Hiện nay trên thế giới việc ứng dụng công nghệ thông tin, đặc
biệt là hệ thống thông tin địa lý vào lĩnh vực thành lập và sản xuất
bản đồ rất phát triển. Vì vậy, việc thành lập các tập bản đồ tin học,
tập bản đồ điện tử đã trở thành một xu hướng hiện đại nhằm xuất bản
và đưa bản đồ vào sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, công nghệ bản đồ số và GIS cũng đã sớm được áp
dụng để thành lập Atlas điện tử 1 số tỉnh như: Lào Cai, Đồng Nai,
Đăk Nông [34], [38], [39], Từ năm 2002, Bộ Tài nguyên và Môi
trường đã đặt ra việc điện tử hoá Atlas Quốc gia xuất bản năm 1996,
song mới chỉ hoàn thành được một phần công việc. Nhưvậy, việc
triển khai xây dựng Web Atlas ở nước ta đang là mộtnhu cầu cấp
bách, số các đơn vị trong và ngoài ngành bản đồ đang tiến hành
nghiên cứu và thực hiện các công việc này càng ngàycàng tăng. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống để tạo dựng cơ sở khoa
học và quy trình thành lập Web Atlas vẫn chưa có nhiều công trình
cơ bản và hoàn thiện. Do đó cần có những nghiên cứucụ thể về cơ
sở khoa học về phương pháp luận và phương pháp xây dựng Web
Atlas, đặc biệt là Web Atlas hỗ trợ ra quyết định.
28 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2163 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu cơ sở khoa học xây dựng web atlas quản lý hành chính thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT
BÙI NGỌC QUÝ
NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC
XÂY DỰNG WEB ATLAS QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Kỹ thuật Trắc địa - Bản đồ
Mã số: 62520503
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT
HÀ NỘI – 2013
2
Công trình được hoàn thành tại: Bộ môn Đo ảnh và Viễn thám,
Khoa Trắc địa, Trường Đại học Mỏ - Địa chất
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS Nguyễn Trường Xuân
Trường Đại học Mỏ - Địa chất
2. PGS.TS Nguyễn Cẩm Vân
Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Phản biện 1: PGS.TS Nhữ Thị Xuân
Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc
gia Hà Nội
Phản biện 2: PGS.TS Trương Thị Hòa Bình
Trung tâm Vệ tinh Quốc gia, Viện Hàn lâm Khoa
học và Công nghệ Việt Nam
Phản Biện 3: TS Đào Ngọc Long
Viện Khoa học Đo đạc và Bản đồ - Bộ Tài nguyên và
Môi trường
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp
Trường họp tại Trường đại học Mỏ - Địa chất vào hồi …. giờ
….. ngày ….. tháng ….. năm 2013
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia, Hà Nội hoặc
Thư viện trường Địa học Mỏ - Địa chất
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay trên thế giới việc ứng dụng công nghệ thông tin, đặc
biệt là hệ thống thông tin địa lý vào lĩnh vực thành lập và sản xuất
bản đồ rất phát triển. Vì vậy, việc thành lập các tập bản đồ tin học,
tập bản đồ điện tử đã trở thành một xu hướng hiện đại nhằm xuất bản
và đưa bản đồ vào sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, công nghệ bản đồ số và GIS cũng đã sớm được áp
dụng để thành lập Atlas điện tử 1 số tỉnh như: Lào Cai, Đồng Nai,
Đăk Nông [34], [38], [39],…Từ năm 2002, Bộ Tài nguyên và Môi
trường đã đặt ra việc điện tử hoá Atlas Quốc gia xuất bản năm 1996,
song mới chỉ hoàn thành được một phần công việc. Như vậy, việc
triển khai xây dựng Web Atlas ở nước ta đang là một nhu cầu cấp
bách, số các đơn vị trong và ngoài ngành bản đồ đang tiến hành
nghiên cứu và thực hiện các công việc này càng ngày càng tăng. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống để tạo dựng cơ sở khoa
học và quy trình thành lập Web Atlas vẫn chưa có nhiều công trình
cơ bản và hoàn thiện. Do đó cần có những nghiên cứu cụ thể về cơ
sở khoa học về phương pháp luận và phương pháp xây dựng Web
Atlas, đặc biệt là Web Atlas hỗ trợ ra quyết định.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Ý nghĩa khoa học: Luận án đã tổng hợp và đề xuất cơ sở khoa
học, phương pháp và quy trình xây dựng Web Atlas nói chung và
Web Atlas hành chính nói riêng cho các ĐVHC cấp tỉnh, thành phố.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả thử nghiệm nghiên cứu của luận án
có thể được đưa vào sử dụng, phục vụ khai thác và cung cấp thông
tin hỗ trợ QLHC và 1 số thông tin liên quan cho các nhà lãnh đạo
cũng như các tổ chức và nhân dân có nhu cầu tìm hiểu về Hà Nội.
