Neo là một loại kết cấu chống được sử dụng rộng rãi trong ngành khai thác
mỏ và xây dựng nói chung trên thế giới và trong nước. Thực tế cho thấy, neo với
vai trò kết cấu chống tạm và chống cố định trong xây dựng công trình ngầm có
hiệu quả kỹ thuật và kinh tế cao. Neo được coi là kết cấu chống "đa năng", có thể
sử dụng với mọi công trình ngầm có hình dạng, kích thước khác nhau, trong
những điều kiện địa cơ học khối đá từ tốt đến xấu. Ngoài ra, thực tế cũng đã
chứng minh khả năng kết hợp rất tốt của kết cấu neo với các loại kết cấu chống
khác như bê tông phun, lưới thép, khung thép tổ hợp cũng như vỏ bê tông cốt thép
liền khối.
Để chống tạm trong quá trình thi công chia gương ở các công trình ngầm
tiết diện lớn và “cược gương” khi khai đào trong khối đất, đá mềm yếu, kém ổn
định hay gia cố tránh sập lở trong khai thác than, nếu sử dụng thanh neo bằng
thép sẽ gặp trở ngại lớn trong giai đoạn thi công tiếp theo. Cụ thể là khi tiến
hành đào tiếp để tiến gương, mở rộng hay khai thác than sử dụng máy đào, máy
khai thác hoặc bằng phương pháp khoan nổ mìn thì các thanh neo bằng thép khó
bị cắt đứt do khả năng kháng cắt của thép lớn, dễ gây sập lở do kéo tụt thanh
neo, gây khó nhăn cho công tác xúc bốc vận chuyển khối đá sau khi phá nổ, do
có lẫn các thanh neo. Ngoài ra nếu sử dụng các thanh neo bằng thép làm kết cấu
chống cố định hay một bộ phận của vỏ chống cố định hỗn hợp thì trong môi
trường ẩm ướt hay môi trường axit thanh cốt neo dễ có thể bị ăn mòn (điện hoá,
hoá học), làm giảm tuổi thọ của công trình. Mặt khác, do trọng lượng thanh neo
thép lớn nên thường gây khó khăn, không đảm bảo cắm neo chính xác khi thi
công thủ công.
28 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2262 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu vật liệu polyme - Clay nanocompozit để chế tạo thanh cốt neo chống giữ công trình ngầm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT
NGUYỄN MẠNH KHẢI
NGHIÊN CỨU VẬT LIỆU
POLYME-CLAY NANOCOMPOZIT ĐỂ CHẾ TẠO
THANH CỐT NEO CHỐNG GIỮ CÔNG TRÌNH NGẦM
Chuyên ngành : Xây dựng công trình ngầm và mỏ
Mã số : 62.58.50.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT
HÀ NỘI – 2012
Công trình được hoàn thành tại Bộ môn Xây dựng công trình Ngầm và Mỏ,
Khoa Xây dựng Trường Đại học Mỏ - Địa chất
Người hướng dẫn khoa học:
GS. TS Nguyễn Quang Phích
Phản biện 1: PGS.TS. Bạch Trọng Phúc
Phản biện 2: PGS.TS. Ngô Thị Xuân Hằng
Phản biện 3: TS. Phạm Mạnh Hào
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận án cấp Trường
tại trường Đại học Mỏ - Địa chất
Vào hồi ……… ngày ……. tháng …… năm 2012
Có thể tìm hiểu Luận án tại:
- Thư viện Quốc gia.
- Thư viện Khoa học kỹ thuật Trung ương.
- Thư viện trường Đại học Mỏ - Địa chất.
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyễn Mạnh Khải, Nguyễn Quang Phích, Nguyễn Văn Mạnh, Lê Văn
Công (2012), “Một phương pháp thiết kế neo dính kết theo nguyên lý
gia cố khối đá”. Tạp chí KHKT Mỏ - Địa chất, số 37, tr. 39-43.
2. Nguyễn Mạnh Khải, Nguyễn Quang Phích, Vũ Tân Cảnh (2010),
“Nghiên cứu lựa chọn khoáng vật sét để chế tạo thanh neo bằng vật
liệu polyme-clay nanocompozit”. Tạp chí KHKT Mỏ - Địa chất, số 31,
tr. 84-87.
