Luận án Nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam Bộ dưới góc nhìn bối cảnh

Nghiên cứu VHDG Việt Nam đã có bề dày lịch sử, nhất là sau năm 1945, và đạt nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Trong đó nổi bật là những công trình khảo sát thể loại văn học dân gian ở các vùng miền trong nước và các công trình lí thuyết đi sâu vào tổ chức, cấu trúc thể loại. Đối với lĩnh vực nghiên cứu truyện dân gian, có thể thấy những kết quả đạt được chủ yếu dựa trên hệ thống phương pháp tiếp cận truyền thống theo lối ngữ văn, nghĩa là khảo sát qua văn bản

doc281 trang | Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 2029 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam Bộ dưới góc nhìn bối cảnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ------------------------- Huỳnh Vũ Lam NGHIÊN CỨU TRUYỆN DÂN GIAN KHMER NAM BỘ DƯỚI GÓC NHÌN BỐI CẢNH LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Tp. Hồ Chí Minh, Năm 2015 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Huỳnh Vũ Lam NGHIÊN CỨU TRUYỆN DÂN GIAN KHMER NAM BỘ DƯỚI GÓC NHÌN BỐI CẢNH LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 62.22.01.21 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1.TS. Hồ Quốc Hùng 2. PGS. TS. Phan Thị Thu Hiền Tp. Hồ Chí Minh, Năm 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Luận án này là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS Hồ Quốc Hùng và PGS. TS. Phan Thu Hiền. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận án này là trung thực. Có một phần kết quả nghiên cứu trong luận án này đã được công bố trong các bài báo khoa học của tôi, còn lại các nội dung khác chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Tác giả Huỳnh Vũ Lam MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục chữ viết tắt DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT VHDG : Văn học dân gian KHXH&NV : Khoa học xã hội và Nhân văn KHTN : Khoa học tự nhiên ĐBSCL : Đồng bằng Sông Cửu Long Nxb. : Nhà xuất bản xb. : xuất bản tr. : trang Tp. HCM : thành phố Hồ Chí Minh HN. : Hà Nội DẪN NHẬP 1. Lí do chọn đề tài Nghiên cứu VHDG Việt Nam đã có bề dày lịch sử, nhất là sau năm 1945, và đạt nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Trong đó nổi bật là những công trình khảo sát thể loại văn học dân gian ở các vùng miền trong nước và các công trình lí thuyết đi sâu vào tổ chức, cấu trúc thể loại. Đối với lĩnh vực nghiên cứu truyện dân gian, có thể thấy những kết quả đạt được chủ yếu dựa trên hệ thống phương pháp tiếp cận truyền thống theo lối ngữ văn, nghĩa là khảo sát qua văn bản. Tuy vậy, những phương pháp tiếp cận theo văn bản truyền thống đối với VHDG ngày càng cho thấy nhiều “bất cập”, mà một trong những điều còn thiếu thuyết phục là chưa chỉ ra được cấu tạo tác phẩm VHDG trong môi trường sinh hoạt cụ thể để thấy được những nguyên tắc hình thành và phát triển của nó trong lịch sử. Bởi lẽ bản chất của tác phẩm VHDG chính là kết quả tương tác giữa yếu tố truyền thống với sinh hoạt đời sống trong bối cảnh cụ thể. Ở đó, người ta vận dụng truyền thống vào hoàn cảnh thực tại, qua tác phẩm, để sản sinh, tiếp nhận và lưu truyền vốn tri thức của dân tộc mình. Do vậy, việc tìm một hướng đi khác để góp phần bổ sung cho hệ thống phương pháp tiếp cận tác phẩm VHDG hiện có là việc làm cần thiết. Để hỗ trợ cho cách nghiên cứu truyền thống như đã nói, việc nghiên cứu truyện dân gian theo vùng văn hoá và tộc người là một hướng tiếp cận khoa học. Trên thực tế ở Việt