Luận án Nghiên cứu một số chỉ số chức năng tim - Mạch, tâm - thần kinh của sinh viên đại học y Thái Bình ở trạng thái tĩnh và sau khi thi

Nhiều năm qua các nhà khoa học luôn cho rằng stress có thể sẽ dẫn đến bệnh tim, tuy nhiên có rất ít chứng cứ y học có thể chứng minh đƣợc điều này. Gần đây các nhà khoa học Anh đã tiến hành nghiên cứu trên 514 đối tƣợng cả nam lẫn nữ ở độ tuổi trung bình 62, trƣớc khi nghiên cứu những đối tƣợng này đều không mắc các chứng bệnh về tim. Các đối tƣợng nghiên cứu đƣợc làm trắc nghiệm stress, đồng thời đƣợc xét nghiệm nồng độ cortisol và chụp cắt lớp vi tính động mạch. Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng xác suất mắc chứng bệnh tích tụ mỡ trong động mạch của những đối tƣợng bị stress cao gấp 2 lần so với những đối tƣợng không bị stress. Nghiên cứu trên đã gợi ý căng thẳng tâm lý có thể là yếu tố nguy cơ dẫn đến các chứng bệnh về động mạch vành [79]. Trên cơ cở nghiên cứu ngang này, Hamer và cộng sự [80] đã tiến hành một nghiên cứu dọc trên 466 đối tƣợng nam và nữ có độ tuổi trung bình 62,7 ±5,6, không có tiền sử tim mạch. Sau 3 năm theo dõi tác giả đã phát hiện có mối liên quan giữa phản ứng cao của cortisol với căng thẳng và tiến triển của vôi hóa động mạch vành (OR= 1,27, 95% CI, 1,02-1,60). Những dữ liệu này ủng hộ quan điểm cho rằng căng thẳng tâm lý gây tăng cortisol (một hormon stress) có thể ảnh hƣởng đến nguy cơ mắc bệnh mạch vành và rối loạn nhịp tim. Cơ chế mà HPA hoạt động ảnh hƣởng trực tiếp đến xơ vữa động mạch vẫn còn chƣa đƣợc hiểu rõ, mặc dù có một số bằng chứng cho thấy tăng mức cortisol máu có thể thúc đẩy viêm quanh mạch [126].

pdf178 trang | Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 1545 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu một số chỉ số chức năng tim - Mạch, tâm - thần kinh của sinh viên đại học y Thái Bình ở trạng thái tĩnh và sau khi thi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé quèc phßng häc viÖn qu©n y nguyÔn thÞ hiªn NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ CHỨC NĂNG TIM - MẠCH, TÂM - THẦN KINH CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC Y THÁI BÌNH Ở TRẠNG THÁI TĨNH VÀ SAU KHI THI LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC HÀ NỘI - 2013 Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé quèc phßng häc viÖn qu©n y nguyÔn thÞ hiªn NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ CHỨC NĂNG TIM - MẠCH, TÂM - THẦN KINH CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC Y THÁI BÌNH Ở TRẠNG THÁI TĨNH VÀ SAU KHI THI Chuyªn ngµnh: Sinh lý häc M· sè: 62 72 01 07 luËn ¸n tiÕn sÜ Y häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: PGS. TS. TrÇn §¨ng Dong PGS. TS. V-¬ng ThÞ Hßa Hµ néi - 2013 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Sức khỏe không chỉ là vốn quí của mỗi cá nhân mà còn là nhân tố quan trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong đó sinh viên là lực lƣợng lao động chất lƣợng cao trong tƣơng lai của xã hội, là “nguyên khí” của mỗi quốc gia, đặc biệt trong nền kinh tế tri thức ngày nay. Chăm sóc sức khỏe cho sinh viên là nhiệm vụ quan