3. Nguyễn Mạnh Khải, Nguyễn Văn Hậu (2003), “Một số kết quả nghiên
cứu ban đầu về bê tông cốt sợi thực vật có thể sử dụng trong nghành
mỏ”. Thông tin KHCN Mỏ - Viện KHCN Mỏ, số 4, tr. 11-13.
4. Phạm Minh Đức, Bùi Đình Cư, Nguyễn Mạnh Khải (2001), “Polyme-
compozit sử dụng trong ngành Mỏ”. Tạp chí công nghiệp Mỏ, số 6, tr.5-6.
5. Nguyễn Mạnh Khải, Nguyễn Quang Phích (2001), “Nghiên cứu khảo
sát khả năng bám dính của nhựa polyester không no và sợi thuỷ tinh
trong vật liệu polyme-compozit”. Tuyển tập các công trình khoa học
Đại Học Mỏ - Địa chất, số 23, tr. 55-57.
6. Phạm Minh Đức, Nguyễn Mạnh Khải (2000),“Chế tạo thử nghiệm một
số sản phẩm từ vật liệu polyme-compozit sử dụng trong ngành Mỏ”.
Hội nghị Khoa học Đại học Mỏ - Địa chất lần thứ 14, Hà Nội, tr.87-92.
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài luận án
Neo là một loại kết cấu chống được sử dụng rộng rãi trong ngành khai thác
mỏ và xây dựng nói chung trên thế giới và trong nước. Thực tế cho thấy, neo với
vai trò kết cấu chống tạm và chống cố định trong xây dựng công trình ngầm có
hiệu quả kỹ thuật và kinh tế cao. Neo được coi là kết cấu chống "đa năng", có thể
sử dụng với mọi công trình ngầm có hình dạng, kích thước khác nhau, trong
những điều kiện địa cơ học khối đá từ tốt đến xấu. Ngoài ra, thực tế cũng đã
chứng minh khả năng kết hợp rất tốt của kết cấu neo với các loại kết cấu chống
khác như bê tông phun, lưới thép, khung thép tổ hợp cũng như vỏ bê tông cốt thép
liền khối...
Để chống tạm trong quá trình thi công chia gương ở các công trình ngầm
tiết diện lớn và “cược gương” khi khai đào trong khối đất, đá mềm yếu, kém ổn
định hay gia cố tránh sập lở trong khai thác than, nếu sử dụng thanh neo bằng
thép sẽ gặp trở ngại lớn trong giai đoạn thi công tiếp theo. Cụ thể là khi tiến
hành đào tiếp để tiến gương, mở rộng hay khai thác than sử dụng máy đào, máy
khai thác hoặc bằng phương pháp khoan nổ mìn thì các thanh neo bằng thép khó
bị cắt đứt do khả năng kháng cắt của thép lớn, dễ gây sập lở do kéo tụt thanh
neo, gây khó nhăn cho công tác xúc bốc vận chuyển khối đá sau khi phá nổ, do
có lẫn các thanh neo. Ngoài ra nếu sử dụng các thanh neo bằng thép làm kết cấu
chống cố định hay một bộ phận của vỏ chống cố định hỗn hợp thì trong môi
trường ẩm ướt hay môi trường axit thanh cốt neo dễ có thể bị ăn mòn (điện hoá,
hoá học), làm giảm tuổi thọ của công trình.. Mặt khác, do trọng lượng thanh neo
thép lớn nên thường gây khó khăn, không đảm bảo cắm neo chính xác khi thi
công thủ công.
Trong xu thế tăng cường xây dựng các hệ thống giao thông ngầm ở thành
phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, khai thác than ở đồng bằng Bắc bộ trong
các khối đất, đá mềm yếu, kết cấu neo sẽ có cơ hội được sử dụng ngày càng
nhiều, tuy nhiên bằng vật liệu và các tính chất hợp lý.
