văn hóa của vùng đất này có sự phát triển, biến đổi ra sao?
Lý giải được những vấn đề trên không những sẽ góp phần khôi phục lại bức tranh về đời sống kinh tế, văn hóa của huyện Lâm Thao nói chung, mà còn tạo cơ sở để nhận diện những nét riêng biệt của một vùng đất cổ trong thời kì Pháp thuộc của tỉnh Phú Thọ nói riêng và vùng trung du phía Bắc nói chung.
Vì những lí do trên, tác giả chọn đề tài “Kinh tế, văn hóa huyện Lâm Thao (tỉnh Phú Thọ) từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945” làm đề tài luận án Tiến sĩ của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Luận án nhằm làm rõ quá trình phát triển; sự chuyển biến của kinh tế, văn hóa của vùng đất Lâm Thao tỉnh Phú Thọ trong thời kì từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945.Trên cơ sở đó, luận án hướng đến việc chỉ ra những nét đặc trưng về kinh tế, văn hóa của huyện Lâm Thao trong thời kì này.
2.2. Nhiệm vụ
Luận án nhằm giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Khái quát được quá trình hình thành, biến đổi diên cách và những yếu tố về tự nhiên, xã hội, chính trị tác động đến sự chuyển biến của huyện Lâm Thao trong thời kì từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945.
- Phục dựng, tái hiện được hoạt động kinh tế, đời sống văn hóa và phân tích sự biến đổi về kinh tế, văn hóa của huyện Lâm Thao trong thời kì từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945.
- Nhận xét, đánh giá được đặc điểm, nét nổi bật về kinh tế huyện Lâm Thao, nhận diện được những nét đặc trưng, nổi bật cũng như xu hướng bảo tồn, biến đổi trong đời sống văn hoá của huyện Lâm Thao trong thời kì từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu về tình hình kinh tế, văn hóa của huyện Lâm Thao từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: luận án tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ XIX (năm 1891) khi huyện Sơn Vi cũ được tách ra (tương ứng với huyện Lâm Thao ngày nay) cho đến năm 1945.
Về không gian:
Trên thực tế, các huyện cũ của phủ Lâm Thao, tỉnh Sơn Tây (Sơn Vi, Thanh Ba, Phù Ninh) được tách thành huyện riêng ngay từ năm 1891 khi thành lập tỉnh Hưng Hóa mới. Đến năm 1919, chính quyền thực dân bỏ tên huyện Sơn Vi đổi tên gọi là phủ Lâm Thao. Khi đó, phủ Lâm Thao chỉ còn các tổng và xã thôn, tương đương với huyện Sơn Vi cũ. Đến khi sắc lệnh số 63/SL ngày 22 - 11 - 1945 của Chính phủ về tổ chức, quyền hạn và cách làm việc của Ủy ban Hành chính các cấp thì phủ Lâm Thao được đổi tên thành huyện Lâm Thao. Do đó, ở giai đoạn từ sau năm 1891 đến năm 1945, không gian của huyện Lâm Thao tương ứng với huyện Sơn Vi.
Trong khuôn khổ nguồn tư liệu cho phép, luận án chỉ tập trung đề cập đến các tổng: Do Nghĩa, Sơn Dương, Xuân Lũng, Vĩnh Lại, Cao Xá (nay là các xã Cao Mại, Sơn Vi, Cao Xá, Tứ Xã, Vĩnh Lại, Bản Nguyên, Kinh Kệ, Hợp Hải, Sơn Dương, Xuân Lũng, Xuân Huy, Sơn Vi, Tiên Kiên, Thạch Sơn) và một số xã như Hy Cương, Hà Thạch, Thụy Vân, Thanh Đình, Chu Hóa đã cắt về Thành phố Việt Trì và Thị xã Phú Thọ từ năm 1945 đến nay.
Về nội dung: Do nguồn tư liệu thu thập được tản mát, không đồng đều giữa các nội dung và giai đoạn nên đề tài chủ yếu tập trung khảo cứu về một số lĩnh vực của huyện Lâm Thao từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 như:
Về lĩnh vực ruộng đất, riêng phần ruộng đất công chỉ đề cập đến ruộng đất công trong hương ước cải lương những năm 1930 – 1940 (gồm ruộng đấu thầu, ruộng thờ tự, và một số ruộng đất công khác), kết hợp với so sánh ruộng đất trong địa bạ Gia Long năm 1805.
Về tình hình kinh tế nông nghiệp được giới hạn chủ yếu trình bày về tình hình trồng trọt cây lương thực, cây công nghiệp, một số cây quan trọng khác (trầu, cau, cọ) và tình hình chăn nuôi.