trọng không chỉ của nhà trƣờng mà là của toàn xã hội. Thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ tri thức, đòi hỏi không chỉ tăng trƣởng số lƣợng tri thức mà yêu cầu phải có sự thay đổi căn bản cách chiếm lĩnh và sử dụng tri thức của ngƣời đƣợc đào tạo. Thời đại ngày nay, thời đại của sự hội nhập, toàn cầu hóa với sự phát triển vƣợt bậc của khoa học kỹ thuật, cùng với ô nhiễm môi trƣờng và yếu tố nội tại trong cơ thể con ngƣời đã trở thành những tác nhân gây nên stress. Năm 1992, Tổ chức Liên Hợp Quốc đã đƣa ra một bản báo cáo mang tên “Bệnh tật trong thế kỷ XX”, trong đó có việc cảnh báo stress có thể mang nhiều nguy cơ gây hại cho cuộc sống của con ngƣời ở thế kỷ XXI [108]. Stress tác động tới mọi tầng lớp trong xã hội, trong đó có sinh viên. Cuộc sống của sinh viên ở các trƣờng đại học có nhiều yếu tố gây căng thẳng (stressor) thần kinh - tâm lý, đặc biệt là đối với sinh viên các trƣờng đại học Y. Ngoài các stressor chung ở mọi sinh viên (điều kiện sinh hoạt, học tập...), sinh viên các trƣờng đại học Y là những ngƣời có thời gian học tập tại trƣờng dài nhất với khối lƣợng kiến thức lý thuyết và thực hành rất lớn cùng với nhiều kỳ thi, do đó chịu nhiều áp lực gây căng thẳng chức năng tâm lý cao và trƣờng diễn [60], [81], [84], [85]. Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy các stressor có thể làm thay đổi chức năng hệ thống miễn dịch, thần kinh, tim mạch và nội tiết của con ngƣời [58], [93], [94], [99], [103], [114], [119], [131]. Tuy nhiên các tác động đó không phải tất cả là tiêu cực, nhiều nghiên cứu xác nhận trạng thái stress có mức độ nhất định lại làm tăng khả năng tự 2 xoay xở với đòi hỏi thích nghi môi trƣờng, nhờ thế tạo điều kiện phát triển tâm lý. Cuộc sống không có stress sẽ không có thách thức đòi hỏi phải vƣợt qua, nên hạn chế việc nâng cao năng lực và trau dồi trí tuệ. Stress là hiện thực của cuộc sống, vì vậy chúng ta cần phải hiểu sự đáp ứng của cơ thể trong từng trạng thái căng thẳng. Muốn vậy phải lƣợng hóa đƣợc mức độ stress bằng các chỉ số đo lƣờng khách quan. Ở Việt nam đã có một số công trình nghiên cứu về stress nghề nghiệp của các nhà khoa học thuộc Viện Khoa học kỹ thuật Bảo hộ lao động, Viện Y học lao động và Vệ sinh dịch tễ, các nhà khoa học một số trƣờng đại học [6], [10], [18], [23]. Vấn đề stress ở học sinh, sinh viên cũng đang đƣợc một số nhà khoa học quan tâm bởi những hệ quả do stress gây ra nhƣ trầm cảm, lạm dụng chất gây nghiện, có hành vi gây hấn hoặc thậm chí tự sát. Căng thẳng mạn tính ảnh hƣởng đến khả năng giải quyết vấn đề cần đòi hỏi phải tƣ duy linh hoạt [84]. Tuy nhiên còn rất ít nghiên cứu về đáp ứng của hệ thống nội tiết, tim mạch và thần kinh của cá thể với trạng thái căng thẳng, trong đó có đối tƣợng là sinh viên. Xuất phát từ lý do nêu trên, chúng tôi tiến hành đề tài "Nghiên cứu một số chỉ số chức năng tim - mạch , tâm - thần kinh của sinh viên Đại học Y Thái Bình ở trạng thái tĩnh và sau khi thi" nhằm góp phần xây dựng một số chỉ số sinh học ngƣời Việt Nam hiện nay, làm cơ sở khoa học giúp các nhà giáo dục và y tế tìm các giải pháp giảm bớt căng thẳng, duy