Để khắc phục một số nhược điểm của neo cốt thép, trên thế giới đã chế tạo
các thanh cốt neo bằng chất dẻo và cho các kết quả khả quan trong thực tế. Ở nước
ta, công tác nghiên cứu cải thiện kết cấu neo cũng đã được tiến hành từ những năm
1996 đến nay tại Viện Khoa học Công nghệ mỏ. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu
mới chỉ tập trung vào việc thay thế từ chất kết dính vô cơ bằng chất kết dính hữu
cơ. Nghiên cứu thanh cốt neo thay cho thép đang sử dụng cũng đã được triển khai,
nhưng bước đầu mới chỉ nghiên cứu chế tạo thanh cốt neo từ vật liệu polyme-
compozit cốt sợi thuỷ tinh và chưa được áp dụng thử nghiệm tại hiện trường. Các
kết quả nghiên cứu này đã được trình bày trong luận văn Thạc sỹ kỹ thuật của NCS
năm 2001.
Vật liệu polyme-clay nanocompozit là loại vật liệu lai tạo từ polyme (vật
liệu nền) và khoáng sét (chất phân tán), đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu và
ứng dụng trong vài thập niên gần đây trên thế giới. Các kết quả nghiên cứu đều
2
cho thấy các đặc điểm vượt trội về cơ tính, hoá tính và lý tính của vật liệu
polyme-clay nanocompozit so với vật liệu polyme-compozit thông thường, xuất
phát từ sự tương hợp của polyme nền với khoáng sét và phát huy hiệu ứng cấu
trúc nano của các lớp khoáng sét.
Ở Việt Nam, vật liệu polyme-clay nanocompozit cũng đã được một số đơn
vị khoa học triển khai nghiên cứu như: Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam,
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Học viện Kỹ thuật Quân sự-Bộ quộc phòng
… Song các công trình nghiên cứu và sản phẩm này tập trung đáp ứng các yêu cầu
sử dụng trong các lĩnh vực điện, điện tử, sơn chống ăn mòn và một số chế phẩm
phục vụ đời sống dân sinh…
Các công trình nghiên cứu trên thế giới cho thấy tính chất cơ lý của vật
liệu polyme-clay nanocompozit nếu được tăng cường bằng sợi thủy tinh với hàm
lượng hợp lý, sẽ cho ta vật liệu có độ bền kéo tăng khoảng gấp 3 lần so với thép,
nhưng độ bền cắt lại thấp hơn thép. Vật liệu mới này cho phép tạo nên các sản
phẩm có độ cứng cao và không bị ăn mòn, chịu mài mòn cao. Ngoài ra vật liệu
này lại cho phép dễ gia công, xử lý để có kích thước phù hợp (dễ uốn dẻo, cưa
cắt để có chiều dài tuỳ ý ở điều kiện bình thường…).
Luận án “Nghiên cứu vật liệu polyme-clay nanocompozit để chế tạo thanh
cốt neo chống giữ công trình ngầm” được hình thành xuất phát từ các yêu cầu
thực tế và các tiến bộ khoa học trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Mục đích của
công tác nghiên cứu là để tiếp cận công nghệ chế tạo và ứng dụng hệ vật liệu
polyme-clay nanocompozit, từng bước nghiên cứu vật liệu thay thế thép làm
thanh cốt neo với nguồn nguyên liệu clay trong nước, nhằm đáp ứng yêu cầu sử
dụng của thực tiễn sản xuất trong ngành than, cũng như xây dựng công trình
ngầm dân dụng nói chung và khẳng định vai trò nghiên cứu xu hướng hội nhập
quốc tế.
Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết nêu trên, mục tiêu của luận án là tạo ra vật
liệu tổ hợp có tính năng vượt trội cũng như khắc phục được các nhược điểm so
với vật liệu thép khi sử dụng làm thanh cốt neo. Để đạt mục tiêu này, luận án đã
tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
1- Hình thành được công nghệ thích hợp để chế tạo polyme-clay
nanocompozit ở quy mô phòng thí nghiệm, trên cơ sở polyme là các chế phẩm
sẵn có ở thị trường Việt Nam.
2- Nghiên cứu ảnh hưởng của claynano (nano sét) đến các tính chất cơ lý
(độ bền kéo và độ bền cắt) của vật liệu polyme-clay nanocompozit.