2
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở khoa học xây dựng Web Atlas nói chung và
Web Atlas hỗ trợ QLHC nói riêng, đưa ra được các tiêu chí cụ thể
cho thể loại Web Atlas hỗ trợ công tác QLHC và xây dựng thử
nghiệm Web Atlas hỗ trợ QLHC thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tổng hợp các cơ sở lý luận khoa học về bản đồ và
Web Atlas. Trên cơ sở đó triển khai thực nghiệm xây dựng Web
Atlas hỗ trợ QLHC cho TP Hà Nội.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khoa học: Luận án tập trung vào nghiên cứu cơ sở khoa
học xây dựng Web Atlas nói chung, đề xuất các nội dung chuyên đề
cần thiết của Web Atlas phục vụ QLHC nói riêng.
Phạm vi không gian: Toàn bộ phạm vi hành chính TP Hà Nội.
Nghiên cứu xây dựng các bản đồ hành chính theo các ĐVHC cấp
quận, huyện, thị xã (thông tin chi tiết tới cấp xã, phường, thị trấn).
6. Nội dung nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu và xây dựng Atlas điện tử và
Web Atlas trên thế giới và ở Việt Nam.
- Nghiên cứu và phân tích cơ sở khoa học thành lập Web Atlas.
- Nghiên cứu đặc thù của QLHC, vai trò và ý nghĩa của bản đồ
và web Atlas trong QLHC.
- Thu thập số liệu, dữ liệu, thiết kế, xây dựng Web Atlas hỗ trợ
QLHC cho thành phố Hà Nội.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận;
- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin;
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp tài liệu;
3
- Phương pháp điều tra khảo sát;
- Phương pháp chuyên gia;
- Phương pháp lập trình và ứng dụng công nghệ tin học trong
thành lập bản đồ.
8. Những điểm mới của luận án
- Đề xuất được cấu trúc nội dung của Web Atlas hỗ trợ QLHC,
đưa ra quy trình xây dựng Web Atlas trên cơ sở sử dụng
MapXtreme.
- Lần đầu tiên xây dựng được Web Atlas hành chính Hà Nội với
29 bản đồ các quận, huyện, thị xã được quản lý trên nền web kết hợp
với thông tin thuộc tính cần thiết, hỗ trợ cho công tác QLHC Hà Nội.
- Tạo dựng được cơ sở khoa học và mô hình ứng dụng Web
Atlas hỗ trợ cho công tác QLHC thành phố Hà Nội.
9. Các luận điểm bảo vệ
Luận điểm 1: Web Atlas hành chính là một dạng sản phẩm mới
được phát triển trên cơ sở khoa học của Bản đồ học và Tin học cũng
như nền tảng kỹ thuật và nền tảng xã hội cho phát triển công nghệ số,
có thể hỗ trợ công tác quản lý hành chính các cấp thống nhất và hiệu
quả.
Luận điểm 2: Quy trình công nghệ thành lập Web Atlas hành
chính bao gồm hai hệ thống (quy trình) độc lập nhưng liên kết chặt
chẽ và quy định lẫn nhau là quy trình thành lập bản đồ số và quy
trình lập trình thiết kế đưa bản đồ lên mạng.