trì sức khỏe thể chất, tinh thần và học tập tốt hơn cho sinh viên. Đề tài đƣợc tiến hành với các mục tiêu sau: 1. Xác định một số chỉ số tim - mạch, tâm - thần kinh ở trạng thái tĩnh của sinh viên Đại học Y Thái Bình. 2. Đánh giá một số chỉ số tim - mạch, tâm - thần kinh và nội tiết tố sau hoạt động trí tuệ (sau buổi thi) của sinh viên Đại học Y Thái Bình. 3 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. MỘT SỐ CHỈ SỐ CHỨC NĂNG TIM-MẠCH Nhiều công trình của các tác giả trên thế giới cũng nhƣ trong nƣớc đã sử dụng các chỉ số tim mạch để đánh giá trạng thái căng thẳng chức năng vì sự thay đổi nhịp tim là phản ứng tổng hợp của toàn bộ cơ thể đối với bất kỳ tác động nào của môi trƣờng bên ngoài. Những năm gần đây, ngoài phƣơng pháp sử dụng những chỉ số đơn giản của hệ tim mạch nhƣ tần số nhịp tim (TSNT) và huyết áp (HA), một số tác giả đã sử dụng các chỉ số thống kê toán học nhịp tim (TKTHNT) của Baevski và cs [133] để đánh giá chức năng tim. Một số nghiên cứu [18], [19], [20], [132], [133], [134] cho thấy căng thẳng trí tuệ và stress cấp tính gây tăng chỉ số căng thẳng và giảm sự dao động nhịp tim. 1.1.1. Tần số mạch và huyết áp *Tần số mạch Tần số mạch hay tần số tim là số lần tim đập trong một phút. Bình thƣờng tần số tim ở ngƣời trƣởng thành là 70 - 80 lần/phút, thông số này ở nữ cao hơn so với ở nam trong cùng một độ tuổi. Tần số tim thay đổi dƣới tác động của nhiều yếu tố. Làm việc căng thẳng gây tăng nhịp tim là do kích thích hệ thần kinh giao cảm, đồng thời gây ức chế các tín hiệu của dây X tới tim. Lao động trí óc chịu tác động của nhiều yếu tố stress dễ dẫn đến tăng nhịp tim, tăng huyết áp, vữa xơ động mạch [79], [80]. Hoạt động của tim luôn thay đổi để phù hợp với nhu cầu của cơ thể. Tim có tính thích nghi và đáp ứng với căng thẳng là nhờ có cơ chế tự điều hòa và cơ chế thần kinh - thể dịch. Trong điều hòa theo cơ chế thần kinh thì hệ thần kinh tự chủ có vai trò quan trọng. 4 Hệ thần kinh phó giao cảm có trung tâm điều hòa hoạt động tim nằm ở hành não, đó là nhân của dây thần kinh số X. Các sợi trƣớc hạch của dây X đi tới hạch phó giao cảm nằm ngay trong cơ tim, các sợi sau hạch phó giao cảm chi phối hoạt động của nút xoang và nút nhĩ - thất. Tác dụng của hệ phó giao cảm đối với hoạt động của tim là giảm tần số tim, giảm lực co bóp cơ tim, giảm trƣơng lực cơ tim, giảm tốc độ dẫn truyền xung động trong tim và giảm tính hƣng phấn của cơ tim. Hệ thần kinh phó giao cảm tác dụng lên tim thông qua hóa chất trung gian là acetycholin. Hệ thần kinh giao cảm có trung tâm điều hòa hoạt động tim nằm ở sừng bên chất xám tủy sống đoạn lƣng 1-3, từ đây có các sợi thần kinh đi tới hạch giao cảm nằm gần cột sống. Cũng có một số sợi xuất phát từ sừng bên chất xám tủy sống đoạn các đốt sống cổ 1-7 đi đến hạch giao cảm. Các sợi sau hạch đi tới nút xoang, nút nhĩ - thất và bó His. Kích thích của dây giao cảm đến tim gây ra các tác dụng ngƣợc với tác dụng của dây X, cụ thể là tăng tần số, tăng lực co bóp, tăng trƣơng lực cơ tim, tăng tốc độ dẫn truyền xung động trong tim, tăng tính hƣng phấn và tăng dinh dƣỡng cơ tim. Hệ thần kinh giao cảm tác