3- Nghiên cứu, khảo sát để chế tạo thanh cốt neo từ nhựa nền polyme-clay
nanocompozit được gia cường bằng sợi thuỷ tinh.
4- Nghiên cứu, đánh giá khả năng sử dụng thanh cốt neo đã được chế tạo
so với thanh cốt neo bằng thép hiện đang chống giữ công trình ngầm, thông qua
nghiên cứu triển khai áp dụng tại cùng địa điểm, theo cùng nguyên lý thiết kế,
làm việc và với dây chuyền công nghệ thi công như nhau.
3
Ý nghĩa khoa học, thực tiễn và những đóng góp mới của luận án
Luận văn đã tập trung nghiên cứu các cơ sở khoa học phục vụ cho việc xây
dựng công nghệ chế tạo thanh cốt neo trên cơ sở vật liệu epoxy-clay
nanocompozit với mục đích ứng dụng trong thực tế và rút ra một số đóng góp
mới như sau:
1- Đã phân tán thành công claynano được chế tạo từ bentonit Bình Thuận
vào trong nền epoxy đến mức độ tách lớp hoàn toàn (expholiated) và xác định
được các thông số chủ yếu của quá trình phân tán.
2- Đã xây dựng công nghệ chế tạo thanh cốt neo polyme-clay nanocompozit
cốt sợi thuỷ tinh, trên cơ sở nhựa nền epoxy-claynano được gia cường bằng sợi
thủy tinh, với tỷ lệ thành phần: 60% phần khối lượng sợi thủy tinh; 40% phần khối
lượng nhựa nền epoxy-claynano (trong đó có 5% clay MMT).
3- Đã thử nghiệm thành công thanh cốt neo polyme-clay nanocompozit cốt
sợi thuỷ tinh tại mỏ than Hồng Thái với chất lượng tương đương cốt neo thép
với cùng mục đích sử dụng.
Từ những đóng góp mới này, bước đầu luận án đã có một số ý nghĩa về lý
luận và thực tiễn như sau:
Về lý luận: claynano chính là những hạt sét có kích thước nanomet, được
đưa vào vật liệu polyme nhằm tạo ra một bước nhảy về tính chất cơ, lý của vật
liệu. Polyme-clay nanocompozit có tính năng vượt trội so với vật liệu truyền
thống có cùng mục đích sử dụng trong xây dựng công trình ngầm nói chung hay
khoa học vật liệu nói riêng. Những kết quả nghiên cứu ban đầu này sẽ có giá trị
tham khảo trong việc giảng dạy, đầu tư và phát triển lĩnh vực vật liệu mới, từng
bước thay thế vật liệu truyền thống trong xây dựng công trình ngầm và mỏ.
Về thực tiễn: tạo ra một tổ hợp vật liệu mới với nguồn nguyên liệu chính
là clay trong nước, có tính năng cơ lý vượt trội, sử dụng để chế tạo thanh cốt neo
chống giữ công trình ngầm nhằm thay thế một phần nào đó vật liệu thép truyền
thống về số lượng, cũng như phạm vi sử dụng về các yêu cầu chịu lực, song phải
khắc phục được các nhược điểm của thép có cùng mục đích sử dụng.
Kết cấu của luận án
Luận án gồm phần mở đầu, ba chương, phần kết luận, phần phụ lục. Toàn
bộ nội dung của luận án được trình bày trong 117 trang, trong đó có 31 bảng, 50
hình và đồ thị với 152 tài liệu tham khảo. Phần lớn kết quả của luận án được
công bố trong 6 bài báo và báo cáo tại các hội nghị trong nước.