Nam, nhiều người đã thực hiện theo hướng này và khai mở được một số vấn đề mới trong thời gian gần đây, trong đó có VHDG của người Khmer Nam Bộ. Mặc dù vậy, những công trình sưu tầm trước đây khi thực hiện thường ghi lại văn bản, đặc điểm về người kể, địa điểm, thời gian ghi nhận là chính. Các luận văn, luận án và cả những công trình khoa học khác thường cũng chỉ dừng lại ở góc độ hệ thống các văn bản, bổ sung thêm tư liệu ở địa phương và khảo sát dưới góc độ thi pháp. Công bằng mà nói, khi vận dụng yếu tố văn hoá vùng và tộc người hay khảo sát theo phương pháp nhân học văn hóa, một số công trình cũng đã bước đầu khảo sát sự diễn hoá của tác phẩm VHDG trong những môi trường văn hoá cụ thể. Cách làm này đã mang đến một số nhận thức có ý nghĩa khoa học đáng ghi nhận. Nhưng vận dụng lí thuyết nhân học văn hoá tiến tới quy chuẩn và quy phạm hóa tác phẩm VHDG trong sinh hoạt thực tại vẫn là một thách đố cho công tác nghiên cứu hiện nay theo khuynh hướng này. Ở một góc nhìn khác, lí thuyết nghiên cứu folklore trong bối cảnh du nhập vào Việt Nam tương đối muộn nên việc nghiên cứu lí thuyết và vận dụng vào thực tế vẫn còn chỗ bất cập. Vì vậy, nghiên cứu truyện kể dân gian Khmer trong bối cảnh còn giúp cho giới khoa học có thêm những góc nhìn khác về đời sống của loại hình này cũng như những ưu điểm và giá trị mà nó mang lại. Người Khmer ở Nam Bộ đã cộng cư với người Việt trong nhiều thế kỉ với những mối quan hệ tiếp biến tương hỗ về mặt văn hóa lẫn kinh tế. Nét đặc thù văn hóa của người Khmer Nam Bộ là một môi trường có khả năng nuôi dưỡng và cung cấp khí quyển cho VHDG tiếp tục phát triển. Trong văn hóa của người Khmer, nhiều khía cạnh của môi trường sinh hoạt và lao động vẫn còn tương thích và giúp các thể loại VHDG phát triển. Hay nói cách khác, sinh hoạt văn hóa độc đáo đã giúp người Khmer lưu giữ một bầu không khí có khả năng tồn tại và phát triển cho các loại hình văn hóa dân gian, trong đó có VHDG. Vì vậy, nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam Bộ dưới góc nhìn bối cảnh sẽ giúp cho việc nhìn nhận đúng bản chất của tác phẩm VHDG trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Để hiểu hơn về tộc người Khmer, ngoài việc tìm hiểu các giá trị văn hóa qua di sản vật thể hữu hình thì việc tìm hiểu các yếu tố phi vật thể có chức năng lí giải những sự kiện xã hội vốn có cội rễ từ văn hóa là điều cần thiết. Từ đó, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về tâm lí dân tộc Khmer và có những ứng xử phù hợp về văn hóa cũng như những chính sách kinh tế. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Từ việc tiếp cận, phân tích, đối chiếu và hệ thống hóa các lí thuyết nghiên cứu folklore trên thế giới cũng như sự vận dụng ở Việt Nam theo hướng xem VHDG là một quá trình, luận án đề xuất một hướng nghiên cứu truyện kể dân gian trong bối cảnh và thực nghiệm khảo sát trên nguồn truyện dân gian Khmer Nam Bộ. Với cách làm này, luận án muốn góp phần khắc phục những điểm “bất cập” của các hướng tiếp cận truyền thống, dựa trên văn bản thuần túy. Sự bổ sung hướng tiếp cận này có tác dụng làm tăng thêm tính khoa học cho truyền thống nghiên cứu VHDG ở nước ta. 2.2. Qua việc tổ chức thực nghiệm phương pháp tiếp cận truyện dân gian Khmer Nam Bộ dưới góc nhìn bối cảnh, luận án đưa ra một số nguyên tắc tiếp cận tác phẩm truyện dân gian đặt trong môi trường sống cụ thể. Để thấy được hiệu quả của phương thức tiếp cận mới, luận án sẽ thực hiện phân tích, đối chiếu và rút ra những khái quát về hệ thống lí