dụng lên hoạt động tim thông qua hóa chất trung gian là noradrenalin. Ngoài hệ thần kinh thực vật còn có các phản xạ điều hòa hoạt động tim xuất phát từ vỏ não cùng một số trung tâm thần kinh khác. Dƣới ảnh hƣởng của các yếu tố lên vỏ não thƣờng tạo các cảm xúc mạnh, gây hồi hộp, sợ hãi và làm biến đổi nhịp tim. Khi hồi hộp thƣờng làm cho tim đập nhanh, khi quá sợ hãi hoặc quá xúc động nhịp tim có thể tăng lên, nhƣng cũng có khi tim đập chậm, thậm chí ngừng đập. Hoạt động tim còn đƣợc điều hòa bằng cơ chế thể dịch. Hormon T3, T4 của tuyến giáp, adrenalin của tuyến tủy thƣợng thận có tác dụng làm tim đập nhanh. Nồng độ khí oxy giảm, CO2 tăng trong máu động mạch cũng làm tim đập nhanh. Nồng độ ion Ca2+ trong máu tăng làm tăng trƣơng lực cơ tim. 5 Nồng độ K+ trong máu tăng làm giảm trƣơng lực cơ tim. pH của máu giảm làm tim đập nhanh. Nhiệt độ cơ thể tăng làm tim đập nhanh. Ngƣợc lại nhịp tim giảm trong hạ nhiệt nhân tạo (trong mổ tim phải hạ nhiệt nhân tạo xuống còn 250C - 300C để cơ thể có thể chịu đựng đƣợc với sự thiếu oxy) [38]. *Huyết áp Động lực chính làm máu lƣu thông trong động mạch là huyết áp. Huyết áp là áp lực của máu trong một đoạn mạch nhất định. Huyết áp động mạch đƣợc tạo ra bởi hai lực: áp lực do tâm thất thu tống máu ra khỏi tim và phản lực do tính đàn hồi của thành động mạch. Đây là hai lực ngƣợc chiều nhau và cân bằng nhau, cùng có tác dụng đẩy máu đi. Huyết áp tâm thu là trị số huyết áp cao nhất trong chu kỳ hoạt động của tim, đo đƣợc trong lúc tâm thu. Thông số này đánh giá lực co của tâm thất là chính. Trị số bình thƣờng là 110 mmHg, giới hạn từ 90 - <140 mmHg. Huyết áp tâm trƣơng là trị số huyết áp thấp nhất trong chu kỳ hoạt động của tim, đo đƣợc trong lúc tâm trƣơng. Thông số này phản ánh trƣơng lực của động mạch. Trị số bình thƣờng là 70 mmHg, giới hạn từ 60 - <90 mmHg. Đó là các mốc đánh giá huyết áp thấp hay tăng huyết áp [16], [38]. Nhiều tác giả đã ứng dụng phƣơng pháp đánh giá chức năng tim mạch thông qua tần số nhịp tim và huyết áp trong nghiên cứu trên các đối tƣợng thuộc các ngành nghề khác nhau. Theo Pickering [105], huyết áp động mạch đƣợc xem là chỉ số khá tin cậy để đánh giá stress cấp tính trong điều kiện tự nhiên. Nghiên cứu của tác giả cho thấy đi bộ làm tăng huyết áp tâm thu khoảng 12 mmHg, trong cuộc họp huyết áp tâm thu tăng 20 mmHg, nói chuyện điện thoại huyết áp có thể tăng 10 mmHg và khi ngủ huyết áp tâm thu có thể giảm 10 mmHg .Vrijkotte T.G. [125] đã ghi Holter điện tim 2 ngày làm việc và 1 ngày không làm việc cho 109 nam lao động trí óc. Kết quả cho thấy nhịp tim khi làm việc tăng cao 6 hơn so với sau khi làm việc và gánh nặng công việc làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch. Munataka M. [100] nghiên cứu trên 18 y tá, tuổi trung bình là 29±2 cho thấy huyết áp tâm thu và nhịp tim trong thời gian làm ca đêm thấp hơn so với làm ca ngày, sự khác biệt có ý nghĩa với p<0,05. Một số nghiên cứu trên thế giới cho thấy kiểm tra, thi cử gây căng thẳng chức năng tâm lý, làm thay đổi một số chức năng của cơ thể, trong đó có chức năng tim mạch của con ngƣời [73], [92], [99], [125], [130], [131]. Nghiên