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN ÁN
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KẾT CẤU NEO TRONG XÂY DỰNG
CÔNG TRÌNH NGẦM VÀ NGUYÊN VẬT LIỆU SỬ DỤNG NGHIÊN CỨU
CHẾ TẠO THANH CỐT NEO
1.1. NEO CHỐNG GIỮ CÔNG TRÌNH NGẦM
1.1.1.Tình hình nghiên cứu và sử dụng neo trên thế giới
Neo đã có từ cuối thế kỷ XIX và trong 5 thập kỷ gần đây đã được sử dụng
rất rộng rãi trong công tác chống giữ các công trình ngầm trên thế giới. Hàng
4
năm tại Liên Xô (cũ) đã chống giữ khoảng 500 km đường lò đá bằng neo. Tại
Mỹ hàng năm đưa vào sử dụng khoảng 20 triệu chiếc neo chất dẻo cốt thép, Tây
Đức khoảng 1,5 triệu chiếc và neo cũng được sử dụng rộng rãi ở một số nước
khác như Ba Lan, Pháp, Trung Quốc và Nhật Bản…
Cùng với nhu cầu sử dụng ngày càng nhiều kết cấu chống giữ bằng neo.
Cho đến nay trên thế giới đã có hàng trăm loại neo ra đời, trong đó có neo
polyme-compozit và đã được ứng dụng thành công. Để phân loại neo, người ta
dựa vào tính năng kỹ thuật; khả năng mang tải; vật liệu làm neo như: gỗ, thép,
polyme-compozit, hoặc cấu tạo neo như dạng: ống, thanh, sợi và nguyên lý liên
kết làm việc như: liên kết cơ học, liên kết dính kết và liên kết hỗn hợp, như sơ đồ
phân loại hình 1.2.
Hình 1.2. Sơ đồ phân loại neo theo nguyên lý liên kết
1.1.2. Neo và xu hướng sử dụng vật liệu polyme-compozit trong chống
giữ công trình ngầm và mỏ ở Việt Nam
Xây dựng công trình ngầm và mỏ trong những năm gần đây đã và đang là
một nhu cầu bức thiết bởi các yếu tố kinh tế, chính trị, giao thông vận tải và an
ninh quốc phòng, đặc biệt là trong khai thác khoáng sản mỏ hầm lò. Từ những
năm 80 của thế kỷ trước, các công trình như thuỷ điện Hoà Bình, thuỷ điện Yaly,
hầm giao thông đèo Hải Vân, Đèo Ngang và khai thác than ở Quảng Ninh đã sử
dụng neo để chống tạm; chống hỗn hợp cố định cho hàng trăm km đường hầm
và đường lò, với nhiều loại hình neo phong phú và đa dạng như neo bê tông cốt
thép, neo nêm chẻ, neo ống có rãnh hở, neo chất dẻo cốt thép.
Những loại neo này đã được sử dụng tuỳ thuộc vào từng điều kiện địa chất cụ
thể và neo được sử dụng chủ yếu là neo dính kết, cụ thể là neo bê tông cốt thép và
neo chất dẻo cốt thép, chúng khác nhau về chất kết dính (vô cơ và hữu cơ) - gọi
chung là neo cốt thép. Bên cạnh những ưu điểm tuyệt vời của neo cốt thép, thì
chính nó còn có không ít những hạn chế liên quan tới điều kiện sử dụng, tới môi
trường khí hậu khắc nghiệt trong công trình ngầm nói chung, mỏ hầm lò nói riêng.
Từ những kết quả nghiên cứu ứng dụng trên thế giới cho thấy thanh cốt
neo được làm từ vật liệu polyme-compozit cốt sợi thuỷ tinh có độ bền kéo tương
đương thép, nhưng khắc phục được một số nhược điểm của thép như độ bền cắt
5
thấp hơn, chính yếu tố này tạo điều kiện thuận lợi khi nổ mìn tiến gương, hoặc tổ
hợp máy đào, máy khấu than cần tiến qua, đồng thời lại bền trong môi trường vi
khí hậu nóng ẩm và trọng lượng bằng 1/4 trọng lượng của thép, cuối cùng là tính
phù hợp về kích thước trong thi công của thanh cốt neo polyme-compozit tốt hơn
thanh cốt neo thép rất nhiều. Như vây, có thể thấy rằng thanh cốt neo polyme-
compozit cốt sợi thủy tinh có thể thay thế và khắc phục được một số nhược điểm
của neo thép có cùng mục đích sử dụng.