10. Cấu trúc của luận án
Luận án gồm 3 Chương, với 158 trang, 46 hình vẽ, 10 Bảng
biểu.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
TRONG NƯỚC VÀ TRÊN THẾ GIỚI
4
1.1. Tình hình nghiên cứu, phát triển Atlas điện tử
1.1.1. Tình hình nghiên cứu, phát triển Atlas điện tử trên thế giới
Tích hợp bản đồ số với hệ thống thông tin địa lý và các công
nghệ thiết kế Web, công nghệ multimedia tạo ra một thế hệ Web
Atlas có khả năng tương tác [31], [32], [33], [70] với những tính
năng ưu việt hơn hẳn so với bản đồ và Atlas truyền thống về chất
lượng sản phẩm cũng như về phương pháp thành lập và khai thác.
Nhiều quốc gia trên thế giới đã tập trung nghiên cứu và xây
dựng các Atlas, Atlas điện tử và Web Atlas phục vụ cho công tác quy
hoạch, phát triển đất nước. Ngày nay, các Web Atlas đều được xây
dựng dựa trên các thành tựu của công nghệ tin học kết hợp với công
nghệ bản đồ, đặc biệt đó là sự kết hợp công nghệ GIS và công nghệ
multimedia.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu, phát triển Atlas ở Việt Nam
Ở Việt Nam, có thể chia làm 3 giai đoạn phát triển Atlas như
sau: giai đoạn 1: thời kỳ phong kiến; giai đoạn 2: thời kỳ pháp thuộc;
giai đoạn 3: từ 1945 đến nay. Trong giai đoạn 1 cần phải kể đến tập
bản đồ Hồng Đức, đây là tập bản đồ đầu tiên ở nước ta. Sau năm
1958 dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, việc thành lập các bản đồ và
Atlas ở nước ta chủ yếu là do người pháp thực hiện, nhằm phục vụ
cho công tác điều tra và quản lý của họ.
Đến nay nhiều tỉnh, thành phố đã ứng dụng công nghệ bản đồ số
và GIS để thành lập các Atlas điện tử: Atlas điện tử Bắc Ninh, Lào
Cai, Đồng Nai, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Phú Thọ,... nhằm phục vụ
cho việc quy hoạch và phát triển KTXH của mỗi địa phương.
Nhà xuất bản Tài nguyên, Môi trường và Bản đồ Việt Nam đã
xuất bản nhiều Atlas như: Atlas lịch sử Việt Nam [17]; Atlas Kinh
tế xã hội Việt Nam[18]; Atlas Giao thông [19]; Atlas thế giới [20];
Atlas hành chính Việt Nam[21],…
5
1.1.3. Tình hình nghiên cứu xây dựng Atlas thành phố Hà Nội
+ Theo công nghệ truyền thống đáng chú ý là các công trình:
Atlas Hà Nội [22] xuất bản năm 1984; Atlas thông tin địa lý thành
phố Hà Nội [36] năm 2002; Atlas dân số, gia đình và trẻ em [23];
Atlas đường phố Hà Nội [24]; Atlas Thăng Long - Hà Nội [10],…
+ Theo công nghệ của Mapinfo và được phát triển trên nền tảng
công nghệ MapXtreme, một số các tác giả đã nghiên cứu khẳng định
phương pháp và khả năng ứng dụng của nó như: PGS.TS Nhữ Thị
Xuân năm 2010 [49]; NCS. Bùi Ngọc Quý [32][54],…
+ Theo công nghệ của hãng ESRI, TS Đoàn Thị Xuân Hương
[82], NXB Tài Nguyên, Môi trường và Bản đồ Việt Nam cũng đã
nghiên cứu và thực nghiệm phát hành các bản đồ lên mạng internet.
1.2. Khái quát về Atlas điện tử
Theo cách hiểu đơn giản thì Atlas điện tử là một loại Atlas được
xây dựng và sử dụng chủ yếu trên máy tính điện tử - đây chính là
định nghĩa được Eva Siekierska [58] đưa ra vào năm 1984 và đã
được hội bản đồ thế giới ICA chấp nhận.