cứu của Droogleever [70] trên các nghiên cứu sinh Hà Lan cho thấy mặc dù huyết áp thay đổi không đáng kể do căng thẳng trong lúc thi, nhƣng mật độ thụ thể benzodiazepine ngoại vi, allopregnanolon và nồng độ cortisol ở các nghiên cứu sinh tăng lên đáng kể. Makarenco và cs. [95] nghiên cứu tính nhịp điệu của tim trên sinh viên theo các đặc tính cá nhân và các loại hình thần kinh trong suốt quá trình kiểm tra căng thẳng cho thấy giảm ảnh hƣởng của thần kinh phó giao cảm trên nhịp tim, kích thích chuyển hóa và tăng hoạt động của thần kinh giao cảm. Nghiên cứu chỉ ra rằng sức chịu đựng và loại phản ứng thần kinh thực vật của sinh viên đối với căng thẳng kỳ thi đƣợc quyết định bởi đặc tính cá nhân và các loại hình thần kinh cùng với trạng thái tâm lý ban đầu. Ở Việt Nam, nhiều tác giả đã sử dụng phƣơng pháp đánh giá chức năng tim mạch thông qua tần số nhịp tim và huyết áp trong các dạng lao động có căng thẳng thần kinh tâm lý cao nhƣ lao động của phi công, bộ đội, cảnh sát, nhân viên y tế, điều độ viên chỉ huy chạy tàu, nhân viên vận hành các máy móc tự động, điều phối viên không lƣu [6], [18], [20], [22], [23]. Nhƣ vậy phƣơng pháp đo tần số nhịp tim (tần số mạch) và huyết áp đƣợc nhiều tác giả trong và ngoài nƣớc ứng dụng trong các nghiên cứu ở các dạng lao động khác nhau để đánh giá chức năng tim mạch cho ngƣời lao động. 7 1.1.2. Chỉ số thống kê toán học nhịp tim và các nghiên cứu Những năm gần đây các nhà y học và sinh lý học đã và đang cố gắng nghiên cứu tìm ra các thông số tim mạch có giá trị để đánh giá, phân loại khả năng lao động (KNLĐ) cá thể, từ đó tuyển chọn đối tƣợng có khả năng thích nghi (KNTN) với một số nghề nghiệp đặc biệt. Hiện nay các nhà nghiên cứu thƣờng sử dụng phƣơng pháp thống kê toán học nhịp tim để phân tích sự dao động của các khoảng RR của nhịp tim theo thời gian. Nghiên cứu trên thế giới về dao động nhịp tim Năm 1966, tại Moskva đã tổ chức hội nghị chuyên đề về vấn đề "Ứng dụng các phƣơng pháp toán học để phân tích nhịp tim". Tại đây nhiều báo cáo về ứng dụng các phƣơng pháp phân tích toán học nhịp tim (THNT) để tiếp tục hoàn thiện các phƣơng pháp chẩn đoán và để dự báo trạng thái chức năng hệ tim mạch cũng nhƣ trạng thái chức năng chung của cơ thể, đặc biệt cho các nhà du hành vũ trụ trong chuyến đi dài ngày. Theo Baevski [132] thì chức năng hệ tim mạch thay đổi đƣợc coi là chỉ tiêu đánh giá phản ứng thích nghi của toàn bộ cơ thể, còn nhịp tim là hiệu quả của sự điều khiển của thần kinh nội tiết. Phƣơng pháp phân tích THNT là phƣơng pháp định lƣợng của phản ứng thích nghi mà các nhà y học và sinh lý học rất quan tâm. Baevski và cs [133] đã đƣa ra nguyên lý chung để nghiên cứu biến động nhịp tim và các chỉ số thống kê toán học nhịp tim (TKTHNT). Một số chỉ số TKTHNT đặc trƣng cho dao động của 100 khoảng RR liên tiếp của nhịp tim hay đƣợc sử dụng là: - Tần số tim (TST) trung bình của 100 khoảng RR liên tiếp, tính bằng nhịp /phút là chỉ số đặc trƣng cho hoạt động của hệ tim mạch. Đây là thông số cân bằng nội môi của cơ thể. Sự biến đổi của TSNT so với tiêu chuẩn của cá thể nói lên sự tăng gánh nặng