Cũng theo những kết quả nghiên cứu trên thế giới cho thấy rằng, nếu trong
vật liệu polyme có chứa một hàm lượng thích hợp từ 0,5÷5% “clay” kích thước
nanomet, thì sẽ tạo ra một bước nhảy vọt về tính chất cơ lý của vật liệu polyme-
clay nanocompozit như độ bền kéo tăng gấp 3 lần so với thép, nhưng độ bền cắt
lại thấp hơn thép, có thể cho phép tạo sản phẩm có độ cứng cao, bền nhiệt, nước
và không bị ăn mòn điện hoá, hoá học, chịu mài mòn cao, ngoài ra tính phù hợp
về kích thước rất cao như: uốn dẻo, cưa cắt dễ, chiều dài tuỳ ý. Vì vây, nó hoàn
toàn có thể đáp ứng được là một vật liệu thay thế vật liệu thép làm cốt neo chống
giữ công trình ngầm nói chung.
Song việc nghiên cứu ứng dụng về vật liệu polyme-compozit nói chung,
cũng như thanh cốt neo polyme-compozit cốt sợi thuỷ tinh và thanh cốt neo
polyme-clay nanocompozit cốt sợi thuỷ tinh nói riêng trong chống giữ công trình
ngầm ở nước ta chưa được đầu tư một cách thoả đáng, cho đến thời điểm hiện
nay vẫn chỉ dừng ở khảo sát, thăm dò vật liệu kết dính là polyme-compozit. Do
đó, việc nghiên cứu vật liệu polyme-clay nanocompozit để chế tạo thanh cốt neo
polyme-clay nanocompozit cốt sợi thuỷ tinh thay thế thanh cốt neo thép có cùng
mục đích sử dụng không những đảm bảo các yếu tố kỹ thuật, mà còn mang lại
hiệu quả kinh tế trong chống giữ công trình ngầm nói chung ở nước ta là hướng
nghiên cứu có nhiều triển vọng. Hình 1.3 là sơ đồ phân loại neo theo nguyên lý
liên kết làm việc, mà trong đó được bổ sung thêm bởi những kết quả nghiên cứu
của NCS qua từng luận án.
Hình 1.3. Sơ đồ phân loại neo theo nguyên lý liên kết
được bổ sung bởi kết quả nghiên cứu của luận án
6
1.2.VẬT LIỆU SỬ DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.2.1.Tình hình nghiên cứu công nghệ và chế tạo vật liệu nanocompozit
ở Việt Nam
Từ giữ những năm 1990, ở nước ta đã tập trung nghiên cứu công nghệ và
vật liệu nano. Trong những năm gần đây đã thu được một số thành tựu đáng kể
trong lĩnh vực công nghệ này như đã chế tạo được than nano lỏng tổng hợp từ
bột than, sản phẩm này dùng để chế tạo vi mạch cho chíp máy tính hoặc các linh
kiện bán dẫn, bên cạnh đó một số tác giả thuộc Viện khoa học Vật liệu – Viện
Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã tổng hợp được sợi nano cacbon bằng
phương pháp lắng đọng pha hơi, sử dụng nguyên liệu khí thiên nhiên.
Một số công ty sản xuất, kinh doanh ở trong nước cũng đã bắt đầu quan tâm
đến vật liệu nano và những sản phẩm được chế tạo từ nanocompozit để ứng dụng
trong công nghiệp điện tử, công nghiệp mỹ phẩm, công nghiệp làm màng bảo vệ...
cũng đã được các Công ty này đưa vào và phân phối trên thị trường Việt Nam.
Vật liệu polyme-clay nanocompozit được chế tạo từ nguồn nguyên liệu cơ
bản và quan trọng nhất đó claynano. Để có được nguyên liệu này thì phải xuất
phát từ khoáng sét bentonit và ở nước ta nguồn tài nguyên này rất đa dạng và
phong phú. Song, cho đến thời điểm hiện nay, tác giả luận án chưa tìm thấy tài
liệu công bố của cá nhân hoặc đơn vị nào ở Việt Nam về việc đã chủ động được
công nghệ chế tạo vật liệu claynano từ nguồn khoáng sét bentonit trong nước, để
ứng dụng chế tạo thanh cốt neo chống giữ công trình ngầm nói chung.
Thanh cốt neo nghiên cứu chế tạo trong luận án có những thành phần vật
liệu cơ bản sau đây:
- Nhựa nền: bao gồm nhựa polyme và claynano.