1.3. Khái quát về Atlas mạng – Web Atlas
1.3.1. Khái quát về Web map
1.3.1.1. Web - Môi trường mới cho xuất bản bản đồ
Hiện nay, khi mạng Internet đã phát triển khá rộng rãi thì World
Wide Web (WWW) là phương tiện mới nhất để trình bày và hiển thị
các dữ liệu không gian địa lý với nhiều ưu thế. Người ta sử dụng
WWW cho quá trình xuất bản các bản đồ [64] để tạo ra các bản đồ
mạng (web map) hay tập bản đồ mạng (Web Atlas).
1.3.1.2. Web map như một dịch vụ web
Web map là một dịch vụ cung cấp bản đồ số trên Web. Hiện
nay, Dịch vụ bản đồ theo chuẩn mở Web Map Service bao gồm:
6
Web Map Server là phần dịch vụ bản đồ chạy trên Server, nó có
nhiệm vụ tạo bản đồ và trả lời các câu truy vấn của Web Map Client.
Web Map Client có chức năng gửi các yêu cầu đến Web Map
Server về các thuộc tính của bản đồ hay yêu cầu hiển thị bản đồ dưới
dạng một URL.
1.3.2. Khái quát về Web Atlas
Web Atlas là một dạng của Atlas điện tử, được thiết kế và xây
dựng cho mục đích phát hành trên mạng Internet. Các hệ thống Web
Atlas sau khi thiết kế và xây dựng hoàn thiện có thể sử dụng các
trình duyệt Internet như: Firefox, Internet Explore, Google
Chrome,... để sử dụng thông qua cơ sở hạ tầng mạng Internet.
1.3.3. Đặc điểm chung của Web Atlas.
+ Về tổng thể Web Atlas là một sản phẩm phải đáp ứng các tiêu
chuẩn như một Atlas truyền thống.
+ Atlas phải được xây dựng trên cơ sở phối hợp và sử dụng các
công nghệ bản đồ và các công nghệ tin học hiện đại.
+ Nội dung phong phú và đa dạng, có tính hệ thống và nhất
quán cao theo mục đích và chủ đề đã định, có thể kết hợp sử dụng kỹ
thuật đa phương tiện.
+ Các bản đồ được hiển thị rất linh hoạt theo các chuỗi tỷ lệ
khác nhau và mức độ chi tiết khác nhau.
Ngoài ra Web Atlas còn bao gồm các đặc điểm của bản đồ số.
1.3.4. Các loại Web Atlas
1.3.4.1. Phân loại theo các tiêu chí truyền thống
1.3.4.2. Phân loại theo các tiêu chí mới (hiện đại) gồm: Các Web
Atlas tĩnh, Các Atlas tương tác (Interactive), Các Web Atlas phân
tích, Các Web Atlas động, Các Web Atlas mở.
1.3.5. Tính ưu việt của Web Atlas
7
1.3.5.1. Về sự thể hiện nội dung
Web Atlas có thể thể hiện nội dung linh hoạt và mang tính
tương tác cao, có thể kết hợp với các thành phần đa phương tiện như:
âm thanh, hình ảnh, bài viết,…
1.3.5.2. Về hiệu quả sử dụng
- Thực hiện nhanh chóng các phép toán thống kê số liệu, đo đạc
chính xác toạ độ, chu vi, diện tích, khoảng cách,... có khả năng tìm
kiếm thông tin, có thể tạo các biểu đồ, báo cáo từ CSDL.
Các phân tích thông tin từ CSDL của Web Atlas luôn cho các
kết quả có độ chính xác cao hơn, khách quan hơn.
Có thể sử dụng Web Atlas bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu miễn
là có thể kết nối với mạng Internet.
1.3.5.3. Về khả năng lưu trữ, quản lý và cập nhật thông tin
Việc cập nhật, hiệu đính Web Atlas có thể thực hiện gần như
bất kỳ lúc nào ta muốn; do đó, tính hiện đại và chính xác của Web
Atlas luôn luôn được đảm bảo[47].