Về tình hình thủ công nghiệp chủ yếu giới thiệu về các nghề thợ sơn, dệt vải, ép dầu.
Về đời sống văn hóa vật chất chỉ tập trung trình bày về nhà ở, ăn, mặc, phương tiện đi lại. Về đời sống văn hóa tinh thần chỉ đề cập đến những tín ngưỡng (phồn thực, thờ cúng tổ tiên, thờ thần và người có công với làng), tôn giáo (Phật giáo, Thiên chúa giáo). Nghệ thuật kiến trúc chỉ nói về một số đền, đình, chùa, lăng, miếu nổi tiếng, có giá trị nghệ thuật cao.
Về phong tục, tập quán và lễ hội giới hạn trình bày một số phong tục như: hút thuốc lào, nhuộm răng đen, ăn trầu cau, tang ma, cưới hỏi cùng với những trò diễn hội làng như: hội vật, hội đánh quân, hội phết, hội cầu giỏ, hội chạy dịch, hội chọi trâu, hội bắt lợn. Nghệ thuật dân gian chỉ đề cập đến nghệ thuật sân khấu (hát ví, hát trống quân, hát xoan, trò bách dân chi nghiệp, múa đầu rối, múa rồng rắn).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phép biện chứng của chủ nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu về những điều kiện lịch sử, nội dung, đặc điểm và những tác động của kinh tế, văn hóa ở huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945.
Luận án được thực hiện trên cơ sở sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu đặc trưng của chuyên ngành lịch sử như: phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp thống kê, phân tích, hệ thống, tổng hợp, so sánh, đối chiếu các nguồn tư liệuTrong đó, hai phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
Phương pháp lịch sử: là phương pháp quan trọng nhằm phục dựng, tái hiện lại bức tranh về tình hình kinh tế, văn hóa huyện Lâm Thao từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945. Sử dụng phương pháp lịch sử giúp cho việc trình bày nội dung của đề tài theo đúng trình tự thời gian. Qua phương pháp này, thực trạng kinh tế, văn hóa huyện Lâm Thao được đặt trong tổng thể của bối cảnh lịch sử, nổi bật về nội dung và những tác động đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện, qua đó giúp cho việc tìm hiểu và đánh giá một cách khách quan và chính xác.
Ví dụ trong trồng cây sơn ở Lâm Thao, bằng phương pháp lịch sử, tác giả tìm những nguồn tư liệu sưu tầm được tương đối chính xác và đầy đủ về cây sơn, từ nguồn gốc, tên gọi, chất lượng sơn cũng như sự biến động trong trồng trọt và buôn bán sản phẩm này.
Phương pháp logic: Là phương pháp sử dụng các luận điểm khoa học nhằm phân tích, khái quát, lý giải, nhận xét, đánh giá các sự kiện lịch sử. Từ đó, rút ra kết luận, chỉ ra bản chất, khuynh hướng tất yếu, quy luật vận động của lịch sử. Do đó, trên cơ sở phục dựng lại tổng thể tình hình kinh tế, văn hóa của huyện Lâm Thao từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945, tác giả rút ra những đặc điểm, đặc trưng, xu hướng biến đổi đối với đời sống kinh tế, văn hóa ở vùng đất này.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp bổ trợ khác như:
Phương pháp thống kê: Phương pháp này nhằm thu thập tài liệu, xử lý và chắt lọc dẫn chứng và tài liệu quan trọng. Qua đó, cho thấy những thực trạng, biến đổi và nguyên nhân biến đổi trong các ngành nghề kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp qua các năm hoặc một khoảng thời gian xác định. Và hiện trạng văn hóa, di tích, di vật...đã tồn tại ở huyện Lâm Thao từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945. Đây cũng là cơ sở để tác giả khái quát những đặc điểm về kinh tế, văn hóa của huyện Lâm Thao trong luận án.