đối với bộ máy tuần hoàn hoặc có thay đổi 8 bệnh lý. TSNT= 60/RRtb (RRtb là thời gian trung bình của 1 khoảng RR tính bằng giây, RRtb = tổng số RR/100). - Độ lệch chuẩn của 100 khoảng RR liên tiếp (SD), tính bằng giây là một trong những chỉ số chính của dao động nhịp tim, đặc trƣng cho trạng thái cơ chế điều khiển. Nó chỉ ra ảnh hƣởng tổng hợp của hệ thần kinh thực vật đến nút xoang của tim. Tăng hay giảm chỉ số này nói lên sự dịch chuyển của cân bằng nội môi hƣớng về thần kinh phó giao cảm hay thần kinh giao cảm. - Hệ số biến thiên của 100 khoảng RR (V= SD /RRtb), tính bằng giây. Ý nghĩa sinh lý của thông số này giống chỉ số SD và là chỉ số đƣợc tiêu chuẩn hóa theo TSNT. - Mod của 100 khoảng RR liên tiếp (Mo), tính bằng giây là giá trị khoảng RR gặp nhiều nhất trong 100 khoảng RR. Mo chỉ ra khả năng hoạt động của hệ tuần hoàn (chính xác hơn là của nút xoang) và trong quá trình tƣơng đối tĩnh tại, nó trùng với X trung bình. - Biên độ của Mod (AMo), tính bằng % là số lƣợng khoảng RR có giá trị gặp nhiều nhất (Mo) trong 100RR. Chỉ số này biếu thị hiệu quả ổn định điều khiển nhịp tim mức trung ƣơng. - Khoảng dao động của RR tối đa và tối thiểu (X= RR tối đa - RR tối thiểu) tính bằng giây, chỉ ra mức độ dao động tối đa của khoảng RR. Đối với quá trình tĩnh tại, chỉ số X tƣơng tự nhƣ chỉ số SD. - Chỉ số căng thẳng (CSCT) - đơn vị điều kiện là chỉ số bậc 2 đƣợc tính từ các chỉ số trên, nó đặc trƣng cho mức độ của điều khiển nhịp tim từ trung ƣơng. CSCT = AMo/2. X.Mo Các chỉ số X, AMo, SD,V, CSCT đặc trƣng cho trạng thái của hệ thần kinh thực vật (hay còn gọi là điều khiển tự động). Phƣơng pháp phân tích thống kê toán học đánh giá dao động nhịp tim đƣợc ứng dụng rộng rãi nhằm xác định trạng thái cân bằng hệ thần kinh thực 9 vật; quan hệ hoạt động tƣơng hỗ giữa thần kinh giao cảm và phó giao cảm; mức điều khiển tự động và mức điều khiển trung ƣơng của hệ thần kinh thực vật, cụ thể là: AMo, CSCT cao và X, SD ,V thấp là biểu hiện điều khiển nhịp tim mức trung ƣơng, ngƣợc lại, AMo, CSCT thấp và X, SD,V cao là biểu hiện điều khiển nhịp tim mức tự động [120]. Nhiều nghiên cứu cho thấy các chỉ số thống kê toán học nhịp tim cho nhiều thông tin tốt để đánh giá trạng thái chức năng của cơ thể. Chúng là chỉ số dự báo khả năng thích nghi nghề nghiệp, năng lực và hiệu quả hoạt động nghề nghiệp để từ đó tuyển chọn đối tƣợng có khả năng thích nghi tốt với một số điều kiện lao động, đặc biệt là những nghề nghiệp có trạng thái căng thẳng cảm xúc cao [132], [134], [135], [136], [137], [138]. Baevski [132] đã áp dụng phƣơng pháp phân tích toán học nhịp tim để nghiên cứu diễn biến nhịp tim của các nhà du hành vũ trụ với mục đích dự báo những khả năng biến đổi trạng thái cơ thể của họ. Kết quả bƣớc đầu cho thấy những đối tƣợng có biểu hiện KNTN kém hơn trong điều kiện thử nghiệm dƣới mặt đất (biểu hiện trội điều khiển giao cảm hơn) thì sau 3 ngày, trong chuyến bay thật có rối loạn điều khiển nhịp tim nhiều hơn so với đối tƣợng có biểu hiện thích nghi tốt hơn (điều khiển trội phó giao cảm hơn). Zemaichiche [134] cho rằng con ngƣời tăng KNTN phụ thuộc vào mức độ tăng điều khiển phó giao cảm trong quá trình rèn luyện. Giảm ảnh hƣởng của điều khiển phó giao cảm đồng thời tăng điều khiển giao cảm khi lao động thể lực và căng thẳng về cảm xúc dẫn tới giảm KNTN đƣợc biểu hiện ở sự thay đổi các chỉ số TKTHNT. Zatsiorxki [135] đã sử dụng đặc điểm TKTHNT để đánh giá ảnh hƣởng của điều kiện môi trƣờng (nhiệt độ cao, tiếng ồn cao) lên chức năng điều khiển nhịp tim. Tác giả thấy rằng có mối liên quan giữa yếu tố stress nghề nghiệp, tác hại nghề nghiệp với giảm dao động nhịp tim thể hiện qua các chỉ 10 số thống kê toán học nhịp tim nhƣ giảm độ lệch chuẩn của 100RR (SD), tăng chỉ số căng thẳng (CSCT). Gevorkian E. và cộng sự [75] nghiên cứu ảnh hƣởng của căng thẳng thần kinh cảm xúc trƣớc thi của sinh viên đối với chức năng điều khiển nhịp tim theo phƣơng pháp của Baevski cho thấy những sinh viên có điểm căng thẳng cảm xúc Spielberger càng cao thì chỉ số căng thẳng tim mạch càng cao. Các phản ứng này phụ thuộc vào đặc tính của từng cá nhân và hoạt động của hệ thống thần kinh tự chủ. Nghiên cứu tại Việt Nam về dao động nhịp tim Ở nƣớc ta trong những năm gần đây, phƣơng pháp nghiên cứu dao động nhịp tim bằng các chỉ số TKTHNT bƣớc đầu đã đƣợc ứng dụng để đánh giá mức căng thẳng chức năng và căng thẳng hệ tim mạch trong quá trình lao động [18], [19], [20], [21], [22], [23], [45]. Nghiên cứu của Nguyễn Thu Hà [18] về sự căng thẳng tim mạch trên nhân viên y tế cho thấy có mức căng thẳng cao (mức 3/4) với chỉ số căng thẳng là 239 và khả năng thích nghi kém với độ lệch chuẩn là 0,038. Trần Thanh Hà [20] đã áp dụng phƣơng pháp phân tích TKTHNT để nghiên cứu dự báo khả năng lao động của bộ đội tiêu binh. Kết quả cho thấy nhóm tiêu binh có khả năng thích nghi kém nhất với nghề nghiệp thì có chỉ số TKTHNT ở trạng thái tĩnh đạt mức CSCT cao nhất, X thấp nhất, SD ở mức quá căng thẳng (mức 3/4). Đặc biệt tất cả các đối tƣợng đã bị ngất trong lúc làm nhiệm vụ đều có chỉ số dao động nhịp tim ở mức quá căng thẳng (SD<0,04 và V<0,056 theo phân loại của Baevski) và có biểu hiện rối loạn điều hoà nhịp tim dạng trội giao cảm. Nhƣ vậy, nghiên cứu dao động nhịp tim dựa trên các chỉ số TKTHNT cho phép đánh giá mức căng thẳng chức năng của cơ thể và hệ tim mạch do 11 các yếu tố stress trong cuộc sống và trong lao động gây ra, đồng thời có thể dự báo khả năng thích nghi nghề nghiệp của đối tƣợng. 1.1.3. Stress và nguy cơ các bệnh tim mạch Nhiều năm qua các nhà khoa học luôn cho rằng stress có thể sẽ dẫn đến bệnh tim, tuy nhiên có rất ít chứng cứ y học có thể chứng minh đƣợc điều này. Gần đây các nhà khoa học Anh đã tiến hành nghiên cứu trên 514 đối tƣợng cả nam lẫn nữ ở độ tuổi trung bình 62, trƣớc khi nghiên cứu những đối tƣợng này đều không mắc các chứng bệnh về tim. Các đối tƣợng nghiên cứu đƣợc làm trắc nghiệm stress, đồng thời đƣợc xét nghiệm nồng độ cortisol và chụp cắt lớp vi tính động mạch. Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng xác suất mắc chứng bệnh tích tụ mỡ trong động mạch của những đối tƣợng bị stress cao gấp 2 lần so với những đối tƣợng không bị stress. Nghiên cứu trên đã gợi ý căng th
Luận văn liên quan