1.4. Vai trò của Web Atlas trong khoa học và thực tiễn
Trong khoa học: Nghiên cứu địa lý, thế giới khách quan, khai
thác các thông tin chi tiết, đa chiều, đa chỉ tiêu, đa thời gian, nhờ đó
mà kết quả nghiên cứu đáng tin cậy hơn.
Trong thực tiễn: Hỗ trợ công tác quản lý, ra quyết định đúng
đắn, kịp thời nhờ khả năng phân tích và tương tác Web Atlas với
người sử dụng.
1.5. Những vấn đề được giải quyết trong luận án
Nghiên cứu, hoàn thiện cơ sở khoa học xây dựng Web Atlas hỗ
trợ công tác QLHC; Xây dựng mô hình công nghệ và các giải pháp
kỹ thuật xây dựng Web Atlas hỗ trợ công tác QLHC; Triển khai thực
nghiệm xây dựng Web Atlas hành chính Hà Nội.
8
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ KHOA HỌC THÀNH LẬP WEB ATLAS
HỖ TRỢ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH
2.1. Cơ sở lý thuyết Web Atlas
2.1.1. Thiết kế Web Atlas.
2.1.1.1. Nguyên tắc chung
Web Atlas là sản phẩm của bản đồ học ứng dụng tin học nói
chung và Internet nói riêng. Do đó, khi thiết kế phải đảm bảo các yêu
cầu khoa học và tính năng kỹ thuật của cả ba lĩnh vực trên.
2.1.1.2. Thiết kế bố cục, giao diện Web Atlas
Giao diện của trang chủ được thiết kế tuỳ thuộc vào từng tác
giả, tuy nhiên giao diện của từng trang bản đồ được thiết kế như
nhau cho tất cả các trang trong mỗi Web Atlas. Các trang nội dung
chính thường được bố cục chung như sơ đồ sau:
Trong đó:
+ A: là phần giới thiệu chung, tiêu đề của Web Atlas.
+ B: là danh mục bản đồ của Web Atlas.
+ C: Phần hiển thị các trang bản đồ .
+ D: phần thông tin thể hiện cho bản đồ đang thể hiện.
+ E: đường dẫn để xem tiếp hoặc quay lại các trang bản đồ.
2.1.1.3. Nguyên tắc thiết kế bản đồ đa tỷ lệ
Các tiêu chí để thiết kế bản đồ đa tỷ lệ trong Web Atlas gồm:
C
A
E
B D
Hình 2-1. Bố
cục, giao diện
chung của các
Web Atlas
9
+ Tỷ lệ thu phóng cho phép của công nghệ thiết kế.
+ Kích thước cửa sổ bản đồ trong giao diện được thiết kế.
+ Diện tích lãnh thổ và tỷ lệ của dữ liệu đầu vào.
Tuy nhiên cần phải đảm bảo 3 loại tỷ lệ hiển thị:
+ Tỷ lệ nhỏ nhất cần phải thể hiện được toàn vẹn lãnh thổ trong
khuôn khổ kích thước thiết kế cho bản đồ.
+ Tỷ lệ lớn nhất đúng với tỷ lệ của bản đồ gốc cho phép hiển thị
chi tiết hóa các thông tin của bản đồ.
+ Tỷ lệ trung bình là mức thu phóng giữa hai loại tỷ lệ trên.
2.1.1.4. Thiết kế các thành phần đa phương tiện
Việc thiết kế kỹ thuật các thành phần đa phương tiện bao gồm
các công việc như: thu thập, phân tích xử lý dữ liệu và tạo lập CSDL
các thành phần đa phương tiện.
2.1.1.5. Thiết kế nội dung
Ngoài các yếu tố nội dung được thiết kế giống như các yêu cầu
đối với Atlas truyền thống như: thiết kế cơ sở toán học, nền cơ sở địa
lý, nội dung chính, phụ cũng như các nội dung bổ trợ khác,… khi
thiết kế nội dung của Web Atlas cần phải xây dựng cơ sở dữ liệu các
thông tin thuộc tính cho các đối tượng bản đồ, phục vụ cho việc tìm
kiếm và phân tích thông tin trên nền GIS sau này.