Phương pháp sưu tầm và xử lý tư liệu: Trên thực tế, tình hình kinh tế và văn hóa huyện Lâm Thao từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 được ghi lại trong nhiều nguồn sử liệu khác nhau. Ví dụ, cùng nội dung về phần đất trồng trọt thì theo “Bản tiểu dẫn về tỉnh Phú Thọ” của ông Guariaud thanh tra giáo dục Pháp - Việt tại tỉnh Phú Thọ viết năm 1932 và cuốn “Phú Thọ tỉnh địa chí” của Phạm Xuân Độ (viết năm 1939) đều nói về chất đất và cây trồng để thích ứng với đất đó thuộc khu vực thuộc huyện Lâm Thao. Ngoài ra còn rất nhiều thông tin trùng nhau giữa hai tài liệu trên. Điều đó đòi hỏi người viết phải so sánh, kiểm tra sự trùng khớp hoặc khác nhau trong các nguồn tư liệu để chọn ra một dẫn chứng cho luận án.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: Đây là phương pháp quan trọng giúp cho tác giả từ sự kiện cụ thể có thể rút ra những luận điểm khái quát và đánh giá một vấn đề. Từ đó có thể đánh giá ý nghĩa, sự biến đổi và tác động đến tình hình kinh tế, văn hóa của huyện Lâm Thao từ cuối thế kỳ XIX đến năm 1945.
Phương pháp nghiên cứu hệ thống: Các làng trong huyện Lâm Thao cũng như các làng Việt khác bao gồm nhiều thành tố luôn vận động và biến đổi, do đó muốn nghiên cứu làng phải đặt nó trong mối liên kết chung, coi nó như một mô hình vận động và biến chuyển trong thời gian. Vì vậy để làm sáng tỏ các vấn đề về từng yếu tố hợp thành các mối quan hệ chặt chẽ của làng, luận án đã sử dụng phương pháp hệ thống, tức là nghiên cứu từng yếu tố hợp thành các mối liên kết, từ đó hệ thống lại để nhận định được các mối quan hệ khăng khít, tương tác giữa các yếu tố bên trong, rút ra được cơ chế vận hành cũng như các đặc điểm của từng làng.
Phương pháp điền dã, phỏng vấn: Đây là phương pháp quan trọng nhằm bổ sung những tư liệu còn thiếu hoặc không được ghi chép ở các tài liệu khác. Tác giả đã tiến hành chụp ảnh, ghi âm, quay hình, ghi chép những di tích, lễ hội...thực tiễn còn hiện hữu đến nay tại vùng đất Lâm Thao và phỏng vấn những cụ già đã từng sống trước năm 1945 ở huyện Lâm Thao. Đây là nguồn tư liệu “hồi cố”, phản ánh chân thực đời sống kinh tế, văn hóa của vùng đất này như thế nào thời điểm đó.
5. Đóng góp của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu hệ thống, chi tiết về diên cách và đơn vị hành chính, điều kiện tự nhiên, dân cư và tổ chức xã hội của các làng xã trên địa bàn tương đương với huyện Lâm Thao ngày nay. Các tài liệu này giúp tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử địa phương huyện Lâm Thao từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945.
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống, toàn diện về kinh tế, văn hoá theo tiến trình lịch sử của huyện Lâm Thao từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945. Trên cơ sở đó, luận án làm nổi bật những đặc điểm quá trình phát triển về kinh tế, văn hóa của vùng đất Lâm Thao từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945.
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy lịch sử - văn hóa địa phương, góp phần giáo dục truyền thống ở các trường phổ thông và một số cơ quan, bảo tàng, văn hóa du lịch ở Lâm Thao - Phú Thọ cũng như chính nhân dân địa phương nơi tác giả sinh sống.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phụlục, nội dung của luận án được chia làm 5 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và nguồn tài liệu nghiên cứu đề tài.
Chương 2. Những yếu tố ảnh hưởng đến kinh tế, văn hóa huyện Lâm Thao (tỉnh Phú Thọ) từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945.
Chương 3. Kinh tế huyện Lâm Thao (tỉnh Phú Thọ) từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945.
Chương 4: Văn hóa huyện Lâm Thao (tỉnh Phú Thọ) từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945.
Chương 5. Nhận xét về kinh tế và văn hóa huyện Lâm Thao (tỉnh Phú Thọ) từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
NGUỒN TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Những công trình liên quan gián tiếp đến nội dung luận án
Một số công trình nghiên cứu nước ngoài
Huyện Lâm Thao được hình thành từ các làng xã trong vùng. Do vậy, khi nghiên cứu về vùng đất huyện Lâm Thao từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 chính là khảo cứu những ghi chép cụ thể gắn với làng xã, địa phương chí ở các vùng. Một trong những hướng tiếp cận nguồn tài liệu là từ một số tác phẩm nghiên cứu người nước ngoài về làng xã người Việt, qua đó có những điểm tương đồng trong nghiên cứu để tác giả trích dẫn. Một số tác phẩm như:
Từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, có một số tác phẩm như: La Commune Annamite au Tonkin (Làng xã An Nam ở Bắc kỳ, 1894) của P. Ory đã nói đến một số vấn đề về nông nghiệp, phong tục, tập quán trong các làng xã ở Bắc Kỳ. Qua tác phẩm có thể thấy được một số điểm để khai thác tư liệu về mặt kinh tế và văn hóa đối với các làng xã của huyện Lâm Thao vốn dân cư thuần người Việt nằm ở đỉnh của tam giác đồng bằng Sông Hồng cuối thế kỷ XIX.