thuyết, những dự báo về khả năng ứng dụng, các phương pháp tiếp cận và các kĩ thuật thu nhận từ thực tế. Trên cơ sở hướng phân tích các yếu tố ngoài văn bản, luận án hi vọng tiến tới quy phạm hóa các quy trình cho công tác nghiên cứu theo hướng này. 3. Lịch sử vấn đề 3.1. Nghiên cứu VHDG theo bối cảnh ở Việt Nam – những ứng dụng khởi đầu Ở Việt Nam, từ đầu thập niên 60 của thế kỉ trước, việc nghiên cứu VHDG có lưu ý đến hoàn cảnh diễn xướng hay bối cảnh văn hóa xuất phát từ tính chất nguyên hợp của tác phẩm đã được xác định như là một yếu tố thuộc bản chất của văn học dân gian. Trong các tài liệu về phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian của Đinh Gia Khánh [65], Chu Xuân Diên [22] Nguyễn Đổng Chi [16] và một số học giả khác [130] trong thập niên 60 của thế kỉ XX, “nguyên hợp” cơ bản được lưu ý như là yếu tố thuộc tính khi xem xét sự sản sinh, lưu hành và phát triển của VHDG; đồng thời nó cũng được đề cập đến như một nguyên tắc khi vận dụng các phương pháp vào nghiên cứu thể loại. Tuy nhiên vai trò thật sự của tính nguyên hợp chưa thật sự chi phối hoàn toàn việc nghiên cứu VHDG vì các hướng nghiên cứu vẫn cơ bản dựa trên phương pháp tiếp cận ngữ văn qua văn bản. Trong bối cảnh đó, có một vài đột phá đáng lưu ý: trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam [65], các tác giả đã có những phân tích về tính nguyên hợp, tính tập thể, môi trường sinh hoạt của VHDG, tính nhiều chức năng, phương thức truyền miệng, mối quan hệ giữa truyền thống và ứng tác của VHDG, Trong những đặc điểm ấy, quá trình hình thành, phát triển và thể hiện một tác phẩm VHDG được hệ thống hóa bằng một nhãn quan rất khoa học và hiện đại. Theo đó, VHDG được sáng tác bằng một cơ chế và phương pháp khác với văn học viết, được phổ biến bằng một cách thức gắn liền với đời sống sinh hoạt và lao động, và được tồn tại trong một hình thức có tính nguyên hợp nhiều yếu tố. Do đó VHDG vừa có đặc tính nghệ thuật lẫn đặc tính xã hội rất đậm nét. Có những lúc, dựa trên nguyên hợp, việc lí tưởng hóa các yếu tố bên ngoài văn bản được đẩy lên thành những nhận định theo kiểu “nếu ví các diễn xướng phônclo như cá thì môi trường sẽ là nước. Cá ra khỏi nước, cá chết” hay “loại trừ khâu diễn xướng, tác phẩm VHDG chỉ còn là cái xác không hồn”,. [dẫn theo 22, tr.359]. Trên cơ sở tính nguyên hợp, các phương pháp như: hệ thống, tổng hợp, nghiên cứu liên ngành, loại hình học trong VHDG đều được xem như những cách thức tiếp cận có hiệu quả. Tuy vậy, về cơ bản, tất cả các yếu tố bên ngoài và bối cảnh văn hóa rộng lớn của VHDG vẫn không phải là đối tượng nghiên cứu chính của VHDG, cái quan trọng vẫn là văn bản. Vì theo Chu Xuân Diên: Bởi vì xét bản chất của văn học dân gian, xét thành phần chủ thể trong văn học dân gian thì cái hồn lại chính là ngôn từ dù nó được bộc lộ ra bằng ngôn ngữ nói hay ngôn ngữ viết. Và như vậy thì việc nghiên cứu văn bản văn học của tác phẩm văn học dân gian không phải là nghiên cứu cái xác không hồn mà chính là nghiên cứu cái hồn tồn tại trong thể xác của nó [22, tr.316]. Luận điểm vừa nêu trở thành một nguyên tắc cơ bản cho khuynh hướng nghiên cứu chính trong suốt thế kỉ XX ở Việt Nam. Việc xem xét bối cảnh như một phần không tách rời việc thể hiện tác phẩm VHDG, hoặc xem hành động kể một câu chuyện là một đối tượng nghiên cứu thì chỉ mới bắt đầu vào những năm 60 của thế kỉ XX ở Hoa Kì và các nước phương Tây. Ở Việt Nam, hướng tiếp cận này bắt đầu vào những năm cuối của thế kỉ XX qua một số công trình giới thiệu lí thuyết. Theo thời gian, những phác họa ban đầu của bức tranh nghiên cứu theo hướng này dần dần hiện ra như sau. Trong hai năm 1999 và 2000, Nguyễn Thị Hiền đã công bố hai bài viết có tính chất gợi mở cho hướng nghiên cứu bối cảnh: Quan niệm mới về folklore và quá trình văn bản hóa folklore ở Hoa Kì [42] và Một số phương pháp nghiên cứu folklore ở phương Tây [43]. Qua những phân tích sơ lược và những nhận định bước đầu của tác giả, người đọc đã được tiếp cận một cách khá rõ ràng và cụ thể về quan điểm nghiên cứu folklore như một quá trình của ngành folklore Hoa Kì. Trong bài viết, tác giả đã giới thiệu những quan điểm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học có ảnh hưởng lớn đến nền văn hóa dân gian Hoa Kì đương đại như Richard M. Dorson, Dan Ben-Amos, Alan Dundes, Richard Bauman, Robert Goerges . Theo đó, sự chuyển hướng cốt lõi của nghiên cứu folklore thế giới đã chuyển từ nghiên cứu văn bản, xem folklore là sản phẩm đã hoàn thành, tĩnh tại trên văn bản sang nghiên cứu diễn xướng và bối cảnh, xem folklore là quá trình, là sự giao tiếp nghệ thuật. Ở đấy, mối quan hệ giữa tiếp cận văn bản và tiếp cận diễn xướng được các nhà folklore học quan niệm rằng: “khái niệm về phương pháp tiếp cận diễn xướng mới có một ngụ ý sâu xa về văn bản hóa diễn xướng”[42, tr.92]. Năm 2001, trong hội thảo khoa học Một thế kỉ sưu tầm, nghiên cứu văn hóa, văn nghệ dân gian, Chu Xuân Diên đã đề cập đến việc nghiên cứu VHDG theo hướng tiếp cận bối cảnh như một vấn đề phương pháp luận qua bài viết Nhìn lại một vài quan điểm lí thuyết và phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian ở Việt Nam. Trong bài viết này, với một sự phân tích cụ thể và đưa ra sự đánh giá thực tiễn, tác giả không chỉ nhìn nhận lại các phương hướng và phương pháp nghiên cứu Văn hóa dân gian ở nước ta mà còn đề xuất cách tiếp cận liên ngành đối với VHDG. Với cách tiếp cận liên ngành, theo ông, việc tìm đến các phương pháp của các ngành dân tộc học, xã hội học hay nhân học là điều cần thiết: Trong cách tiếp cận như thế thì rõ ràng một vấn đề như văn bản văn học dân gian chẳng hạn không còn đơn giản chỉ là vấn đề “một cái xác không hồn”, vấn đề nghiên cứu bối cảnh của văn bản văn học dân gian không chỉ đơn thuần là dựng lại “không khí sinh động” để “tạo nên một cái duyên, cái phong cách” của nó, mà thực chất là một vấn đề phương pháp luận có liên quan chặt chẽ với những vấn đề phương pháp luận của nhiều phân ngành khoa học xã hội và nhân văn khác như ngôn ngữ học xã hội, dân tộc học lời nói (ethnography of speaking), [22, tr.115, 116]. Năm 2005, với nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu, dịch thuật và học giả nước ngoài, Viện nghiên cứu Văn hóa xuất bản hai quyển sách có tính “kinh điển” về lí thuyết và phương pháp cho giới nghiên cứu folklore ở Việt Nam: Folklore thế giới – những công trình nghiên cứu cơ bản và Folklore – một số thuật ngữ đương đại do Ngô Đức Thịnh và Frank Proschan chủ biên. Trong lời nói đầu của các quyển sách, tính kinh điển đã thể hiện khá rõ ràng trong sự bộc bạch mong muốn cung cấp cho người đọc các bài viết về nghiên cứu folklore thế giới ở hai chiều: quá khứ với những công trình đã in dấu thời gian và đương đại với những công trình hứa hẹn cho tương lai. bao gồm các bài viết đã hình thành nên quá trình tiến triển và phát triển folklore trong hai thế kỉ qua và những bài viết đại diện cho những khuynh hướng nghiên cứu mới mẻ và hứa hẹn nhất mới xuất hiện trong vài thập kỉ gần đây [105, tr.7]. Với