2.1.1.6. Phương pháp trình bày thể hiện nội dung bản đồ
Thông thường trong khoa học bản đồ người ta thường sử dụng
10 phương pháp cho thể hiện các nội dung của bản đồ chuyên đề.
Tuy nhiên, không phải bất cứ bản đồ nào cũng áp dụng tất cả các
phương pháp, vì vậy trước khi sử dụng các phương pháp để biểu thị
nội dung bản đồ cần phải nghiên cứu đặc điểm của từng đối tượng
và phương pháp thể hiện để sử dụng sao cho hợp lý, khoa học.
2.1.1.7. Ký hiệu bản đồ
10
Thực chất ký hiệu bản đồ chính là phương tiện để thể hiện nội
dung thông tin của bản đồ. Trong bản đồ web các ký hiệu có thể được
sử dụng với nhiều khác biệt hơn so với bản đồ giấy. Chẳng hạn như các
ký hiệu có thể kết nối với các thông tin nằm ẩn bên trong nhờ việc kết
hợp của bản đồ với các thông tin trong một hệ thống thông tin địa lý;
hay ký hiệu có thể biến đổi hình dạng, kích thước khi nhấp chuột vào,...
2.1.1.8. Màu sắc sử dụng trên bản đồ web
A. Màu sắc trên bản đồ Web
Màu sắc trên các bản đồ web phụ thuộc chủ yếu vào người thiết
kế bản đồ. Tất cả các bản đồ được thiết kế đều chịu ảnh hưởng về
màu sắc theo quan điểm của người lập bản đồ, việc này dẫn đến các
yêu cầu chủ quan về nhìn nhận màu sắc. Tuy nhiên, thực tế các máy
tính của chúng ta đều hiển thị màu sắc phụ thuộc vào cấu hình của
máy (16 bit, 24 bit, 32 bit,…) do đó người thiết kế bản đồ web luôn
cần phải dựa theo các cấu hình phổ biến của các máy tính để thiết kế
màu sắc cho bản đồ.
B. Vai trò của màu sắc trên bản đồ
Sử dụng màu sắc làm tăng lượng thông tin của bản đồ và làm
phong phú nội dung của nó. Màu sắc làm cho tác phẩm bản đồ đẹp
và tăng tính mỹ thuật, nghệ thuật.
C. Các mô hình màu sắc trên máy tính điện tử.
Có rất nhiều các mô hình màu trong thực tế như: Hệ màu RGB;
Hệ màu HLS; Hệ màu CMY,...
2.1.2. Biên tập Web Atlas
2.1.2.1. Biên tập bản đồ
Mục đích chính của công đoạn này chính là tạo ra CSDL bản đồ
theo nội dung đã thiết kế của Web Atlas.
2.1.2.2. Biên tập các thành phần đa phương tiện
11
Các thành phần đa phương tiện cần phải biên tập để đảm bảo
các thuộc tính như: kích thước, màu sắc, các hiệu ứng, độ sáng, độ
tương phản,…để tạo ra một cơ sở dữ liệu đa phương tiện.
2.1.2.3. Lập trình liên kết cơ sở dữ liệu tạo trang Web Atlas
Việc lập trình, liên kết các thành phần của Atlas để tạo ra trang
Web Atlas, bao gồm: Xây dựng mô hình giao diện, chức năng, danh
mục các chương tương ứng với nội dung bản đồ đã thiết kế,…
2.1.3. Cơ sở dữ liệu của Web Atlas
2.2.5.1. Dữ liệu không gian
2.2.5.2. Dữ liệu thuộc tính
2.2.5.3. Dữ liệu đa phương tiện
2.2. Cơ sở công nghệ
2.2.1. Các công nghệ thành lập bản đồ
2.2.1.1. Công nghệ GIS: Là công nghệ cho phép xây dựng và quản lý
CSDL cả về mặt không gian và thuộc tính, bản chất của đối tượng.