Cuốn L’Economie Agricole de l’Indochine (Kinh tế nông nghiệp Đông Dương, Hà Nội, 1932) của Y.Henry đã đề cập đến tình hình nông nghiệp ở Đông Dương, sở hữu ruộng đất, phương thức sử dụng ruộng đất ở một số làng cụ thể. Qua tác phẩm này bức tranh thực trạng kinh tế nông nghiệp và ruộng đất ở Đông Dương được miêu tả khá cụ thể, trong đó có vùng Bắc Kỳ, từ đó ta có thể thấy những đặc điểm chung để khai thác tư liệu về kinh tế vùng đất Lâm Thao (tỉnh Phú Thọ) cho luận án.
Cuốn P.Gourou trong cuốn Les paysans du Delta Tonkinois (Người nông dân châu thổ Bắc kỳ, Paris, 1936) đã nghiên cứu về địa lý nhân văn ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, làng, đời sống của người nông dân, nhà cửa trong làng ở Bắc kỳ, tác phẩm này có một số ít trích dẫn nhỏ nhắc đến một vài địa danh của tỉnh Phú Thọ. Tác giả có thể khai thác được một số mặt về điều kiện tự nhiên, dân cư, kinh tế và đời sống văn hóa vật chất qua những phân tích, miêu tả và bản đồ trong tác phẩm này.
Từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, với các tác phẩm của Samuel L. Popkin The Rational Peasant. The Political Economy of Rural Society in Vietnam (Người nông dân duy lý. Kinh tế chính trị xã hội nông thôn Việt Nam) (1979), đã phân tích cách ứng xử kinh tế của người nông dân trong đời sống kinh tế nông nghiệp và trong sinh hoạt làng xã, từ đó có chiều hướng phân tích những yếu tố liên quan đến kinh tế, văn hóa làng xã của người Việt Nam nói chung và ở vùng Bắc kỳ nói riêng.
Tác giả James C. Cott The Moral Economy of Peasant: Rebellion and Subsistence in Southeast Asia (Kinh tế đạo đức của nông dân: Sự phản kháng và sinh tồn ở Đông Nam Á) (1976), tác phẩm nói đến người nông dân và tinh thần phản kháng của họ nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế trong các xóm làng, đặc biệt là những cuộc nổi dậy trong những năm 1930, khi chịu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, tác động đến chính sách của Pháp đối với Đông Dương.
Những công trình nghiên cứu trên cho thấy, việc nghiên cứu về làng xã Việt Nam đã thu hút được nhiều sự quan tâm của các học giả nước ngoài. Những tác phẩm đã nói lên được nhiều mặt của làng xã, các vùng đất của Việt Nam đã để lại nhiều tư liệu quý và lý luận cho các nhà nghiên cứu về sau kế thừa và phát triển.
Những nghiên cứu của các tác giả trong nước
Trước Cách mạng tháng Tám, có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến kinh tế, văn hóa làng nói chung, tiêu biểu như: Việt Nam phong tục (1915) của Phan Kế Bính. Tác phẩm đã tổng hợp khá cụ thể về những phong tục trong gia tộc, hương đảng, xã hội người Việt. Đây là nguồn tư liệu quý giúp tác giả tái hiện những văn hóa phong tục của người Việt được nhiều mặt ở đầu thế kỷ XX trong luận án của mình.
Cuốn sách đầu tiên nghiên cứu làng xã Việt Nam theo quan điểm Macxit là cuốn Vấn đề dân cày (1937) của Qua Ninh và Vân Đình (tức Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp). Nghiên cứu về thực trạng nông thôn Việt Nam dưới ách áp bức của thực dân và phong kiến, qua đó đề cập đến vấn đề ruộng đất và dân cày.
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, các vấn đề về kinh tế, xã hội nông thôn, làng xã Việt Nam được chú ý. Một số tác phẩm mở đầu của thời kỳ này như: Xã thôn Việt Nam (1959) của Nguyễn Hồng Phong; Làng xóm Việt Nam (1968) của Toan Ánh....Đặc biệt là hai tập sách Nông thôn Việt Nam trong lịch sử do Viện Sử học biên soạn (Tập I: 1977, Tập II: 1978).
Các công trình này đã tìm hiểu làng xã dưới nhiều khía