các tiêu chí lựa chọn vừa khoa học vừa thực tiễn, hai quyển sách đã cung cấp cho người đọc một cái nhìn khái quát và cơ bản về bức tranh nghiên cứu folklore trên thế giới. Vốn được tuyển chọn có giới hạn và có mục tiêu rõ ràng, những lí thuyết và thuật ngữ trong đó không chỉ mang đến cho độc giả sự hiểu biết hệ thống về những phương pháp truyền thống mà còn giới thiệu một cách đa dạng những hướng đi mới, nhiều tiềm năng. Trong phần thứ 4 và 5 của quyển Folklore thế giới – những công trình nghiên cứu cơ bản, các nhà biên soạn đã giới thiệu 14 công trình có giá trị lí thuyết quan trọng, trong đó tập trung nhiều vào hướng coi trọng thực tiễn, sự kiện diễn xướng, giao tiếp nghệ thuật, và tính quá trình của folklore. Những bài viết ấy đã cung cấp một hệ thống phương pháp quan trọng cho hướng tiếp cận theo bối cảnh và diễn xướng. Năm 2006, Trần Thị An đã giới thiệu hướng nghiên cứu của folklore Hoa Kì qua bài viết Nghiên cứu Văn học dân gian ở Hoa Kì - một số quan sát bước đầu [2]. Tác giả không chỉ khái quát về lịch sử nghiên cứu folklore ở Hoa Kì với những sự thay đổi trong mối quan hệ với các ngành khoa học kế cận mà còn chỉ ra sự thay đổi cơ bản hướng tiếp cận trong nghiên cứu folklore. Theo đó, thay đổi quan trọng nhất là định hướng từ folklore tư liệu (folklore-as-materials) sang folklore giao tiếp (folklore-as-communication), từ cách tiếp cận lấy văn bản làm trung tâm (text-centered) đến lấy bối cảnh làm trung tâm (context-centered). Những chuyển đổi đó đã dẫn đến sự thay đổi về thuật ngữ và những cách hiểu mới về VHDG so với truyền thống như là: nghệ thuật ngôn từ (verbal art), hành vi ngôn từ (verbal behaviour), cách thức nói (the way of speaking) và nghệ thuật ngôn từ như là sự diễn xướng (verbal art as performance). Phần kết luận bài viết vừa là một sự nhận xét có tính đúc kết vừa là những gợi ý cho những vận dụng mới ở Việt Nam: Nghiên cứu và giảng dạy folklore ở Hoa Kì hiện nay, vì vậy, chủ yếu hướng tới các trường hợp cụ thể (case study) trong bối cảnh diễn xướng cụ thể mà không đi sâu phân tích các văn bản như là những đối tượng độc lập. Các trường hợp nghiên cứu cụ thể này được dựa hoàn toàn vào những điều tra dân tộc học (ethnography investigation) công phu và sự kết hợp lí thuyết liên ngành mà nhân học hiện nay đang là một đại diện tiêu biểu, ở đó, kiến thức về văn hoá học, dân tộc học và ngôn ngữ học trở nên những điều kiện tối cần thiết với các nhà folklore học [2, tr.96]. Sau đó hai năm, với bài viết Nghiên cứu VHDG từ góc độ type và motif – những khả thủ và bất cập [3], Trần Thị An tiếp tục bổ sung và làm rõ hơn một số vần đề cho hướng nghiên cứu bối cảnh. Với mục tiêu đánh giá lại phương pháp nghiên cứu văn học theo hướng tiếp cận ngữ văn, vốn lấy ngữ học cấu trúc làm nền tảng và phương pháp so sánh làm bệ đỡ, tác giả không những chỉ ra những ưu điểm và tính chất quốc tế của hướng tiếp cận cấu trúc và thi pháp học mà còn cho thấy rõ những nhược điểm của hướng nghiên cứu type và motif qua các tập tra cứu đồ sộ trên toàn thế giới. Để khắc phục những nhược điểm đó, theo tác giả, hướng tiếp cận diễn xướng là một phương cách thay thế có tính thực tiễn và nhiều triển vọng. Năm 2011, trong bài viết Nghiên cứu VHDG và vấn đề văn bản [56], Hồ Quốc Hùng, trên cơ sở nhận xét về những hạn chế của việc văn bản hoá tác phẩm VHDG ở Việt Nam, đã đề xuất một góc nhìn "cần phải xem tác phẩm VHDG dưới góc độ hành động ngôn từ chứ không chỉ dừng lại ở quan niệm yếu tố ngôn ngữ thuần tuý trong văn bản". Bài viết tuy không nói rõ về định hướng nghiên cứu theo bối cảnh và môi trường diễn xướng nhưng cách đặt vấn đề lại tiếp cận với hướng nghiên cứu theo góc độ hành động ngôn từ - một định hướng của việc nghiên cứu mà chúng tôi vừa dẫn ở trên. Theo đó, hành động ngôn từ là loại hành động nặng về tính biểu diễn và tác động.  