- Sợi thuỷ tinh gia cường.
- Một số chất phụ gia: chất pha loãng và đóng rắn…
Công nghệ chế tạo vật liệu polyme-clay nanocompozit trong luận án được
thực hiện theo các bước như sau:
Lựa chọn vật liệu khoáng sét bentonit có chứa montmorillonit hàm
lượng cao.
Hữu cơ hoá montmorillonit đã được lựa chọn.
Cho montmorillonit sau khi đươc hữu cơ hoá khuyếch tán vào
polyme bằng phương pháp trộn hợp cơ học.
Tạo vật liệu polyme-clay nanocompozit trạng thái xen lớp đến tách
lớp hoàn toàn (expholiated).
1.2.2. Khoáng sét bentonit
Bentonit là một loại khoáng tự nhiên mà thành phần chính là
montmorillonit có công thức hóa học Mx(Al4-xMgx)Si8O20(OH)4 và một số khoáng
sét khác như: saponit, nontronit, beidellit… Ngoài ra, người ta còn phát hiện
thấy trong bentonit còn có một số khoáng chất khác nữa như: kaolinit, clorit,
mica và một số khoáng phi sét như: canxit, pirit, thạch cao…, các muối kiềm và
các chất hữu cơ. Bentonit thường được gọi theo tên khoáng vật chính là
montmorillonit (viết tắt là mont.).
7
Hình 1.4. Cấu trúc tinh thể lý tưởng của montmorillonit
Montmorillonit là aluminosilicat tự nhiên có cấu trúc lớp như hình 1.4, cấu
trúc này bao gồm 2 tấm tứ diện chứa Si và 1 tấm bát diện chứa Al hoặc Mg bị
kẹp giữa 2 tấm tứ diện. Các tấm này có chung các nguyên tử oxy ở đỉnh. Độ dày
của mỗi lớp mont. khoảng 9,6A0. Cấu trúc tinh thể được cấu tạo từ hai mạng lưới
tứ diện liên kết với một mạng lưới bát diện ở giữa tạo nên một lớp cấu trúc. Giữa
các lớp cấu trúc là các cation trao đổi và nước hấp phụ. Các lớp cấu trúc được
chồng xếp song song với nhau và tạo nên một mạng lưới không gian ba chiều
của tinh thể montmorillonit. Chiều dày một lớp cấu trúc của mont. khoảng
9,6A
0
. Nếu kể cả lớp cation trao đổi và nước hấp phụ thì chiều dày của một lớp
khoảng 15A0. Bằng cách trao đổi ion. Các phân tử nước dễ dàng xâm nhập
khoảng không gian giữa các lớp và làm thay đổi khoảng cách giữa chúng.
Khoảng cách này cùng với chiều dày của một lớp cấu trúc được gọi là khoảng
cách cơ bản, có thể thay đổi từ 10A0 đến 20A0 tuỳ thuộc vào lượng nước bị hấp
phụ vào khoảng không gian giữa hai lớp cấu trúc tinh thể. Khoảng cách này có
thể tăng đến gần 30A0 khi thay thế các cation trao đổi bởi các ion vô cơ phân
cực, các phức cơ kim, các phân tử oligome hữu cơ… Trong luận án, NCS đã
khảo sát, lựa chọn bentonit ở 4 tỉnh đó là Lâm Đồng, Bình Thuận, Thanh Hoá,
Phú Yên và có so sánh với bentonit thương phẩm của 2 Công ty nước ngoài.
1.2.3. Polyme - nhựa epoxy
Polyme nói chung trên thế giới cũng như ở trong nước đã được sử dụng
phổ biến làm nhựa nền trong chế tạo vật liệu compozit ở dạng nhựa nhiệt rắn
hoặc nhựa nhiệt dẻo, tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng của vật liệu, cũng như tính
phổ biến, thông dụng trên thị trường và sự đơn giản khi điều chỉnh tốc độ phản
ứng đóng rắn, để người ta lựa chọn polyme làm nhựa nền.
Như đã trình bày trong phần mở đầu, đó là thanh cốt neo polyme-clay
nanocompozit được nghiên cứu chế tạo cần