2.2.1.2. Công nghệ CAD, graphic: Là công nghệ cho phép thành lập
các bản đồ số dạng vector, đây là các bản đồ được thành lập từ các
phần mềm hỗ trợ thiết kế CAD.
2.2.2. Công nghệ tin học lập trình
Công nghệ tin học và lập trình Web được thực hiện với rất nhiều
các ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, khi xây dựng Web Atlas thì
ngoài việc sử dụng các ngôn ngữ lập trình Web cần phải sử dụng các
hàm, thư viện bản đồ trong quá trình lập trình cho Web Atlas.
2.2.3. Công nghệ mạng toàn cầu -Web
2.2.3.1. Các công nghệ và phương thức quản trị Web Atlas
Web Atlas là một dạng Atlas điện tử được đưa lên mạng
Internet cho mọi người dùng chung. Người dùng có thể truy cập vào
12
các địa chỉ của Web Atlas là có thể khai thác các thông tin của Web
Atlas.
Trên Internet có rất nhiều dịch vụ trong đó có web. Theo định
nghĩa của W3C, dịch vụ web là một hệ thống phần mềm được thiết
kế để hỗ trợ khả năng tương tác giữa các ứng dụng trên các máy tính
khác nhau thông qua mạng Internet.
2.2.3.2. Phương thức và kiến trúc quản lý Web Atlas
Kiến trúc của Web Atlas dựa trên mô hình Client – Server
gồm ba tầng: Tầng CSDL, tầng trung gian và tầng người dùng.
Trong đó tầng 1 và 2 là mô hình Server. Tầng thứ 3 là người dùng sử
dụng. Phương thức khai thác và sử dụng Web Atlas là: kiến trúc
hướng máy khách và kiến trúc hướng máy chủ.
2.2.3.3. Các công nghệ phát hành Web Atlas
Hiện nay có nhiều công nghệ hỗ trợ để đưa các dữ liệu địa lý lên
mạng Internet nhưng đều tập chung vào hai hướng phát triển công
nghệ đó là: công nghệ theo hướng có bản quyền và công nghệ theo
hướng mã nguồn mở.
2.2.4. Các công nghệ hỗ trợ khác
2.2.4.1. Các công nghệ bảo mật dữ liệu
Các phần mềm thương mại đều có cơ chế bảo mật bằng phép mã
hóa dữ liệu để bảo vệ dữ liệu gốc. Các phần mềm chuyên dụng khác
nhau cũng có các modul chuyển đổi thực hiện bảo mật thích hợp cho
từng loại khuôn dạng bản đồ riêng.
2.2.4.2. Công nghệ đóng gói và phát hành sản phẩm
Web Atlas sau khi hoàn thiện sẽ là một website hoàn chỉnh. Cần
phải đăng ký tên miền, chuyển dữ liệu vào Mapserver, cấu hình cho
hệ thống Web Atlas để quản lý, khai thác và đưa lên mạng Internet.
2.2.5. Một số phần mềm thiết kế Web Atlas
2.2.5.1. Phần mềm thương mại
13
2.2.5.2. Phần mềm mã nguồn mở
2.2.6. Lựa chọn phần mềm thiết kế cho Web Aatlas
Trên cơ sở so sánh về ưu nhược điểm cũng như giá thành với
điều kiện hiện tại ở Việt Nam, việc lựa chọn MapXtreme cho xây
dựng Web Atlas hành chính là hoàn toàn khả thi [31].
2.2.6.1. Mô hình kiến trúc Web Atlas trong MapXtreme
Cũng giống như các hệ thống Web GIS khác, mô hình kiến trúc
Web Atlas của MapXtreme là mô hình kiến trúc 3 tầng (mục 2.2.3.2)
2.2.6.2. Các yêu cầu về hệ thống của MapXtreme cho thành lập Web
Atlas chỉ ở mức trung bình so với cấu hình của các máy tính và cơ