Cần phải xác định lại rằng văn bản VHDG là sự chuyển thể từ diễn ngôn sang văn bản. Cho nên một diễn ngôn chỉ tương đương với một trạng thái hành ngôn. Diễn ngôn VHDG chỉ là trạng thái hành động ngôn từ cụ thể của cá nhân hình thành từ tương tác với cộng đồng [56, tr.44]. Nhận định này tiệm cận với lí thuyết hành động ngôn từ trong nghiên cứu văn học của J.L.Austin [6, tr.32], một trong những nền tảng quan trọng của ngữ dụng học và là cơ sở có tính nền tảng cho hướng tiếp cận bối cảnh trong nghiên cứu VHDG. Đi theo một hướng gần với nghiên cứu bối cảnh, Tăng Tấn Lộc trong công trình viết về đồng dao Vĩnh Long có một phần tiếp cận diễn xướng đồng dao trong đời sống sinh hoạt. Theo tác giả, khái niệm “diễn xướng” vừa là một loại hình nghệ thuật nguyên hợp của folklore vừa là một quá trình của đời sống folklore và cũng là “hình thức giao tiếp nghệ thuật của cộng đồng” [75, tr.83]. Trong phần tìm hiểu diễn xướng đồng dao, tác giả cho rằng có 02 loại diễn xướng: không gắn với trò chơi và có gắn với trò chơi. Luận văn đã bước đầu tiếp cận với thể loại đồng dao đặt trong một bối cảnh cụ thể để phát hiện ra những nét mới trong cách ứng dụng của người dân ở một địa phương. Luận văn này đã có những phân biệt bước đầu về khái niệm diễn xướng và ứng dụng nó trong các loại hình có khả năng biểu diễn. Đầu năm 2015, trong hội thảo về học giả - nhà văn Nguyễn Đổng Chi, Hồ Quốc Hùng [57] đã công bố một bài viết về phương pháp nghiên cứu và tư duy khoa học qua công tác sưu tầm và nghiên cứu VHDG của cây đại thụ trong làng folklore học Việt Nam. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích và đánh giá cao phương pháp sưu tầm điền dã của Nguyễn Đổng Chi và chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ giữa sưu tầm, phân loại và nghiên cứu trong nghiên cứu VHDG. Nhiều luận điểm của bài viết cho thấy, quan niệm của Nguyễn Đổng Chi nhìn tác phẩm như “một sự vận động”, “thu lượm bằng hết những gì nghe và thấy một cách chính xác, khách quan” đã phản ánh cách nhìn của ông tiệm cận với phương pháp của trào lưu bối cảnh dù thời điểm ấy trào lưu bối cảnh của Mỹ chưa ra đời [57, tr.111]. Dù còn nhiều điểm khác biệt về nguyên tắc tiếp cận, nhưng bài viết đã hé lộ những hướng đi của các học giả Việt Nam, mà tiêu biểu là Nguyễn Đổng Chi, có bước tương đồng với thế giới về tiếp cận bối cảnh trong nghiên cứu folklore. Chỉ có điều, cách suy nghĩ đó chỉ dừng lại ở cá nhân mà chưa phát triển thành trào lưu rộng rãi như phương Tây. Về phương diện luận nghiên cứu và giảng dạy trong các trường đại học hay học viện với sản phẩm là các luận văn luận án của học viên, đến nay, một trong những công trình chính thức đi theo hướng tiếp cận bối cảnh đối với VHDG có thể kể đến là luận văn thạc sĩ Tục ngữ trong văn học: một trường hợp của nghiên cứu folklore trong bối cảnh [137] của Lê Thị Thanh Vy. Đây là công trình học thuật đi theo hướng tiếp cận bối cảnh đối với việc nghiên cứu tục ngữ trong văn học. Đối tượng chính của luận văn là những câu tục ngữ trong tác phẩm văn học viết. Cách sử dụng của tục ngữ trong những hoàn cảnh mà nhà văn miêu tả, cách tiếp nhận hay diễn giải ý nghĩa của chúng mà nhâ
Luận văn liên quan